Soạn bài Mây và sóng của Ta-go, Soạn bài Mây và sóng là tài liệu bao gồm 2 mẫu bài soạn là: soạn ngắn gọn và soạn đầy đủ. Tài liệu được chúng tôi biên soạn theo
Mời các bạn học sinh lớp 9 cùng tham khảo bài Soạn văn Mây và sóng của Ta-go được Tài Liệu Học Thi đăng tải trong bài viết dưới đây.
Tài liệu bao gồm 2 mẫu bài soạn là: soạn ngắn gọn và soạn đầy đủ. Tài liệu được chúng tôi biên soạn theo nội dung trang 88 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 tập 2 giúp các bạn học sinh ôn tập, hiểu bài từ đó học tập tốt môn Văn để đạt được kết quả trong bài thi học kì 2 sắp tới. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm một dạng bài văn mẫu trong bài Mây và sóng như: cảm nhận về bài thơ Mây và sóng, phân tích tình mẫu tử trong bài Mây và sóng hay vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng. Mời các bạn cùng theo dõi trong bài viết dưới đây.
Xem Tắt
Soạn bài Mây và sóng đầy đủ
I. Kiến thức cơ bản
1. Vài nét về tác giả
– R. Ta-go (1861-1941) tên đầy đủ là Ra-bin-đra-nát Ta-go (Ra-bin-đra-nát nghĩa là Thần Thái Dương, dịch tên ông sang Tiếng Việt là Tạ Cơ Thái Dương)
– Quê quán: sinh tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ, trong 1 gia đình quý tộc
– Tuy tài năng nhưng số phận Ta-go gặp nhiều bất hạnh
– Sự nghiệp sáng tác:
+ Ta- go làm thơ từ rất sớm và cũng tham gia các hoạt động chính trị và xã hội
+ Năm 14 tuổi ông được đăng bài thơ “Tặng hội đền tín đồ Ấn Độ giáo”
+ Vào năm 1913, ông trở thành người Châu Á đầu tiên được trao Giải Nobel Văn học với tập “Thơ dâng”
+ Ta-go đã để lại cho nhân loại gia tài văn hóa đồ sộ: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết, khoảng 100 truyện ngắn, trên 1500 bức họa và nhiều bút kí, luận văn…
+ Một số tác phẩm tiêu biểu: Tập thơ Người làm vườn, tập Trăng non, tập Thơ dâng…
– Phong cách sáng tác: Đối với văn xuôi, Ta-go đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục. Về thơ ca, những tác phẩm của ông thể hiện tinh thần dân tộc và dân chủ sâu sắc, tinh thần nhân văn cao cả và chất trữ tình triết lí nồng đượm; sử dụng thành công những hình ảnh thiên nhiên mang ý nghĩa tượng trưng, hình thức so sánh, liên tưởng về thủ pháp trùng điệp.
2. Tác phẩm
* Hoàn cảnh sáng tác
– “Mây và sóng” được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập thơ Si-su (Trẻ thơ), xuất bản năm 1909 và được Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập Trăng non xuất bản năm 1915.
* Bố cục: 2 phần
– Phần 1: (Từ đầu đến “xanh thẳm”): Cuộc trò chuyện của em bé với mây và mẹ
– Phần 2: (Còn lại): Cuộc trò chuyện của em bé với sóng và mẹ.
* Giá trị nội dung
– Thông qua cuộc trò chuyện của em bé với mẹ, bài thơ Mây và sóng của Ta-go ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc
– Bài thơ chứa đựng những triết lí giản dị nhưng đúng đắn về hạnh phúc trong cuộc đời
*Giá trị nghệ thuật
– Sử dụng hình ảnh mang giàu chất trữ tình mang ý nghĩa biểu tượng
– Kết cấu bài thơ như một câu chuyện kể tạo ấn tượng thú vị với hình thức đối thoại lồng trong lời kể của em bé
– Nghệ thuật đối lập, ẩn dụ, nhân hóa….
3. Bài thơ có hai phần, cấu trúc khá giống nhau:
– Ban đầu là thuật lại lời rủ rê
– Tiếp đến thuật lại lời từ chối và lý do từ chối.
– Những trò chơi do em bé sáng tạo.
– Mới thoạt nhìn, tưởng như đó là hai đoạn thơ độc lập bởi đoạn nào cũng đủ ý, diễn tả trọn vẹn một sự việc xảy ra giữa em bé và thiên nhiên bè bạn. Tưởng như việc loại bỏ bớt đoạn thứ hai không ảnh hưởng nhiều đến ý nghĩa chung của cả bài thơ.
– Tuy nhiên, mỗi tác phẩm văn học là một cấu trúc thống nhất. Việc tác giả lặp đi lặp lại một kiểu cấu trúc, một ý tưởng hẳn là phải có lý do nào đó. Điều này có thể giải thích qua những đặc điểm tâm lý, tính cách của một cậu bé. Đã là trẻ con ai chẳng ham chơi. Những trò chơi của bạn bè đồng trang lứa có sức hấp dẫn thật kỳ lạ. Việc bạn bè đến rủ đi chơi có thể coi là những thử thách.
– Với thử thách thứ nhất, chú bé đã vượt qua bởi vì chú luôn yêu mẹ. Chú nghĩ đến việc mẹ đang đợi chú ở nhà và từ chối.
– Nhưng những người bạn lại đến rủ đi chơi. Lúc này là một thử thách thực sự đối với tâm tính của một chú bé. Cũng như lần trước, chú lại băn khoăn: “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Những người bạn lại nhiệt tình chỉ đường. Nhưng một lần nữa chú bé lại từ chối vì lòng yêu mẹ: “Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà…”. Thử thách càng lớn thì lòng yêu mẹ của chú bé lại càng được chứng minh, được củng cố. Như vậy, việc nêu ra sự việc thứ hai (cũng là thử thách thứ hai) càng chứng tỏ tình yêu tha thiết của chú bé đối với mẹ. Trong trường hợp này, khổ thơ thứ hai có tác động trùng điệp, hô ứng, khẳng định những tình cảm đã được thể hiện trong thử thách thứ nhất. Bởi vậy, không thể bỏ khổ thơ thứ hai đi được.
4. Trong cả hai lần, khi những người bạn đến rủ rê, chú bé đều hỏi lại:
“Con hỏi: Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”.
“Con hỏi: Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”.
Hỏi và được nghe trả lời, hướng dẫn chu đáo. Chi tiết này chứng tỏ tính xác thực, hấp dẫn của bài thơ. Trẻ con nào mà chẳng ham chơi. Khi nghe những lời mời gọi, lần nào chú bé cũng tỏ ra băn khoăn. Mặc dù vậy, tình yêu mẹ vẫn luôn chiến thắng. Chỉ cần nghĩ đến việc mẹ đang đợi ở nhà, mẹ không muốn chú đi chơi, chú bé đã nhất định từ chối những lời rủ rê dù những trò chơi ấy hấp dẫn đến đâu chăng nữa.
5. Có thể nhận thấy những trò chơi chú bé sáng tạo ra không có gì đặc biệt:
“Con là mây và mẹ sẽ là trăng
Hai bàn tay con ôm lấy mẹ, và mái nhà ta là bầu trời xanh thẳm”.
“Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kỳ lạ
Con lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ”.
thậm chí có thể coi đó không phải là những trò chơi đúng nghĩa. Nhưng có sao đâu, điều quan trọng nhất đối với chú bé là luôn được ở bên cạnh mẹ, có thể biểu hiện tình yêu đối với mẹ. “Hai bàn tay con ôm lấy mẹ”, “Con lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ”. Quả là những trò chơi thật kỳ lạ, chúng cho thấy tình cảm mẹ con nồng ấm, thân thiết đến mức nào.
6. Mây, trăng, sóng, bờ biển, bầu trời là những hình ảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng.
Nhưng ai là người đang đến rủ chú bé đi chơi? “Trong mây có người gọi con”, “Trên sóng có người gọi con”. Thực ra đó chỉ là những âm thanh do chú bé tưởng tượng ra. Trên mây là tiếng của mây, trong sóng là tiếng của sóng. Hai hình ảnh đó có thể coi là biểu tượng của cuộc sống rộn rã, cuốn hút xung quanh, có sức cuốn hút kì lạ đối với mỗi con người, đặc biệt là với một chú bé. Đó là những hình ảnh ẩn dụ.
7. “Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta đang ở đâu”
Yêu mẹ, chú bé đã bày ra những trò chơi mà người tham gia chỉ là hai mẹ con. Đây không đơn giản là một ước muốn biệt lập, tách rời cuộc sống xung quanh mà là một tình yêu vô cùng sâu sắc, đằm thắm của chú bé đối với mẹ. Tình yêu ấy vượt lên trên cả những thú vui hằng ngày, thậm chí mãnh liệt đến mức lấn át tất cả những mối quan hệ khác. Chỉ cần hai mẹ con là đủ.
8. Ngoài ý nghĩa ca ngợi tình mẹ con, bài thơ gợi cho ta nhiều suy ngẫm:
Con người trong cuộc sống thường gặp những cám dỗ (nhất là với một đứa trẻ). Muốn khước từ chúng, cần có những điểm tựa vững chắc, trong đó tình mẫu tử là điểm tựa vững chắc nhất.
Hạnh phúc không phải là điều gì bí ẩn. Hạnh phúc ở ngay trên trần thế, do chính con người tạo dựng nên…
II. Rèn luyện kỹ năng
Luyện đọc thơ văn xuôi. Chú ý cách ngắt nhịp hợp lí.
Soạn bài Mây và sóng ngắn gọn
I. Bố cục:
– Phần 1 (từ đầu … xanh thẳm): Thuật lại cuộc trò chuyện với những người trên mây.
– Phần 2 (còn lại): Thuật lại cuộc trò chuyện những người trong sóng
II. Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
a) Bài thơ có cấu trúc hai phần khá giống nhau:
– Ban đầu là thuật lại lời rủ rê.
– Tiếp đến thuật lại lời từ chối và lí do từ chối.
– Cuối cùng là những trò chơi của em bé.
Mới thoạt nhìn, tưởng như đó là hai đoạn thơ độc lập bởi đoạn nào cũng đủ ý, diễn tả trọn vẹn một sự việc xảy ra giữa em bé và thiên nhiên bè bạn. Tưởng như việc loại bỏ bớt đoạn thứ hai không ảnh hưởng nhiều đến ý nghĩa chung của cả bài thơ.
Tuy nhiên, mỗi tác phẩm văn học là một cấu trúc thống nhất. Việc tác giả lặp đi lặp lại một kiểu cấu trúc là nhằm thể hiện trọn vẹn và đầy đủ chủ đề của tác phẩm.
b) Hai phần giống nhau về số dòng thơ, có sự lặp lại một số từ ngữ, cấu trúc, cách xây dựng hình ảnh nhưng không hoàn toàn trùng lặp.
– Lời tâm tình của bé đặt trong hai tình huống thử thách khác nhau, diễn tả tình cảm dạt dào, dâng trào của em bé.
– Qua lời từ chối, bé đã thể hiện tình thương yêu mẹ qua những trò chơi bé tự nghĩ ra, tình thương yêu ấy mới càng trở nên nổi bật. Sự thử thách càng lớn thì lòng yêu mẹ của em bé càng được chứng minh, được củng cố. Trò chơi em bé nghĩ ra càng thú vị hơn, càng thể hiện tình mẹ con thắm thiết thiêng liêng.
Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Dòng thơ “Con hỏi: …” được đặt sau lời mời, lời rủ rê và đặt trước lời đáp của những người trên mây và người trong sóng. Chi tiết này chứng tỏ tính xác thực, hấp dẫn của trò chơi. Trẻ con nào mà chẳng ham chơi. Khi nghe những lời mời gọi, lần nào chú bé cũng tỏ ra băn khoăn. Dù vậy, tình yêu mẹ vẫn luôn chiến thắng để từ chối những lời gọi.
Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Em bé đè nén ham muốn, từ chối những trò chơi của mây và sóng giữa thế giới tự nhiên không có nghĩa là ghét bỏ mây và sóng. Em đã nghĩ ra một hình thức hay hơn, một trò chơi thú vị để hòa hợp tình yêu thiên nhiên và tình mẫu tử: “Con sẽ là mây và mẹ là vầng trăng; Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ”.
– Những trò chơi mây và sóng do em bé tạo ra tuyệt diệu, hơn hẳn trò chơi của tự nhiên.
Câu 4 (trang 88 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
– Thành công nghệ thuật bài thơ trong xây dựng hình ảnh thiên nhiên:
– Mây, trăng, sóng, bờ, bầu trời… vốn đã là những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, chúng đều do trí tưởng tượng của em bé tạo ra nên càng lung linh kì ảo. Chúng cũng là những hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống rộn rã, cuốn hút xung quanh.
Câu 5 (trang 88 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Ý nghĩa câu thơ “Con lăn, lăn, lăn mãi…ở chốn nào”: Lòng mẹ bao la luôn sẵn sàng đón tiếp con. “Mẹ con ta” ở khắp mọi nơi, không ai tách rời được cũng là tình mẫu tử ở khắp mọi nơi, thiêng liêng, bất diệt.
Câu 6 (trang 88 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Ngoài ca ngợi tình mẹ con, bài thơ còn gợi suy ngẫm:
– Những cám dỗ cuộc đời là vô vàn, muốn khước từ chúng cần phải có điểm tựa vững chắc, tình cảm gia đình, tình mẫu tử chính là điểm tựa ấy.
– Hạnh phúc không xa xôi bí ẩn, nó ở quanh ta, do chúng ta tạo nên.