Bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng, Bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng là mẫu bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng do Bí thư chi bộ và cấp ủy
Xin giới thiệu đến các bạn Mẫu Bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng được Tài Liệu Học Thi sưu tầm và tổng hợp và đăng tải ngay sau đây.
Bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng là mẫu bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng do Bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở viết. Sau đây là nội dung chi tiết 2 mẫu bài thu hoạch, mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
Bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng – Mẫu 01
HUYỆN ỦY…………… |
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
BÀI THU HOẠCH
Lớp: Bồi dưỡng công tác Đảng cho Bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở
năm……
Họ và tên: ……………………………
Chức vụ: ……………………………
Đơn vị: ……………………………
Qua nghiên cứu chương trình bồi dưỡng công tác Đảng cho Bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở, các đ/c cần làm rõ các nội dung sau đây:
1/. Những vấn đề đ/c cảm nhận sâu sắc nhất, vì sao?
2/. Nội dung, chương trình, thời gian tổ chức lớp học có phù hợp, đáp ứng yêu cầu hay không?
3/. Những đề xuất, kiến nghị?
BÀI VIẾT
1/. Qua nghiên cứu chương trình bồi dưỡng công tác Đảng cho Bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở tôi nhận thấy rằng đây là lớp rất cần thiết cho Bí thư và cấp ủy viên cơ sở nhất là các chi Đảng bộ trong nhiệm kì mới(20..-20…). Lớp học đã được các báo cáo viên lần lượt trình bày với 6 nội dung thông qua 6 bài học đó là:
Bài 1: Chi bộ, Đảng bộ cơ sở lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Bài 2: Nhiệm vụ của chi ủy và công tác của Bí thư chi bộ.
Bài 3: Công tác tư tưởng của chi bộ, Đảng bộ cơ sở.
Bài 4: Công tác tổ chức của chi bộ, Đảng bộ cơ sở.
Bài 5: Công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, kỷ luật ở chi bộ, Đảng bộ cơ sở.
Bài 6: Công tác vận động nhân dân của chi bộ, Đảng bộ cơ sở.
Những nội dung trên có mối quan hệ biện chứng với nhau và tôi thấy đều rất cần thiết cho các tổ chức cơ sở Đảng, tuy nhiên nội dung mà tôi cảm nhận sâu sắc nhất đó là: Công tác vận động nhân dân của chi bộ, Đảng bộ cơ sở hay nói một cách ngắn gọn là công tác dân vận của các tổ chức cơ sở Đảng.
Trong bài viết về công tác Dân vận, đăng trên Báo Sự thật số 120 ngày 15-10-1949, với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Đã .….. năm trôi qua, kể từ khi Bác viết bài Dân vận (15-10-1949) nhưng Tư tưởng của Người về công tác Dân vận vẫn là ánh sáng soi đường cho Đảng và nhân dân ta trong thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tư tưởng về công tác Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hành công tác dân vận trong thực tiễn, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là cơ sở để tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong gần 8 thập kỷ qua. Tư tưởng đó đã được thực tiễn lịch sử khẳng định giá trị to lớn, và trở thành bài học quý báu trong kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam. Ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, công tác Dân vận cũng giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng. Thực hành công tác dân vận theo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta nhất là các tổ chức cơ sở Đảng vì đây là tổ chức gần dân nhất. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã phê phán mạnh mẽ, không khoan nhượng những quan điểm và thái độ sai lầm, hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và các giá trị văn hóa tinh thần của xã hội, là lực lượng đông đảo có sức mạnh quyết định sự thành bại của các cuộc cách mạng. Vai trò của các cuộc cách mạng như Mác nói là “những đầu tàu của lịch sử”. Do đó, quần chúng nhân dân chính là người quyết định vận mệnh của lịch sử, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Lê-nin cho rằng quần chúng là những người tuy ít thông hiểu lịch sử các cuộc cách mạng, nhưng lại có sứ mạng phá cái cũ dựng lên cái mới. Lê-nin đặc biệt chú ý đến vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Người, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được khi quần chúng đông đảo gấp 10, gấp 100 lần trước, tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới”. Điều đó hoàn toàn phù hợp, thống nhất với một quan điểm tổng quát có tính quy luật về vai trò ngày càng tăng của quần chúng nhân dân.
Tư tưởng về Dân và công tác Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự tiếp nhận và kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân bản truyền thống, với tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, đồng thời có sự vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh nước ta trong thời đại mới.
Tư tưởng về Dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất phong phú và sâu sắc, được thể hiện tập trung nhất, nổi bật nhất đó là Tư tưởng Dân chủ của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Dân chủ chính là cái cốt lõi nhất, bản chất nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Dân. “Nước ta là nước dân chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ”. Dân chủ theo Hồ Chí Minh, nghĩa là “Dân là chủ”, “nhân dân là người chủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, trước những khó khăn bề bộn, tại Đại hội lần thứ VI Đảng ta đã khẳng định lại chân lý “Lấy dân làm gốc”, đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, khẳng định chỗ dựa vững chắc và sức sáng tạo phong phú là ở nơi dân. Đó là sự kế tục và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân.
Nhờ thường xuyên được đổi mới, những năm qua, công tác dân vận đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc góp phần xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng; góp phần huy động và tăng cường sức mạnh của khối thống nhất, đại đoàn kết toàn dân; từ đó, tạo thành sức mạnh tổng thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh của đất nước ta. Mối quan hệ giữa những người làm công tác dân vận và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các tổ chức cơ sở đảng được tăng cường một bước. Sự tương hỗ giữa Ban Dân vận và tổ chức cơ sở đảng, cấp ủy các cấp ngày càng chứng tỏ được hiệu quả và giúp củng cố vị trí, vai trò của cả đôi bên, nâng cao chất lượng sâu sát cơ sở và nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; làm tốt công tác tham mưu, góp ý cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng; do vậy, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, cơ cấu kinh tế – xã hội đã và sẽ thay đổi. Do đó, bên cạnh sự thống nhất, thì chắc chắn sự khác biệt sẽ không nhỏ do lợi ích của cá nhân, hoặc của các tập đoàn, các địa phương có sự khác nhau, do cách suy nghĩ khác nhau, thậm chí có lúc có nơi đối lập nhau, hoặc không thống nhất với lợi ích cộng đồng. Vì thế đoàn kết và đấu tranh vì lợi ích cộng đồng là một trong những nội dung của công tác dân vận lúc này, và như thế công tác dân vận là “góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao phó” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. Có như vậy chúng ta mới động viên được sức mạnh bên trong của mỗi người dân và cả xã hội đồng tâm phấn đấu cho sự nghiệp chung của dân tộc.
Tuy nhiên, công tác dân vận hiện vẫn còn một số khó khăn, tồn tại:
Thứ nhất, trình độ và năng lực của một bộ phận cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán bộ ở vùng sâu, vùng xa chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra.
Thứ hai, ở một số nơi, sự phối hợp giữa đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận và cấp ủy các cấp chưa thực sự đồng bộ.
Thứ ba, chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận hiện vẫn còn bất cập v.v..
Để công tác dân vận thực sự đóng góp vào công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở có hiệu quả, góp phần tích cực phát huy được vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở đảng, củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy đại đoàn kết toàn dân tộc, Ban Dân vận Trung ương xác định, trong thời gian tới, cần làm tốt một số nhiệm vụ sau đây:
Một là, tiếp tục tổ chức, động viên nhân dân, hình thành, xây dựng, phát huy các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh gắn với việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân trên từng địa bàn, địa phương, cơ sở. Tùy từng địa bàn, lĩnh vực, Ban Dân vận phối hợp với tổ chức đảng nắm bắt, sâu sát tình hình thực tế, nhằm đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống ở địa phương một cách nhanh chóng. Căn cứ vào tình hình cụ thể ở cơ sở mà khởi xướng, phát động các phong trào, các cuộc vận động phù hợp với nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân. Nói cách khác, là đề ra chủ trương hợp lòng dân, với mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, thiết thực, có sự lãnh đạo của cấp ủy, sự phối hợp chỉ đạo giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội trong công tác dân vận; có cán bộ và lực lượng nòng cốt; có đầu tư điều kiện vật chất – kỹ thuật. Chính thông qua phong trào thi đua yêu nước của quần chúng mà thực hiện có kết quả công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, thấy được sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên và sự ủng hộ của quần chúng nhân dân đối với Đảng và chính quyền; đồng thời, cũng rút ra được những bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của tổ chức cơ sở đảng.
Hai là, phát huy vai trò công tác dân vận “dựa vào dân để xây dựng Đảng” bằng việc khuyến khích nhân dân tham gia góp ý kiến về sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ, về cán bộ, đảng viên trong các dịp tổng kết năm, đại hội chi bộ, đảng bộ; góp phần xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong Đảng. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn ở cơ sở để kiểm tra, phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Lắng nghe và vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về việc bố trí đảng viên vào các chức vụ lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và giới thiệu nhân sự cấp ủy ở cơ sở, cũng như việc xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp ủy và làm đúng quy trình, quy định của Đảng, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí; tổng kết, rút kinh nghiệm và cần thực hiện lời dạy của Bác Hồ “dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Ba là, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, để giới thiệu những đoàn viên ưu tú kết nạp vào Đảng, nhằm tăng thêm “sinh lực” cho Đảng, bảo đảm sự phát triển bền vững lâu dài. Phối hợp với các chi bộ, đảng bộ cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ các đoàn thể về công tác chính trị, tư tưởng trong đoàn viên, hội viên; quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh tới toàn thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân.
Bốn là, gắn thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là giải pháp cực kỳ quan trọng của công tác dân vận trong việc tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh hiện nay. Gắn thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền, cải cách hành chính, xây dựng các quy chế, quy định, đời sống văn hóa ở cơ sở, làng, bản, gia đình văn hóa, xây dựng hương ước, quy ước trong khuôn khổ của pháp luật, có nội dung thiết thực để điều chỉnh, phát huy những mối quan hệ, truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước, dân tộc và con người Việt Nam. Kết hợp thật tốt và nâng cao chất lượng hoạt động của dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Các hình thức dân chủ đại diện là kết quả của quá trình hoàn thiện cơ chế dân chủ, nhưng không loại trừ việc thực hiện dân chủ trực tiếp, làm tốt dân chủ trực tiếp sẽ làm cho dân chủ đại diện được thực hiện tốt hơn và ngược lại. Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở càng được coi trọng bao nhiêu thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng cơ sở được phát huy cao độ bấy nhiêu, thể hiện rõ ở việc lãnh đạo chính quyền quản lý các mặt hoạt động của cơ sở trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật, nên tổ chức cơ sở đảng cần lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể làm tốt công tác phổ biến pháp luật, nâng cao dân trí, giúp cho dân hiểu biết đúng đắn về chính sách, pháp luật để thực hiện quyền làm chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình, đồng thời hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện của cán bộ, đảng viên.
Năm là, công tác dân vận cần góp phần tích cực vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và cấp ủy nhằm tăng cường vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền cơ sở và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh cần thiết phải đổi mới việc ban hành, triển khai nghị quyết của đảng ủy cả về nội dung lẫn quy trình, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trong việc thực hiện những vấn đề lớn có quan hệ đến cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương như: định hướng quy hoạch đất đai và địa bàn dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải phóng mặt bằng để xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng khu công nghiệp, huy động sức dân để xây dựng các công trình công cộng… đều cần phải coi trọng và tiến hành các cuộc vận động nhân dân, thực chất là làm công tác dân vận. Đảng ủy bàn bạc tập thể và đề ra chủ trương định hướng; chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đề ra biện pháp tổ chức thực hiện theo quyền hạn và chức trách của mình, dưới sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của đảng ủy. Xây dựng quy chế làm việc và thực hiện có nền nếp chế độ làm việc giữa bí thư, chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân, bảo đảm cho cấp ủy quán xuyến được các mặt công tác ở xã, phường, thị trấn, trong đó có công tác dân vận.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông dân nước ta vẫn là một lực lượng rất to lớn. Vì vậy công tác vận động nông dân là quá trình tiếp tục nâng cao sự giác ngộ của nông dân về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Động viên nông dân phát huy quyền làm chủ và nội lực của mình, đoàn kết đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách về kinh tế, xã hội, rút ngắn khoảng cách giầu nghèo, giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và thành thị. Xây dựng Hội nông dân các cấp, nhất là ở cơ sở thành lực lượng trung tâm và nòng cốt trong phong trào nông dân phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới, thắt chặt khối liên minh công nhân-nông dân-trí thức trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Làm được như thế là thiết thực học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh./
…………
Bài thu hoạch lớp Bồi dưỡng công tác Đảng – Mẫu 02
HUYỆN ỦY…………….. TRUNG TÂM BD CHÍNH TRỊ |
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ———— |
BÀI THU HOẠCH
Lớp: Bồi dưỡng công tác Đảng cho Bí thư, phó bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở
Khóa…. – năm 20…..
Họ và tên: ……………………………………….
Chức vụ: . ……………………………………..
Đơn vị: ………………………………………….
Câu 1: Theo đồng chí và từ thực tiễn cơ sở đông chí cần đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở hiện nay như thế nào?
Trả lời:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trở thành Đảng cầm quyền, điều kiện hoạt động, quy mô, nội dung và nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng thay đổi căn bản, trọng trách của Đảng trước dân tộc nặng nề hơn, Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, phạm vi lãnh đạo, nhiệm vụ của Đảng trở nên rộng lớn, phức tạp hơn, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng cũng phải thay đổi cơ bản, những nguy cơ đối với Đảng cũng tăng lên. Là Đảng cầm quyền, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”. Cương lĩnh của Đảng đã xác định: “Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của phương thức lãnh đạo và yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị về hệ thống những hình thức, biện pháp, cách thức lãnh đạo và đã mang lại những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tốt hơn vai trò của Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.
Để nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, Đảng ta đã rất coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hiệu quả lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào nội dung lãnh đạo mà còn phụ thuộc vào phương thức lãnh đạo.
Trong tình hình kinh tế nước ta tiếp tục hội nhập, thì các tổ chức Đảng cần phải phải nâng cao năng lực lãnh đạo để thật sự trở thành hạt nhân lãnh đạo và các tổ chức đoàn thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm phát triển nhanh và bền vững.
Trong nhiều năm qua, các cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Xã Pơng Drang đã thực hiện tốt các phương thức lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu. Tại đợt bồi dưỡng này theo tôi về đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong giai đoạn hiện nay như sau:
Thứ nhất: Đổi mới công tác ban hành và triển khai thực hiện Nghị quyết:
Có thể nói Nghị quyết là sản phẩm trí tuệ của tập thể chi bộ, là phương tiện quan trọng để đảng thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức.
– Nghị quyết phải được xây dựng chi tiết đầy đủ các nội dung, như: Mục đích, yêu cầu, nội dung, thời gian thực hiện, kế hoạch, giải pháp thực hiện, phân công thực hiện. Đồng thời phải có sơ kết rút kinh nghiệm, tổng kết.
– Phải gắn trách nhiệm của từng đồng chí ủy viên đảng viên, từng chi bộ, huy động và giao nhiệm vụ cho các tổ chức đoàn thể vào việc triển khai Nghị quyết, từ đó làm căn cứ để nhận xét, đánh giá, phân loại đảng viên và cán bộ.
Thứ 2: Đổi mới trong công tác quản lý đảng viên:
Làm tốt công tác quản lý đảng viên là yếu tố quan trọng để xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh. Muốn quản lý đảng viên tốt, cần làm tốt các công việc sau:
– Trước hết là việc giao nhiệm vụ cho đảng viên, căn cứ 4 nhiệm vụ của người đảng viên, căn cứ vị trí công tác, nhiệm vụ chuyên môn, đoàn thể giao và đặc điểm tình hình thực tế để giao nhiệm vụ cho từng đảng viên bằng những công việc cụ thể. Giao nhiệm vụ đảng viên thực hiện hàng năm, căn cứ vào nhiệm vụ được giao, kết quả thực hiện nhiệm vụ để đánh giá, nhận xét, phân loại đảng viên. Thông qua việc giao nhiệm vụ đảng viên, các đảng viên ở các vị trí khác nhau đều nhận thức đầy đủ nhiệm vụ của mình để phấn đấu, từ đó thể hiện được tính tiền phong, gương mẫu, góp phần thúc đẩy quá trình tự phê bình và phê bình có chất lượng, mang tính xây dựng.
– Quản lý đảng viên còn cần phải nắm rõ diễn biến tư tưởng, những khó khăn vướng mắc trong cuộc sống của đảng viên. Công tác này phải xuất phát nơi gần gũi nhất với đảng viên. Cấp ủy phải xây dựng chế độ nắm và báo cáo tình hình đảng viên hàng tháng, quý, phải làm tốt công tác liên hệ với chi bộ tại nơi cư trú, từ đó đưa ra giải pháp kịp thời để chấn chỉnh uốn nắn, giáo dục, nâng cao chất lượng đảng viên.
Thứ 3: Đổi mới phương thức lãnh đạo các tổ chức đoàn thể:
Để việc lãnh đạo của đảng không rơi vào tình trạng: Hoặc là thiếu lãnh đạo, chỉ đạo hoặc là làm thay công việc của các tổ chức đoàn thể thì cần quan tâm đến một số nội dung sau:
– Xây dựng quy chế phối hợp: Quy chế phối hợp sẽ phân định rõ mối quan hệ, quyền và trách nhiệm, cách thức làm việc, chế độ sinh hoạt, trao đổi, phối hợp, từ đó tổ chức đảng thực hiện được vai trò lãnh đạo nhưng cũng đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp và các tổ chức đoàn thể thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức.
– Đảng lãnh đạo các tổ chức đoàn thể thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên mà đặc biệt là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu của tổ chức đó. Đảng phải làm tốt công tác cán bộ, xây dựng được bộ máy cán bộ các tổ chức đoàn thể vừa có năng lực chuyên môn vừa trung thành với Đảng, chấp hành nghiêm chủ trương đường lối của Đảng. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, cấp ủy chi bộ đã quan tâm củng cố, xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị; đồng thời bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo đủ về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng, phân công đảng viên tham gia các hoạt động để bám sát, theo dõi phong trào, kịp thời nắm bắt thông tin tham mưu cho cấp ủy, chi bộ.
…………
Tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết