Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm môn Lịch sử lớp 4, Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm
Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô giáo cùng các bạn đọc tham khảo tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm môn Lịch sử lớp 4.
Đây là tài liệu hữu ích nghiên cứu nội dung chương trình, mục tiêu của phân môn Lịch sử mối quan hệ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Thu nhập, tìm kiềm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau giúp học sinh có hứng thú khi học Lịch sử. Mời các bạn cùng theo dõi và tải tài liệu tại đây.
Sáng kiến kinh nghiệm:
Biện pháp nâng cao thảo luận nhóm môn Lịch sử lớp 4
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ta thấy rằng, việc dạy học lịch sử trong trường Tiểu học có nhiệm vụ vô cùng quan trọng cho việc giáo dục con người. Từ những kiến thức lịch sử, học sinh hiểu biết quá khứ, hiểu biết cội nguồn lịch sử, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Qua đó bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen ham học hỏi, tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh; yêu thiên nhiên, con người, đất nước và có ý thức bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di sản văn hoá gần gũi với các em.
Mục tiêu chương trình phân môn Lịch sử lớp 4 nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về: các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu, tương đối có hệ thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt nam từ buổi đầu dựng nước cho tới đầu thế kỉ XIX. Dạy lịch sử bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng: quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp. Nhận biết đúng các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử; trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,… Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
Phần lớn học sinh không thích học phân môn Lịch sử vì nội dung kiến thức quá dài, nhiều sự kiện khó nhớ, hơn nữa các em cho rằng đó chỉ là môn phụ, không quan trọng,… Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử, việc đổi mới phương pháp dạy của thầy và phương pháp học của trò là điều rất cần thiết. Có rất nhiều phương pháp giảng dạy tốt phân môn Lịch sử, trong đó “Thảo luận nhóm” là một trong những phương pháp giúp học sinh học tập có hiệu quả một cách nhanh nhất. Khi học theo nhóm học sinh sẽ được thảo luận theo từng vấn đề của bài học, đó là cơ hội cho mọi học sinh tham gia hoạt động học tập. Thảo luận nhóm cũng là cơ hội cho học sinh học hỏi lẫn nhau, hỗ trợ nhau về cách tìm kiếm giải pháp để giải quyết những tình huống trong bài học. Khi học theo nhóm, học sinh có thể cùng nhau đạt được những điều mà các em không làm được một mình mà phải giải quyết bằng cách là mọi người trong nhóm đóng góp một phần hiểu biết của mình rồi cả nhóm tập hợp thành một cách giải quyết tốt nhất nhiệm vụ nhận thức mà giáo viên giao. Qua đó tính tích cực, chủ động của học sinh được phát huy đến cao độ.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay, phương pháp học theo nhóm vẫn còn một số giáo viên chưa nắm vững, ít khi thực hiện hoặc có thực hiện thì cũng mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả tích cực của nó. Vì vậy nhiều năm qua bản thân tôi tìm hiểu thực trạng về phương pháp học nhóm để tìm những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương pháp này, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở nhà trường phổ thông.
Từ những nội dung phân tích trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng trong dạy học thảo luận nhóm môn Lịch sử lớp 4 làm đề tài nghiên cứu và thực hiện trong năm học này.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
– Mục tiêu :
Nghiên cứu nội dung chương trình, mục tiêu của phân môn Lịch sử mối quan hệ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Thu nhập, tìm kiềm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau giúp học sinh có hứng thú khi học Lịch sử.
– Nhiệm vụ của đề tài :
Nghiên cứu phương pháp dạy học môn Lịch sử từ đó tìm ra phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
Nghiên cứu các hoạt động để giúp học sinh thảo luận nhóm có hiệu quả.
Tìm ra các phương pháp dạy học phù hợp để nâng cao chất lượng học tập của học sinh và làm nền tảng vững chắc cho những năm học tiếp theo.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả giáo viên và học sinh lớp 4, trường Tiểu học……… huyện ……… – Tỉnh …….
4. Phạm vi nghiên cứu
Các dạng bài trong phân môn Lịch sử lớp 4.
Phương pháp dạy học theo nhóm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động (kết quả học tập của học sinh)
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Việc dạy Lịch sử trong nhà trường là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về lịch sử dân tộc qua các thời kì, giúp cho học sinh nhận thức được một cách rõ ràng, sâu sắc sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Thông qua những kiến thức lịch sử, giáo viên phân tích các sự kiện lịch sử, làm cho học sinh nhận thức rõ động lực phát triển của xã hội, thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân và của cá nhân trong lịch sử. Bằng những sự kiện lịch sử, giáo viên chọn lọc, phân tích, tái hiện lại quá khứ đúng như nó đã từng tồn tại nhằm khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh.
Người giáo viên là cầu nối để đưa các em đến gần hơn với những trang lịch sử hào hùng của ông cha ta. Nhưng làm được điều đó trước hết người giáo viên phải có kiến thức, am hiểu về lịch sử dân tộc và bản thân người giáo viên phải yêu mến, tự hào về lịch sử thì mới thực sự làm tròn trách nhiệm vẻ vang đó.
Nhưng hiện nay, việc dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm còn gặp một số hạn chế như sau:
Phần lớn các tiết có tổ chức thảo luận nhóm đều vượt quá thời gian một tiết dạy hoặc để đảm bảo thời gian thì giáo viên cắt xén thời gian của các phần, các khâu khác dẫn đến phân phối thời gian trong tiết dạy không hợp lí.
Thực hiện không đầy đủ các bước quy trình thảo luận nhóm như chỉ nêu câu hỏi cho học sinh thảo luận rồi cho các nhóm báo cáo. Sau đó giáo viên nhận xét đúng, sai, đầy đủ hay chưa đầy đủ nội dung của các nhóm và chốt ý. Làm như vậy sẽ thiếu một bước quan trọng là cho học sinh trong nhóm hoặc các nhóm khác nhận xét, bổ sung làm rõ vấn đề. Vì thế mỗi nhóm chỉ quan tâm đến câu hỏi của nhóm mình mà không cần biết đến câu hỏi của nhóm khác dẫn đến kết quả là học sinh nhận thức không đầy đủ nội dung bài học.
Một số giáo viên lại có quan niệm là tổ chức bao nhiêu nhóm thì phải đưa ra bấy nhiêu câu hỏi. Vì thế, khi các nhóm thảo luận và lần lượt báo cáo xong số câu trả lời giáo viên đưa ra, tổ chức cho các nhóm nhận xét, bổ sung chéo lẫn nhau, rồi giáo viên chốt lại thì cũng sắp hết thời gian tiết học. Phần thảo luận nhóm kéo quá dài như vậy sẽ gây nên tâm lí nhàm chán trong học sinh, tiết học rời rạc. Có giáo viên muốn rút ngắn thời gian thảo luận nhóm để đảm bảo thời gian tiết dạy bằng cách đưa ra những câu hỏi rất đơn giản ở dạng “câu hỏi đóng” (đúng, sai, có, không) hoặc nhìn vào sách giáo khoa hay nhìn ảnh là đã biết được nội dung trả lời, làm cho hoạt động thảo luận trở nên tẻ nhạt, mang tính hình thức. Học sinh trong nhóm không cần đóng góp ý kiến, chỉ cần một mình thư ký hoặc nhóm trưởng mở sách giáo khoa, ghi lại nội dung trả lời là xong, không cần phải xin ý kiến các bạn trong nhóm. Chưa có hình thức biện pháp kích thích đối với những học sinh ít hợp tác hoặc học yếu tham gia thảo luận nên trong nhóm chỉ có một số ít học sinh hoạt động.
Tổ chức quy mô nhóm không hợp lí: một lớp học có khoảng 32 học sinh mà chỉ tổ chức 4 nhóm thì rất khó thảo luận, nhiều học sinh không có chỗ ngồi, phải đứng vây quanh gây mất trật tự và chỉ mang tính hình thức.
2. Thực trạng
a) Thuận lợi, khó khăn
– Thuận lợi:
Luôn được sự quan tâm của các cấp và nhà trường, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh về cơ sở vật chất. Đồ dùng dạy học cũng được trang bị tương đối đầy đủ.
Bản thân đã dạy lớp Bốn nhiều năm cũng có chút ít kinh nghiệm trong giảng dạy. Học sinh đã có ý thức học tập, ham học hỏi, chuyên cần.
Hiện nay đã có nhiều nguồn thông tin, sách báo để giáo viên tham khảo, nghiên cứu, tự học để nâng cao tay nghề. Nội dung chương trình đã được lựa chọn biên soạn phù hợp với lứa tuổi học sinh và được sắp xếp theo dòng thời gian, giai đoạn lịch sử giúp các em dễ dàng tiếp cận và ham thích học lịch sử.
Màu sắc, hình ảnh, kênh hình, kênh chữ,… trong sách giáo khoa sinh động, hài hòa. Trong mỗi bài học có câu hỏi in nghiêng giúp giáo viên tổ chức cho học sinh khai thác thông tin dễ dàng, cuối bài có phần nội dung bài học được in đậm bằng chữ màu giúp học sinh dễ nhớ.
– Khó khăn:
Về giáo viên: Ngại dạy phân môn Lịch sử do không nắm chắc các nhân vật, sự kiện lịch sử.
Về học sinh: Đa số các em chỉ dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt, chưa coi trọng học lịch sử, xem đây là phân môn phụ. Một số em chưa hiểu được ý nghĩa của môn học nên chưa có ý thức tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử.
b) Thành công, hạn chế
– Thành công
Sau khi thực hiện đề tài giáo viên yêu thích phân môn này hơn, có nhiều hiểu biết sâu hơn về nội dung chương trình, phương pháp dạy học theo nhóm và một số kinh nghiệm trong dạy Lịch sử cho học sinh.
Học sinh yêu thích và quan tâm đều tất cả các môn học, có hứng thú học và tìm hiểu lịch sử, đặc biệt các em tự hào, yêu quý con người và đất nước Việt Nam hơn.
– Hạn chế
Một số giáo viên còn lúng túng trong tổ chức học theo nhóm; chưa hướng dẫn các em khai thác triệt để các kênh hình, kênh chữ sách giáo khoa, mới chỉ dừng lại mức độ giới thiệu là chủ yếu.
c) Mặt mạnh, mặt yếu
– Mặt mạnh
Đa số giáo viên khối 4 đều có thể chủ động tổ chức được phương pháp dạy học theo nhóm một cách thành thạo, tự tin.
Học sinh mạnh dạn, tự tin có thể làm nhóm trưởng hay phát thanh viên mà không hề e ngại. Phát huy được tinh thần hợp tác, đoàn kết giải quyết được tình huống đưa ra. Giúp giáo viên tích lũy được vốn kiến thức về Lịch sử Việt Nam.
– Mặt yếu
Cách tổ chức dạy học theo nhóm của một số ít giáo viên vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn.
d) Nguyên nhân
– Nguyên nhân của thành công
Có cách tổ chức hoạt động nhóm khoa học, đúng đối tượng. Khai thác được các thông tin trong bài học.
Có kĩ năng quản lý các nhóm học sinh tốt.
– Nguyên nhân của hạn chế và yếu kém
Nhiều giáo viên chưa nắm được tư liệu, số liệu, nhân chứng, vật chứng cụ thể.
Trang thiết bị phục vụ cho môn học này chưa đầy đủ. Giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu, chưa nhiệt tình trong các giờ dạy. Hình thức tổ chức thảo luận nhóm còn mang tính hình thức, rập khuôn. Bản thân giáo viên còn xem nhẹ môn học này hơn Toán, Tiếng Việt.
e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Trường Tiểu học……… nằm ngay trung tâm thị trấn Buôn Trấp trình độ dân trí tương đối cao. Chính vì lẽ đó mà việc quan tâm đến học tập của các cháu được cha mẹ các em hết sức coi trọng nên việc nâng cao chất lượng giáo dục phần nào cũng thuận lợi hơn, các em có đầy đủ điều kiện cho việc học. Nhiều em có tinh thần tự giác, hợp tác cao, ham tìm hiểu về lịch sử dân tộc. Mặt khác nhiều học sinh có tâm lí thích được làm nhóm trưởng, được thể hiện mình với các bạn. Đặc biệt các em rất thích nghe, hiểu những trận đánh của cha ông ngày xưa nên rất thuận lợi cho giáo viên dạy học phân môn này.
Giáo viên luôn chủ động tìm tòi kiến thức qua sách, báo, mạng để phục vụ cho tiết dạy. Nghiên cứu, thiết kế bài dạy phù hợp với đối tượng học sinh nên chất lượng dạy học ngày một nâng cao.
Mặt khác, trong địa bàn vẫn còn nhiều gia đình học sinh thuộc diện nghèo, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa ít quan tâm theo dõi đến việc học của con em mình. Trường có 2 điểm trường, trong đó phân hiệu Buôn Trấp hầu hết các em là học sinh dân tộc Ê-đê, một số em chưa nói rành tiếng Việt, nên việc tiếp thu bài cũng gặp nhiều khó khăn. Các em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học, chưa có khả năng tự học, tự rèn. Khả năng tư duy ở một số học sinh còn hạn chế. Do vậy, việc tiếp thu bài, tính tự giác, khả năng quản lý, tổ chức của một số em còn hạn chế.
Một số giáo viên ngại tổ chức thảo luận nhóm vì sợ mất nhiều thời gian, rườm rà, khó quản lý học sinh. Trong khi học sinh thảo luận nhóm còn làm việc riêng chưa kích thích được tính tự quản của các em. Chưa nghiên cứu hoạt động nào cần thảo luận nhóm, hoạt động nào không cần thảo luận nhóm dẫn đến chất lượng thảo luận nhóm nhiều lúc chưa cao.
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Nhằm nâng cao hiệu quả thảo luận nhóm trong giảng dạy phân môn Lịch sử.
Trình bày được kết quả thảo luận nhóm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ.
Xác định đầy đủ mục tiêu của từng bài học, từng hoạt động.
Vận dụng được các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.1. Giúp giáo viên hiểu được ý nghĩa, vai trò của hoạt động nhóm
Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ. Đây là một PPDH mà “Học sinh được phân chia thành từng nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nghiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung”.
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học; tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau; cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung. Kết quả làm việc của nhóm sẽ được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của học sinh.
Trong quá trình dạy học, tuỳ theo số lượng học sinh trong lớp, nội dung học tập mà giáo viên chia thành bao nhiêu nhóm, số lượng thành viên trong nhóm. Giáo viên không nên chia nhóm có số lượng nhiều vì như vậy các thành viên không có cơ hội để thể hiện ý kiến của mình và giáo viên khó quản lý.
b.2. Xác định mục tiêu của hoạt động nhóm trong thiết kế bài soạn
Khi soạn bài, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung từng bài để xem thử bài nào có thể vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm.
Đối với các bài học có nội dung trừu tường hoặc hệ thống kênh hình nhiều, câu hỏi có độ khó, có hướng mở đòi hỏi cần phải nhiều thời gian và nhiều người tham gia thảo luận, tranh cãi mới vỡ lẽ ra vấn đề thì giáo viên nên thiết kế để tổ chức cho các em hoạt động nhóm.
Trước khi hoạt động nhóm vào một bài dạy giáo viên cần phải nắm được:
Mục tiêu của hoạt động nhóm trong bài này là gì ?
Hoạt động nào cần thảo luận nhóm ?
Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian ?
Thời gian còn lại đủ để hoàn thành bài dạy không ?
Hoạt động này yêu cầu giáo viên và học sinh chuẩn bị những phương tiện, thiết bị gì ?
Học sinh cần phải tham khảo trước những tài liệu gì ?
b.3. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi để tổ chức cho học siuh thảo luận
Việc chuẩn bị câu hỏi cho các nhóm thảo luận là một khâu quan trọng. Nếu như câu hỏi quá đơn giản sẽ làm cho thời gian thảo luận buồn tẻ và rất dễ đi đến tình trạng thờ ơ của nhiều học sinh. Do đó, nên chuẩn bị những “câu hỏi mở” tức là câu hỏi có nhiều hướng phát triển, nhiều cách lí giải, đòi hỏi học sinh phải tư duy và trình bày nhiều ý kiến, thậm chí có phần tranh luận để tìm ra kết quả đúng nhất thì mới lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia.
Mặt khác khi chọn vấn đề thảo luận cần chú ý xem xét, nghiên cứu xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì suy nghĩ gì về vấn đề giáo viên đưa ra để tránh trường hợp quá sức với học sinh thì hoạt động thảo luận cũng mất đi ý nghĩa.
Nội dung thảo luận có thể lấy từ các câu hỏi khó trong sách giáo khoa hoặc khi khai thác tình huống mâu thuẫn trong lúc giảng bài để cho học sinh thảo luận tìm phương án giải quyết.
Ví dụ: Khi dạy bài Nhà Lí dời đô ra Thăng Long, giáo viên có thể cho học sinh thảo luận câu hỏi: “Vì sao Lí Thái tổ chọn vùng đất Đại La làm Kinh đô ? ”
Các câu hỏi thảo luận nên cân nhắc kỹ và chuẩn bị trong phiếu học tập, hoặc viết sẵn trong bảng phụ. Những câu hỏi cần phải tham khảo tài liệu mới trả lời được thì giáo viên nên cho học sinh tham khảo thêm tài liệu. Cần lưu ý là mức độ và dung lượng kiến thức trong mỗi câu hỏi phải tương đối đồng đều với nhau, tránh trường hợp giao cho nhóm này câu hỏi quá dễ trong khi nhóm kia lại câu hỏi quá khó ( hoặc giáo viên cho câu hỏi theo nhóm đối tượng học sinh sao cho phù hợp).
b.4. Quy trình thực hiện khi tiến hành thảo luận nhóm
* Chia nhóm
Trong tiết học, nếu có nhiều nội dung, ta nên thay đổi hình thức nhóm, tạo ra cái mới, không khí học tập vui vẻ hơn. Giáo viên nên chú ý đặc điểm của học sinh (trình độ, thái độ, tính cách, giới tính…) để cơ cấu nhóm cho phù hợp. Các hình thức xếp nhóm cụ thể :
– Nhóm nhỏ (2 – 3 học sinh): Thường dùng khi cần học sinh trao đổi, thảo luận những vấn đề cụ thể, đơn giản, thời gian ngắn.
– Nhóm ghép đôi : Dùng để nghiên cứu, phân tích, trao đổi về một số vấn đề phức tạp đòi hỏi có sự cộng tác cao.
– Nhóm 4 – 6 học sinh: Dùng khi học sinh trao đổi ý kiến hoặc thực hành một công việc cụ thể đòi hỏi nỗ lực chung của cả nhóm khi tiến hành thảo luận.
– Nhóm 6 – 8 học sinh: Dùng khi thảo luận với nội dung có nhiều vấn đề, nhiều quan điểm trong khả năng giải quyết của học sinh, các vấn đề cần so sánh hay đi sâu hơn vào một nội dung đã thảo luận ở nhóm nhỏ nhưng khó thực hiện chung cho cả lớp.
– Nhóm xuất phát và nhóm chuyên sâu: Dùng khi thu thập thông tin và các vấn đề thảo luận, rèn luyện kỹ năng xử lý và trình bày thông tin.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, xếp từ 4 đến 6 học sinh vào một nhóm là hợp lí, có hiệu quả nhất và nhanh nhất vì khi giáo viên yêu cầu thảo luận nhóm thì từng cặp bàn (loại bàn 2 chỗ ngồi tương ứng với một nhóm 4 học sinh) quay lại với nhau là xong, ít tốn thời gian di chuyển và không gây mất trật tự. Mặt khác, nhóm có ít học sinh thì càng có ít học sinh chơi nên mỗi học sinh đều phải hoạt động, không có học sinh đứng ngoài lề và có ít học sinh thì sự thống nhất ý kiến càng nhanh, đỡ tốn thời gian.
Số lượng nhóm ít nhất phải gấp đôi số lượng câu hỏi thảo luận. Nghĩa là một câu hỏi thì phải có ít nhất hai nhóm cùng thảo luận câu hỏi đó thì mới thực hiện được khâu quan trọng tiếp theo là nhận xét đánh giá lẫn nhau giữa các nhóm. Nhóm này có ý kiến thảo luận khác nhóm bạn, hoặc tìm ra đáp án hợp lí hơn nhóm bạn thì hoạt động thảo luận mới sôi nổi.
* Cử nhóm trưởng và thư kí điều hành hoạt động của nhóm
Thường ngày từ các tiết học đầu năm, tôi đã hướng dẫn và tổ chức cho các em hiểu được chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hoạt động nhóm, cụ thể:
+ Trưởng nhóm : chỉ đạo, điều hành nhóm hoạt động.
+ Thư kí : Ghi lại kết quả của nhóm sau khi được thống nhất.
+ Báo cáo viên: trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm.
Báo cáo viên có thể là trưởng nhóm hoặc có thể là 01 thành viên bất kì có kĩ năng nói tốt lên trình bày. Như vậy sẽ giúp các em tự tin, mạnh dạn và phấn khởi khi được thực hiện nhiệm vụ.
Vì vậy, sau khi chia nhóm, giáo viên cho các em hội ý để cử nhóm trưởng, thư kí. Trách nhiệm này không phải cố định mà phải được thay đổi luân phiên sau mỗi lần sinh hoạt nhóm hoặc định kỳ do giáo viên hoặc tổ quy định. Nghĩa là mỗi thành viên đều được làm tổ trưởng, làm thư ký, làm báo cáo viên.
* Giao việc cho các nhóm:
Giáo viên phổ biến rõ các câu hỏi thảo luận cho từng nhóm đã được chuẩn bị sẵn trong bảng nhóm hoặc phiếu học tập, giải thích rõ yêu cầu thực hiện cho từng câu hỏi để học sinh đi đúng hướng và qui định thời gian thảo luận sao cho hợp lí
Nhiệm vụ giao cho mỗi nhóm phải rõ ràng, ngắn gọn, đủ để các thành viên hiểu rõ về nhiệm vụ cụ thể của tổ mình phải làm gì, làm trong thời gian bao lâu; nếu cần giáo viên có thể giải thích thêm một vài từ ngữ, khái niệm…, kiểm tra thử một vài thành viên xem các em có hiểu được nhiệm vụ được giao hay chưa. Giáo viên cần gợi ý cho các nhóm để các bạn lâu nay ít được phát biểu, ít được đề đạt ý kiến của mình có quyền đưa ra câu trả lời trước nhất.
Trong thời gian các nhóm thảo luận, giáo viên tuyệt đối không được làm việc riêng mà phải thường xuyên đi kiểm tra hoạt động của từng nhóm để nắm được em nào hoạt động, em nào không hoạt động và lắng nghe các em trao đổi có đúng hướng không để hướng dẫn kịp thời, còn nếu phát hiện có thành viên trong nhóm không tham gia hoạt động, giáo viên có thể yêu cầu em đó tham gia phát biểu.
Ví dụ: “Theo em các bạn đưa ra ý kiến như vậy em có đồng ý không nếu không em hãy đưa ra ý kiến của mình ”.
Nếu thấy nhóm nào gặp khó khăn, giáo viên không giải đáp thắc mắc ngay mà chỉ nên giúp học sinh hướng tư duy hoặc cung cấp các nguồn dữ liệu, tư liệu cần thiết cho việc làm sáng tỏ vấn đề.
Ví dụ: Để giúp học sinh giải thích được “Vì sao Lí Thái Tổ chọn vùng đất Đại La làm Kinh đô ? ” giáo viên có thể gợi ý cho học sinh. Nếu học sinh chưa rút ra được vấn đề, giáo viên có thể đưa ra một vài gợi ý tiếp theo như: Lí Thái Tổ ghé thăm thành cổ Đại La và ông thấy vùng đất này như thế nào ? Ông mong muốn điều gì ? Vì sao Lí Thái Tổ làm như vậy ? Để cuối cùng học sinh rút ra được tất cả là vì lòng yêu nước, thương dân mong muốn cho con cháu đời sau xây dựng được cuộc sống ấm no. Giáo viên nên dành sự giúp đỡ cho các nhóm là như nhau. ( nếu các nhóm có trình độ đồng đều ) Hoặc dành thời gian nhiều hơn cho một nhóm hay một cá nhân nào đó tùy vào lực học của các em.
* Tổ chức báo cáo:
Hết thời gian thảo luận, giáo viên có thể yêu cầu bất kì em nào trong nhóm trình bày kết quả thảo luận. Tùy nội dung câu hỏi, tùy điều kiện từng trường học sinh có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau như dùng đèn chiếu, bảng phụ, giấy khổ to hoặc kết hợp với chỉ lược đồ, tranh ảnh … Khi học sinh các nhóm lên trình bày giáo viên không nên đưa ra câu hỏi chất vấn hoặc nhận xét đúng, sai ngay lập tức sẽ làm cho học sinh lúng túng, mà phải để cho cả lớp cùng nhận xét.
Nếu bài dài, để tiết kiệm thời gian, mỗi câu hỏi thảo luận giáo viên chỉ yêu cầu một vài nhóm trình bày (nếu các nhóm cùng thảo luận một câu hỏi), các nhóm không được yêu cầu trình bày kết quả thì có nhiệm vụ nhận xét, bổ sung phần trình bày của nhóm bạn nhằm đảm bảo tất cả có cơ hội đóng góp ý kiến trong tiết học, qua đó giáo viên cũng đánh giá được kết quả làm việc của các nhóm. Khi học sinh các nhóm khác nhận xét, bổ sung, giáo viên phải lắng nghe cẩn thận và ghi tóm tắt lên bảng những điểm cơ bản của mỗi ý kiến phát biểu để phát hiện những mâu thuẫn giữa các ý kiến, nếu có ý kiến khác nhau thì kịp thời nêu vấn đề cho học sinh giải quyết.
Khi các nhóm không còn ý kiến bổ sung, giáo viên nên dành đủ một khoảng thời gian để nhận xét các ý kiến của học sinh và thực hiện một quá trình phản hồi đầy đủ và hoàn chỉnh các thông tin mà học sinh cần ghi nhớ, giáo viên nên chuẩn bị sẵn trong bảng nhóm hoặc ghi bảng, sau đó đặt câu hỏi kiểm tra một số em, xem các em đã nắm được vấn đề hay chưa. Cuối cùng, giáo viên cũng nên khuyến khích, động viên học sinh tiếp tục tham gia phát biểu trong những lần sau bằng cách tỏ thái độ hài lòng, thích thú, khen ngợi kịp thời những câu trả lời của học sinh, hoặc cho điểm những học sinh xuất sắc.
b.5. Thay đổi hình thức dạy học theo nhóm
Hoạt động thảo luận nhóm còn được thể hiện ở những trò chơi Lịch sử (trò chơi ô chữ, ai nhanh hơn ai cho nhóm 2 học sinh, trò chơi ngôi sao may mắn, theo dòng lịch sử cho nhóm 4- 6 học sinh . . .), nhất là ở các bài dạy có áp dụng công nghệ thông tin.
Để làm rõ hơn phần trình bày ở trên, tôi xin nêu một vài ví dụ cụ thể sau:
Ví dụ 1: Khi dạy bài Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (PPCT 5)
Đối với bài này tôi cho học sinh thảo luận ở hoạt động 2
Ở hoạt động này học sinh cần đạt được hai mục tiêu:
– Biết kể lại những nét chính về diễn biến của trần Bạch Đằng, biết được ý nghĩa trận Bạch Đằng
– Học sinh có khả năng phân tích, nhận xét, giải thích.
Trước tiên giáo viên cho học sinh tìm hiểu vì sao có trận Bạch Đằng
Yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa từ “Mũi tiến công chính đến hết bài” và phát phiếu học tập:
+ Ngô Quyền đã dùng kế gì để đánh giặc? Kết quả ra sao?
Giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa, câu hỏi viết lên phiếu học tập.
Dự kiến thời gian thích hợp cho hoạt động nhóm: 2 phút
Chuẩn bị đồ dùng học tập: bảng phụ, phiếu học tập, bút dạ
Tổ chức nhóm: Tôi chia 6 nhóm, mỗi nhóm 5 em gồm 2 bàn
Tiến hành hoạt động:
Giáo viên nêu yêu cầu, giao nhiệm vụ
Phát phiếu học tập, bút, quy định thời gian hoàn thành hoạt động
Giáo viên yêu cầu các nhóm tự cử nhóm trưởng, thư kí.( luân phiên nhau)
Giáo viên giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Yêu cầu các nhóm ngồi vào vị trí (Từng cặp bàn quay lại với nhau )
Giáo viên đi quan sát hoạt động của từng nhóm để uốn nắn kịp thời.
Nhắc sắp hết thời gian.
Kết thúc hoạt động:
Giáo viên yêu cầu học sinh quay về vị trí ban đầu. Gọi đại diện một số nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình.
Yêu cầu học sinh nhóm này nhận xét kết quả thảo luận của nhóm bạn cho cả lớp nghe. Nhóm khác có ý kiến bổ sung, nhận xét (hoặc ngược lại).
Giáo viên yêu cầu cả lớp bổ sung nếu thấy chưa đủ. Các ý kiến bổ sung giáo viên ghi tóm tắt nhanh lên bảng.
Sau khi các nhóm trình bày xong và học sinh không còn ý kiến, giáo viên treo kết quả hoàn chỉnh và đối chiếu lại với kết quả thảo luận của từng nhóm để nhận xét, khen ngợi những ý kiến bổ sung đúng.
Cuối cùng giáo viên có thể chốt phần này bằng câu hỏi:
Vậy Chiến thắng Bạch Đằng có ý nghĩa như thế nào đối với nước ta thời bấy giờ ?
Học sinh trả lời được câu hỏi này xem như các em đã nắm được kiến thức của phần này, thảo luận đạt kết quả.
Ví dụ 2: Bài 17: Nhà Hậu Lê và việc tổ chức quản lí đất nước
Khi thiết kế bài này, để học sinh nắm được sự kiện, nhân vật lịch sử tôi đã tổ chức cho học sinh Trò chơi học tập theo nội dung: Nhà Hậu Lê đã tổ chức được một bộ máy nhà nước quy củ và quản lí đất nước tương đối chặt chẽ.
Ở hoạt động này cần phải đạt được hai mục tiêu :
– Học sinh trình bày được Vua Lê Thánh Tông đã làm gì để củng cố việc quản lí đất nước.
– Biết phân tích, so sánh các sự kiện lịch sử bước đầu nhận thức về vai trò của pháp luật.
Tôi thiết kế trò chơi học tập Theo dòng Lịch sử phục vụ cho hoạt động nhóm. Các câu hỏi để các nhóm suy nghĩ thảo luận được soạn trên bài giảng điện tử, cụ thể như:
Câu 1: Nhà Hậu Lê ra đời trong hoàn cảnh nào ?
Câu 2: Vua Lê Thánh Tông đã làm gì để củng cố việc quản lí đất nước ?
Câu 3: Bộ luật Hồng Đức có những nội dung cơ bản nào ?
Câu 4: Bản đồ đầu tiên của nước ta có tên là gì ?
……………….
Dự kiến thời gian cho mỗi nhóm suy nghĩ trả lời là: 01 phút
Tổ chức nhóm: Tôi chia 5 nhóm, mỗi nhóm 4 – 6 em gồm 2 bàn quay mặt vào nhau.
Tiến hành hoạt động:
Yêu cầu các nhóm ngồi vào vị trí (Từng cặp bàn quay lại với nhau )
Giáo viên đưa ra luật chơi để nhóm thảo luận trả lời. Nhóm khác có ý kiến bổ sung, nhận xét (hoặc ngược lại) nếu nhóm kia trả lời chưa chính xác.
Các nhóm trình bày xong và học sinh không còn ý kiến, giáo viên treo kết quả hoàn chỉnh và đối chiếu lại với kết quả thảo luận của từng nhóm để nhận xét.
Nếu cả 5 nhóm đều thảo luận và giành quyền trả lời đúng coi như hoạt động nhóm đã có hiệu quả.
Ví dụ 3: Dạy bài 7: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân
Khi thiết kế bài này tôi cho học sinh thảo luận ở hoạt động 1: Sau khi Ngô Quyền mất, tình hình đất nước ta như thế nào ?
Ở hoạt động này cần phải đạt được hai mục tiêu :
– Học sinh nắm được những nét chính về sự kiện Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
– Có kỹ năng phân tích tìm hiểu các thông tin.
Trước tiên tôi cho học sinh tìm hiểu tình hình đất nước ta sau khi Ngô Quyền mất, sau đó biết được công lao thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh.
…………
Mời bạn đọc tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết