Phân tích chất thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Chất thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là tài liệu cực kì hữu ích mà Tài Liệu Học Thi
Chất thơ trong bài thơ về tiểu đội xe không kính là chất thơ của hiện thực hóa chiến tranh. Chất thơ trẻ trung, lạc quan pha chút cái ngông của tuổi trẻ nhưng vẫn không giấu được khát vọng hòa bình.
Hi vọng qua tài liệu này các bạn có thêm nhiều tài liệu tham khảo, củng cố kiến thức trau dồi vốn từ để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi vào lớp 10 sắp tới. Các bạn có thể tham khảo thêm văn mẫu: Đóng vai người lính lái xe kể lại Bài thơ, Cảm nhận 2 khổ thơ đầu trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính và rất nhiều những bài văn hay lớp 9 khác cập nhật tại Tài Liệu Học Thi. Chúc các bạn học tốt!
Chất thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1
Trong một cuộc phỏng vấn, nhà thơ Phạm Tiến Duật từng tâm sự: thời tuổi trẻ, tính tình sôi nổi, bồng bột, thích tìm tòi, thể hiện cái mới, thậm chí thích nói ngược lại những cách nói thông thường. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật sáng tác những năm đầu mới vào bộ đội đã thể hiện khá rõ nét suy nghĩ này của ông. Ngay câu đầu tiên, đọc lên đã thấy trúc trắc ngang ngang:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
Chỉ trong một câu thơ mà có đến ba chữ “không”, mà còn lặp đi lặp lại: “không có kính”,”không có kính” chỉ để nói về cái sự bất thường: xe không kính. Thơ xưa trau chuốt từng câu, từng chữ, theo luật bằng – trắc rõ ràng, hẳn không thể chấp nhận cách viết như vậy. Thơ Mới (1932 – 1945) vốn nổi tiếng về sự phá cách nhưng nhìn chung đọc câu thơ mới lên vẫn thấy mềm mại, mượt mà. Ngay đến một bài văn thông thường, nếu lặp đi, lặp lại quá nhiều mà không có dụng ý rõ ràng, rất có thể sẽ bị thầy cô phê là”lủng củng”…
Thế nhưng đây lại là điểm nhấn của bài thơ. Nói đến Phạm Tiến Duật, bạn đọc nghĩ ngay đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính, mà ai nhớ bài thơ này chẳng thuộc câu “Không có kính không phải vì xe không có kính”. Trong câu thơ của Phạm Tiến Duật, sự “phá cách” không chỉ thể hiện ở cách lặp lại các từ ngữ một cách đầy chủ ý mà còn ở giọng điệu đùa vui, ở cách đề cập đến những sự việc tưởng như “không có gì”. Không chỉ đưa vào thơ những chi tiết, hình ảnh của đời sống mà ngay cả ngôn ngữ thơ cũng được đổi mới triệt để nhằm có thể truyền tải những chi tiết của đời sống hàng ngày của những người lính một cách chân thực nhất. Những từ đệm, tình thái từ… đã được đưa vào thơ (“Không có kính ừ thì có bụi”, “Không có kính ừ thì ướt áo”) đã mang đến cho câu thơ những sắc thái vừa quen thuộc, vừa mới lạ, gần gũi hơn mà cũng hấp dẫn hơn với đa số bạn đọc. Cũng từ những chi tiết đầy chất sống, từ kiểu ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường hiện thực chiến trường (bom giật, bom rung…) đã được tái hiện khá rõ nét, giúp người đọc hình dung cụ thể về những năm tháng hào hùng trong lịch sử dân tộc, cảm nhận được những mất mát, hi sinh, hiểu được rằng để có được những ngày hạnh phúc như hôm nay, thế hệ cha anh đã phải hi sinh xương máu như thế nào.
Nhưng vượt lên tất cả hiện thực khốc liệt đó vẫn là thế giới tâm hồn của những người lính. Những chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn đầy ắp những ước mơ và khát vọng cống hiến. Ở đây cần phải nói tới tinh thần xả thân vì nước như một tính cách dân tộc đã được kết tinh qua bao thế kỉ dựng nước và giữ nước. Truyền thống tốt đẹp đó cùng lí tưởng thời đại đã làm nên nét đẹp của cả một thế hệ: vượt lên mọi hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với hi sinh gian khổ, sống và chiến đấu bằng tinh thần lạc quan, luôn hướng về phía trước. Cuộc sống nơi chiến trường gian khổ, hàng ngày, hàng giờ phải chứng kiến những mất mát, đau thương, phải trải qua những khó khăn chồng chất nhưng những con người can đảm, giàu nghị lực luôn nhìn thấy khía cạnh lạc quan của vấn đề, lấy đó làm điểm tựa để sống và chiến đấu. Nhiều người gọi đó là chất lính- là cái nhìn lạc quan, tinh thần quả cảm – hành trang chủ yếu mà thế hệ cha anh thời chống Mĩ đã mang trên mình trong cuộc trường chinh vạn dặm.
Những chiếc cửa kính vốn để bảo vệ người xe khỏi mưa gió, bụi đường…Khi cửa kính xe bị vỡ sẽ gây ra bao phiền toái. Tuy nhiên, với những người lính điều đó chưa hẳn đã bất lợi. Ngược lại, không có kính hoá ra lại hay:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”
Quả là một cái nhìn hết sức lãng mạn – sự lãng mạn của tuổi trẻ, của những con người luôn biết cách chế ngự, vượt lên trên hoàn cảnh. Không phải khói bụi, không phải gió táp mưa sa mà là ngọn gió lành vào “xoa mắt đắng”, con đường thì “chạy thẳng vào tim”, người lái tha hồ giao tiếp với thiên nhiên mà không còn bị cửa kính ngăn trở như mọi khi. Bụi có sao đâu, dù “Bụi phun tóc trắng như người già”. Áo ướt rồi sẽ khô thôi, tiếng cười sảng khoái và cái bắt tay qua cửa kính vỡ mới thật là điều đáng nói. Khoảng cách giữa con người với thiên nhiên, con người với con người dường như được thu ngắn lại. Nếu cửa kính không vỡ, e rằng khó có thể dễ dàng như thế. Cái nhìn hài hước – vốn chỉ có ở những tâm hồn yêu đời – đã khiến cho nỗi gian khổ vơi đi rất nhiều.
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Những câu thơ ấm tình đồng đội, những sinh hoạt thường ngày được miêu tả trong khung cảnh yên bình, tựa như không phải trong thời chiến tranh. Không phải những người lính đang cố quên đi gian khổ mà chính bản lĩnh, ý chí can trường cùng với tâm hồn lãng mạn kết hợp với tinh thần quyết tử xả thân vì nước đã giúp người lính vượt lên trên những gian khổ hàng ngày. Sức mạnh của những người lính trong thời đại Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và lí tưởng thời đại. Họ chính là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là một trong những hình tượng đẹp nhất của thế kỉ XX.
Những người lính không thích nói về chiến công, cũng không nói về những khó khăn, gian khổ. Họ chỉ nói về công việc hàng ngày – một công việc vô cùng nguy hiểm nhưng lại được thể hiện như biết bao công việc bình thường khác. Câu thơ “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” trong vắt như tâm hồn người lính, như khát vọng và niềm tin mà họ đã mang theo trên đường đời.
Và đây mới là điều quan trọng nhất:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
“Chỉ cần trong xe có một trái tim” – Không có cách lí giải nào giản dị mà thiêng liêng hơn thế. Không có kính, không có đèn, không có mui xe, rất nhiều chữ “không” để đến một chữ “có”. Chỉ cần có một trái tim yêu nước, quả cảm, mọi gian khổ, khó khăn đã ở lại phía sau.
Sau Hoan hô anh giải phóng quân của Tố Hữu, Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân…, Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã nối dài những khúc ca về những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Chất thơ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2
Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đến sau trong đề tài người lính, thế nhưng, Phạm Tiến Duật đã có những bài thơ xuất sắc, phản ánh chân thực và hào hùng vẻ đẹp người lính với bút pháp nghệ thuật vô cùng mới mẻ, đặc sắc, giàu sức chiến đấu. Bài thơ tiểu đội xe không kính là tác phẩm xuất sắc của nhà thơ và của nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Thành công đầu tiên của Phạm Tiến Duật trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là đã xây dựng được một hệ thống ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu sôi nổi, chất liệu thơ chân thực, gần gũi, gợi cảm. Ngôn ngữ của bài thơ gần gũi với lời nói thường, mang tính khẩu ngữ, tự nhiên, sinh động và khỏe khoắn:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”
“Không có kính, ừ thì có bụi”
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Giọng điệu tự nhiên, trẻ trung, có vẻ tinh nghịch pha một chút ngang tàng, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Ngôn ngữ và giọng điệu ấy rất phù hợp với việc khắc họa hình ảnh những chiến sĩ lái xe trẻ trung hiên ngang, bất chấp nguy hiểm, khó khăn. Đó là những người lính tươi trẻ, yêu cuộc đời, yêu đất nước, tinh thần tràn đầy niềm tin tưởng, quyết chiến đấu, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Phạm Tiến Duật đã không hề cầu kì hay thi vị hóa đơn điệu hình ảnh những chiếc xe không kính và hình tượng người lính lái xe. Bởi với ông, cuộc đời ấy đã quá đẹp, rất thơ, rất mạnh mẽ, không cần tô vẽ gì mà vẫn tỏa sáng.
Tác giả còn kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. và linh hoạt trong nghệ thuật biểu hiện. Những yếu tố về ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ đã góp phần trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực và sinh động.
Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.
Những câu thơ giản dị như lời nói thường, với giọng điệu thản nhiên, ngang tàn, hóm hỉnh. Cấu trúc: “không có…”; “ừ thì…”, “chưa cần” được lặp đi lặp lại, các từ ngữ “phì phèo”,”cười ha ha”,”mau khô thôi” làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ,hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Ở họ, những trở ngại của thiên nhiên và điều kiện chiến đấu không thể làm họ sờn lòng. Ngược lại, nó càng làm cho họ thêm hứng thú, quyết tâm vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ“nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai. Lời thơ nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe.
Cuộc sống chiến đấu của người lính tràn đầy niềm vui ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt, hiểm nguy.
Qua nghệ thuật biểu hiện, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.