Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng (6 mẫu), Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng là tài liệu vô cùng hữu ích giúp cho các bạn
Dowload.vn, hôm nay sẽ giới thiệu đến tất cả úy thầy cô và các bạn tài liệu bài văn mẫu lớp 10: Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng.
Hy vọng rằng với tài liệu này thì các bạn học sinh có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 10 của mình. Dưới đây, sẽ là 6 bài văn mẫu phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng, xin mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
- 1 Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 1
- 2 Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 2
- 3 Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 3
- 4 Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 4
- 5 Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 5
- 6 Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 6
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 1
Trong bài viết Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: “Từ Hải” đăng trên báo Thanh nghị, số 36, tháng 5 -1943, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Thực suốt cả quyển Đoạn trường tân thanh tức là Truyện Kiều không có chỗ nào ngòi bút Nguyễn Du hân hoan bằng những khi Từ Hải nói hay nói đến Từ Hải (…).Biết đâu Từ Hải chẳng là cái mộng tưởng lớn nhất trong đời Nguyễn Du”. Nhân xét và phỏng đoán (có màu sắc khẳng định) nói trên của nhà phê bình thật đáng được chia sẻ, một khi ta đã đọc kĩ Truyện Kiều và hơn thế nữa đọc đến những tác phẩm văn học Trung Hoa xưa có nói đến nhân vật Từ Hải, nhất là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – cuốn sách mà Nguyễn Du đã dựa vào đó để dựng nên kiệt tác của mình. Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là một anh hùng toàn vẹn.Từ “anh hùng” và cùng với nó là những từ có cùng trường nghĩa luôn hiện khi nhà thơ nói đến chàng dù thông qua lời trần thuật hay lời nhân vật khác. Thậm chí, nhà thơ đã để cho nhân vật nhiều lần tự xưng mình là anh hùng – một con người tự tin đến thế là cùng! Dĩ nhiên, muốn chứng minh nhân vật của mình là anh hùng, riêng việc dùng từ như trên chưa đủ. Nguyễn Du rất hiểu điều đó, vì vậy đã dụng tâm tạo dựng một không gian riêng – không gian mở, không gian bao la – để Từ Hải xuất hiện.
Bên cạnh đó, nhà thơ cũng không quên vận dụng cách thức miêu tả ngoại hình và hành động có tính ước lệ, khoa trương để tô đậm cốt cách hơn người, hơn đời của Từ Hải. Nói tóm lại để thấy được chí khí anh hùng ở con người này, ta có thể giết bất cứ trang nào trong Truyện Kiều có nhắc đến hai chữ Từ Hải, hay nhắc đến hành tích, sự nghiệp và cả kết cục số phận của chàng. Tuy nhiên, dù điều trên là có thật, nhiều người vẫn muốn chú ý trước hết đến tình huống Từ Hải tạm biệt Thuý Kiều để lên đường theo đuổi nghiệp lớn. Ai bảo khí phách anh hùng của một kẻ nam nhi chỉ được thể hiện rõ nét khi anh ta đứng giữa vòng tên đạn bời bời? Nguyễn Du không hoàn toàn nghĩ thế. Ông dụng tâm miêu tả sâu cách ứng xử của Từ Hải với mỹ nhân, với hạnh phúc được sống cùng mỹ nhân, qua đó mà làm bật nổi cốt cách hơn đời có ở chàng. Nghĩ cho cùng, đây là một lựa chọn nghệ thuật tuyệt đối phù hợp. Bao giờ mĩ nhân chả là một cửa ải khó vượt đối với những kẻ nam phi, những bậc anh hùng?.Trước đoạn kể buổi Từ Hải lên đường,
Nguyễn Du chỉ nói hết sức vắn tắt về cuộc sống hạnh phúc của cặp “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Ông không rề rà miêu tả, dù rề rà một chút trong trường hợp này cũng có thể chấp nhận được, bởi tâm lý độc giả vẫn muốn dành thêm ưu ái cho Thuý Kiều – một con người đã nếm trải vô số bất hạnh trong cuộc đời. Không, nhà thơ quá hiểu Từ Hải. Một khi nghiệp lớn chưa thành, chàng không đành tâm vui hưởng hạnh phúc, với mỹ nhân, dù người đó là hồng nhan tri kỷ. Và chàng đã ra đi giữa lúc khó ra đi nhất, giữa lúc ái tình đang toả hương ngây ngất.
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Từ thoắt cùng với chi tiết “lên đường thẳng rong ” đã vẽ lên rất linh hoạt tính cách của một con người hành động, làm việc gì cũng nhanh chóng, dứt khoát. Ai cũng biết Từ Hải rất yêu, rất trọng Kiều, nhưng cái chí tung hoành giữa bốn phương vẫn lớn hơn giúp chàng vượt qua trạng thái bịn rịn, nhùng nhằng một cách nhẹ nhàng. Từ Hải là con người biết sống cho tình yêu nhưng cũng là con người của mênh mang trời bể. Đây chính là chỗ phân biệt chàng với những nhân vật đàn ông khác tùng yêu nàng Kiều như Kim Trọng và Thúc Sinh. Vả chăng, chàng ra đi cũng là để gây dựng một cuộc sống mới, cho chàng và cả chính nàng Kiều nữa. Chàng không đứng khoanh tay chờ đợi sự ưu ái của số phận, của cuộc đời hay ngồi phấp phỏng âu lo vì những điều bất hạnh khó dữ liệu sẽ tới. Chàng biết chủ động giành lấy cái mà chàng thấy mình cùng người tri kỉ đáng được hưởng.
Ở những câu thơ tiếp theo
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Quả có một cái gì đó như là sự vô lí trong trình tự kể của tác giả: tại sao lại nói chuyện Từ Hải “lên đường thẳng rong” trước chuyện hai người đối thoại với nhau? Đây là một cái “lỗi” trong nghệ thuật trần thuật hay là sự cố ý? Theo Tản Đà, Nguyễn Du đã “vội lời”. Kể ra nhận xét như thế cũng chẳng sai. Nhưng nếu hiểu rằng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, trình tự kể không nhất thiết phải ứng khớp với trình tự của câu chuyện được kể, nó là một cái gì mang tính ước lệ, thì ta lại thấy Nguyễn Du có cái lý của mình. Ông không để cái tiểu tiết làm hại tinh thần chung của một đoạn thơ có mục tiêu làm rõ sự dứt khoát trong hành động của người anh hùng Từ Hải. Vả chăng có thể biện minh rằng: Từ Hải tuy chưa thực sự cất bước ra đi nhưng chí của chàng thì đã ruổi rong cùng thanh gươm, yên ngựa. Nói thẳng một lèo như thế, câu thơ dễ gây ấn tượng về một con người có hành tung như ngọn gió vừa mới thấy đây mà phút chốc thân đã ở ngoài muôn dặm.
Một số người nghĩ rằng đoạn đối thoại này là do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong Kim Vân Kiều truyện. Sự thực không hoàn toàn như vậy. Trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân vẫn có, nhưng nó được đặt trong bối cảnh Từ Hải chuộc Kiều ra, không đưa Kiều về quê nhà mà lại dựng một toà nhà để cùng ăn ở với Thuý Kiều. Khi Kiều thắc mắc chàng mới nói rõ sự tình: “Chứ như nay, ta chỉ trơ trọi một mình, khi đưa nàng nào biết về đâu?”. Nguyễn Du có cách xử lý nghệ thuật khác, tuân theo cấu trúc tự sự riêng của chính Truyện Kiều và cũng hợp với tính cách các nhân vật của ông hơn. Ông không để cho Kiều thắc mắc về những điều vụn vặt, cũng không để cho Từ Hải nói những lời chưa phải lúc. Ông thích quan sát nhân vật trong những cuộc chia tay và muốn những cuộc chia tay đó phải nói được một điều gì lớn hơn chính bản thân sự việc được kể.
Hãy xem Từ Hải đã “đả thông tư tưởng” cho nàng Kiều như thế nào khi nàng một lòng xin đi. Thoạt tiên, chàng trách nàng “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Trách nhưng thực chất là đề cao, bởi trong suy nghĩ của chàng, Kiều là người “tâm phúc tương trí” và chàng muốn nàng luôn như vậy. Đã nói đến chuyện tương tri, bao nhiêu tâm sự, hoài bão phút chốc được biểu lộ.
Qua bài văn cảm nhận 8 câu đầu đoạn trích Chí khí anh hùng phần nào đã giúp các em cảm nhận được ước mơ của Nguyễn Du về một vị anh hùng, một vẻ đẹp mang khí chất vĩ đại cùng một tình yêu lứa đôi thật đẹp.
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 2
Thông thường, để làm nổi bật phẩm chất anh hùng của một hình tượng nhân vật, người ta hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh đặc thù là đối mặt với gian nan thử thách. Dân gian vẫn có câu “Lửa thử vàng gian nan thử sức”, lại câu “Gian nan là nợ anh hùng phải vay” là thế. Phải chiến thắng được những gian nan thử thách ấy thì mới khẳng định được bản lĩnh và chí khí anh hùng. Những gian nan thử thách nào vậy? Thử thách ngoài mình và thử thách trong mình. Thắng những thế lực ngoài mình đã khó hơn thắng kẻ địch, thắng thiên nhiên đã khó nhưng thắng những thói thường trong mình còn khó gấp bội. Không ít người chiến thắng được uy vũ, nhuhg lại gục ngã trước những mời mọc đầy cám đỗ trong mình. Mà rốt cuộc, nói đến anh hùng là nói đến cái phi thường. Muốn làm chuyện phi thường thì cũng cần phải thắng được cái bình thường.
Nguyễn Du không chỉ khắc họa Từ Hải lập nên nhiều kỳ tích phi thường, ông còn làm nổi bật tính cách anh hùng của Từ Hải khi đặt nhân vật đối mặt và vượt lên cái bình thường. Đoạn trích Chí anh hùng này là thế. Ở đây có những vướng bận gia đình, có “Thói nữ nhi thường tình”. Nên bề ngoài có thể xem cái gian nan thử thách trong lòng mà Từ phải đổi mặt để giải quyết là vấn đề “anh hùng và mĩ nhân” – mĩ nhân cản bước, còn anh hùng thì vượt ải mỹ nhân. Nghĩ thế không sai, nhưng cũng không hẳn. Xem kĩ, Kiều đâu có cản bước Từ Hải, Từ Hải đâu có rũ bỏ Kiều. Vậy, có thể coi đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc lứa đôi và lí tưởng anh hùng chăng? Cũng không hẳn, sau khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, Từ Hải đã có Kiều, đã sống cùng mỹ nhân. Nhưng chỉ vậy thôi là chưa thỏa, điều Từ Hải muôn đó là phải tạo được sự nghiệp anh hùng nữa, bấy giờ trai anh hùng mới thật xứng với gái thuyền quyên. Nghĩa là Từ Hải muôn hướng tới một hạnh phúc phi thường. Chỉ bao giờ được thế, Từ Hải mới thỏa chí. Cho nên, xét cho cùng đó là mối mâu thuẫn giữa hạnh phúc nhỏ – bình thường và hạnh phúc lớn – phi thường.
Không cần phải đọc kĩ lắm cũng có thể thấy đoạn thơ đã tự hình thành hai phần nhỏ hơn. Phần một gồm bốn câu đầu: hình ảnh lên đường của Từ Hải. Phần hai là đoạn còn lại: cuộc đối thoại Từ Hải — Thuý Kiều khi Từ dứt áo ra đi. Cũng lạ, Nguyễn Du dựng cảnh Từ Hải lên đường trước, rồi lời từ biệt mới đến sau. Ở đây, dù chưa phải là khung cảnh nhân vật đang chọc trời khuấy nước, Nguyễn Du vẫn làm nổi lên tầm vóc của Từ Hải. Hơn nữa, chưa phải bộc lộ minh bằng hành vi, mà mới chỉ qua lời nói – lời nói với vợ thôi, chí khí anh hùng của Từ Hải cũng đã toát lên mãnh liệt. Từ Hải ít nhiều đã được mô tả trong không gian tổ ấm. Điều này có lí của nó: tổ ấm thường tình không phải là cái không gian hợp với tầm vóc kẻ phi thường, nếu không nói là không gian ấy sẽ tù hãm người anh hùng. Ra khỏi cái tổ âm hương lửa đương nồng của hạnh phúc lứa đôi, Từ mới thực là Từ. Đúng thế, Từ Hải chỉ thực sự là mình trong không gian trời đất:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Sự nồng nàn của tình yêu, vị ngọt ngào của hạnh phúc có thể là chất xúc tác, cũng có thể là chất bào mòn chí khí kẻ anh hùng. Mỹ nhân có thể là động lực của kẻ anh hùng, cũng có thể đánh đắm những sự nghiệp anh hùng. Sau này, Chế Lan Viên có nói đến cái hình ảnh “Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp – Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn” là cũng theo nghĩa bào mòn, đánh đắm ấy, chúng từng là giấc mơ con đè nát bao cuộc đời cỏn con. Từ Hải khấc mỹ nhân, hạnh phúc chỉ mới là một nửa đời chàng, tình nhân lãng mạn mới chỉ là một nửa con người chàng. Từ còn một nửa khác: một khách anh hùng với sự nghiệp cái thế. Một chữ “thoắt” đã cho thấy tính cách anh hùng của Từ. Đó là sự thức dậy mau lẹ của con người của một mái nhà. Trái lại, Từ sinh ra là thuộc về bốn phương. Ngang dọc bốn phương mới thực sự là sứ mạng, thực sự là cuộc sống của chàng. Rời khỏi một mái ấm, Từ đến với không gian thực của mình: không gian càn khôn trời đất.
Trong Truyện Kiều, chữ “thoắt” thường chứa đựng những biến cố, đôi khi là biến cố trọng đại. Có thể đó là biến cố đầy ngang trái “Thoắt mua về thoắt bán đi”. Có thể đó là biến cố đau thương “Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương…”. Chữ “thoắt” này diễn ra âm thầm, nhưng thực sự cũng chứa đựng một biến cố lớn của đời Từ. Bắt đầu từ giây phút ấy, Từ mới thực sự sông rồi chết lẫm liệt như một anh hùng cái thế. Và như vậy, chữ “thoắt” đã chia đời Từ Hải làm hai thật rành rẽ: nó là dấu ngắt cho một bản tình ca hùng tráng đồng thời mở đầu cho bản hùng ca bi tráng.
Đúng là Nguyễn Du đã khắc hoạ Từ Hải thật hoành tráng:
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Đó là hình tượng tráng sĩ. Người đọc thơ cổ điển có thể liên tưởng đến một nhân vật khác cũng thuộc thế kỉ XVIII, trong Chinh phục ngâm:
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Cả hai đều toát lên vẻ oai phong lẫm liệt đầy lý tưởng của những trang hào kiệt. Nhưng, nếu chàng chinh phu được tô điểm bằng sắc màu lãng mạn trong cái nhìn kiêu hãnh và trìu mến của nàng chinh phụ, thì Từ Hải lại được tạo hình bằng đường nét ngạo nghễ trên cái nền kỳ vĩ của không gian. Một đằng lẫm liệt cùng sắc phục, một đằng mênh mang khát vọng. Đằng là vẻ đẹp quý phái, đằng là vẻ đẹp phong trần.
Có thể nói, bên cạnh những hình ảnh “Chọc trời khuấy nước mặc dầu – Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, hay “Phong trần mài một lưỡi gươm – Những phường giá áo túi cơm xá gì”, “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo…”thì “Trông vài trời bể mênh mang – Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” cũng là một bức chân dung hết sức hoàn hảo mà Nguyễn Du đã dành cho Từ Hải.
Đoạn hai là một màn đối thoại. Lời tác giả nhường hẳn cho lời nhân vật. Các nhân vật bộc lộ phẩm cách của mình qua ngôn ngữ của chính mình. Nếu ở Thuý Kiều là lối nói đúng mực của người đàn bà nề niếp, trọng bổn phận đạo lí, nhưng cũng không thiếu kiên tâm, thì ở Từ Hải là lối nói sắt đá, quyết đoán của một bậc trượng phu, song cũng không phải vô tình, Kiều viện đạo phu thê, Từ lại viện đạo tri kỷ. Kiều ứng xử theo lẽ bình thường, Từ ứng xử theo lối phi thường. Nàng muốn được theo chân Từ Hải
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đì!”
Kiều viện ra đạo lí phu thê thường tình vừa như một lý lẽ vừa như một thề nguyền để thuyết phục từ Hải. Nàng muốn được kề vai sát cánh chia ngọt sẻ bùi cùng chồng. Còn Từ Hải có chấp nhận cái thường tình không? Chấp thuận cái thường tình thì còn đâu là kẻ phi thường. Đó không thể là cung cách Từ Hải. Nhưng Từ cũng không nỡ gạt đi một cách lạnh lùng, mà cũng viện ra những lý lẽ riêng để thuyết phục Kiều. Chàng xuất phát từ đạo lý khác: đạo lý tri kỷ. Từ Hải xem đạo tri kỷ cao trọng hơn đạo phụ thê. Một khi đã là tri kỷ, hiểu rõ lòng dạ của nhau, thì không nên câu nệ lễ phu thê theo thói thường của người đời:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Chỉ qua cảm nhận 8 câu đầu đoạn trích Chí khí anh hùng mà tác giả đã khắc họa được hình ảnh tình yêu son sắt của người vợ là Kiều dành cho Từ Hải, cũng phần nào làm nổi bật lên chí khí của người anh hùng một lòng vì nước, lòng tin vào bản thân trên cả chiến trường lẫn cả trong tình yêu.
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 3
Trong nền văn học Việt Nam, “Truyện Kiều” được đánh giá là một trong những tác phẩm kiệt xuất nhất. Câu chuyện về cuộc đời người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh: Vương Thúy Kiều đã thu hút và làm thổn thức trái tim của biết bao thế hệ độc giả. Đặc biệt, những mối tình lãng mạn nhưng đầy trắc trở của nàng cũng góp phần làm nên sự lôi cuốn cho tác phẩm. Trong đó, phải kể đến cuộc tình đẹp đẽ với người anh hùng đội trời đạp đất Từ Hải. Khác với vẻ thư sinh, “phong lưu tài mạo tót vời” của Kim Trọng, Từ Hải được khắc họa như một vị anh hùng đầy lí tưởng với chí hướng lớn lao. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã lột tả được nét tính cách đặc biệt ấy.
Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư và lại rơi vào tay của Bạc Bà, Bạc Hạnh. Cuộc đời của nàng thật sự đã ứng nghiệm với lời tiên đoán của Nguyễn Du “chữ tài liền với chữ tai một vần”. Nhưng may mắn trong bước đường lưu lạc đó nàng đã gặp được người trượng phu cứu vớt cuộc đời mình trong lần bị bắt vào lầu xanh thứ hai: Từ Hải. Tuy nhiên, sau thời gian ân ái mặn nồng, Từ Hải lại quyết định ra đi gây dựng sự nghiệp.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã vẽ nên hoàn cảnh chia tay và tư thế ra đi dứt khoát của người anh hùng Từ Hải:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trong vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”
Từ xưa đến nay bao giờ mĩ nhân lại chẳng phải là cửa ải khó vượt qua nhất đối với những kẻ nam nhi, những người anh hùng? Nhưng trong đoạn trích này Nguyễn Du đã đưa nhân vật anh hùng Từ Hải lên một tầm cao mới khi dụng tâm miêu tả sâu cách ứng xử của Từ với mỹ nhân, với hạnh phúc lứa đôi qua đó làm nổi bật cốt cách hơn đời của chàng. Đáng ra khi đang vui hưởng cuộc sống “phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng” thì bất cứ ai cũng sẽ chìm đắm trong đó, ấy vậy mà mới có “nửa năm” Từ Hải lại không quên nghiệp lớn quyết lòng ra đi giữa lúc khó ra đi nhất, giữa lúc ái tình đang nồng thắm nhất. Cho nên nếu Kim Trọng được xem là người tình lý tưởng, Thúc Sinh là mối tình hiện thực của Thúy Kiều thì Từ Hải là bậc anh hùng đội trời đạp đất cho cuộc đời nàng.
Từ Hải nào phải kẻ tầm thường “giá áo túi cơm” chỉ biết vui vầy bên người đẹp, nếu Từ không có chí hướng cao rộng ắt hẳn đã không xứng với từ “trượng phu” duy nhất mà Nguyễn Du ưu ái dành riêng cho mình. Việc chàng quyết chí ra đi là hoàn toàn phù hợp với tính cách của mình, từ “thoắt” với chi tiết “lên đường thẳng rong” đã vẽ nên rất linh hoạt của một con người ôm mộng cơ đồ như chàng. Chính vì thế mà dù ai cũng biết Từ rất yêu, rất trọng Kiều nhưng cái chí tung hoành bốn phương đã lớn hơn tình cảm đó, giúp chàng vượt qua trạng thái bịn rịn, lưu luyến một cách nhẹ nhàng. Cụm từ “lòng bốn phương” cũng được hiểu là “chí tang bồng” cho nên lúc Từ ra đi vì “động lòng bốn phương” hoàn toàn không phải là đi thăm thú đó đây mà là đi chinh phục cương thổ, sơn hà, chí hướng này cũng là nguồn cảm hứng của rất nhiều tác giả.
Trong ca dao xưa có câu:
“Làm trai cho đáng thân trai
Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”;
Phan Bội Châu cũng quan niệm rằng:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”;
hay Nguyễn Công Trứ cũng cho rằng: “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây, cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” từ đó ta có thể thấy việc Từ Hải ra đi không phải đơn giản vì “động lòng” mà còn là để trả món nợ làm trai, hơn hết chàng ra đi để gây dựng một cuộc sống mới cho Thúy Kiều và cũng là để cho chính bản thân chàng. Từ Hải không khoanh tay đợi chờ sự ưu ái của số phận hay ngồi phấp phỏng âu lo về những điều bất hạnh khó dữ liệu sẽ ập tới, chàng là mẫu người hành động nên biết chủ động giành lấy cái mà mình và người mình yêu đáng được hưởng. Từ Hải dùng hành động “trông vời” đối với không gian bao la rộng lớn “trời bể mênh mang” thể hiện tư thế hiên ngang, sánh ngang tầm vũ trụ. Chàng đã lên đường với một tư thế dứt khoát chỉ cùng “thanh gươm yên ngựa” để mà “lên đường thẳng rong”, không dây dưa bịn rịn như thói thường. Tuy nhiên ta có thể thấy hình ảnh Từ Hải ra đi gây dựng sự nghiệp chỉ với “thanh gươm yên ngựa” vừa tràn ngập hoài bão, vừa mang sức đẹp lớn lao như thế nhưng sâu trong đó ta cũng cảm thấy một chút cô đơn của người anh hùng khi đối diện với bao khó khăn thử thách một cách đơn độc. Bốn câu thơ đầu đã khắc họa nên tư thế ung dung và tầm vóc hiên ngang, vĩ đại ngang tầm vũ trụ của một người anh hùng. Ngay cả trong giờ phút chia li, Từ Hải cũng không hề bịn rịn, ủy mị mà “lên đường thẳng rong”.
Hai câu tiếp theo là tâm trạng và lời giãi bày của Kiều dành cho Từ Hải trong phút chia ly:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Trong quan niệm Nho gia người phụ nữ phải chịu sự ràng buộc của các lễ giáo phong kiến với “tam tòng tứ đức”, tam tòng trước hết là tại gia phụ thuộc vào cha, sau khi gả đi thì phụ thuộc vào người chồng, chồng chết thì phải dựa vào con. Tuy nhiên ở đây ta có thể thấy sâu thẳm trong ý nguyện muốn được ra đi cùng chồng của Kiều còn rất nhiều nguyên do chứ không hẳn do lễ giáo. Sau những năm tháng khổ nhục, phiêu bạt đoạn trường, Từ Hải là người cứu vớt, là chỗ dựa vững chắc nhất của nàng nên khi Từ muốn ra đi Kiều đã lập tức xin theo, cho dù chưa biết đi đâu. Lời nói của Kiều thể hiện tình yêu tha thiết, sự thấu hiểu và khâm phục mà nàng dành cho Từ Hải, nàng tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với chàng.
“Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”
Lời từ chối của Từ Hải cho thấy lý tưởng lớn lao của chàng cùng với tình yêu sâu sắc của chàng đối với Thúy Kiều. Thoạt tiên, chàng trách nàng “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”, tuy trách nhưng thực chất là để đề cao. Chính vì coi Kiều là người “tâm phúc” nên Từ yêu cầu và động viên nàng xây dựng phẩm chất để trở thành nàng Ngu Cơ của mình với những phẩm chất cao cả hơn chứ không phải những thói thường tình. Ai bảo khí phách anh hùng chỉ bộc lộ trong “vòng tên đạn bời bời”? Nguyễn Du đã thành công khi chứng minh chí khí của Từ Hải khi vượt qua được ải mỹ nhân, hay những cám dỗ của tình yêu đôi lứa.
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 4
Truyện Kiều xuất sắc không chỉ vì ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn vì ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Nguyễn Du phản ánh một hiện thực xã hội phong kiến đương thời – cái xã hội hủ nát đã vùi dập chính ông – hay vùi dập số phận nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác. Điều ấy khiến Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Và khi đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, Nguyễn Du đã làm sáng cái ý chí và hoài bão lớn lao của những bậc anh hùng thời bấy giờ. Hình ảnh nhân vật Từ Hải cùng tình yêu cũng như ý chí lớn lao đã được thể hiện rõ nét ngay chỉ ở 8 câu thơ đầu.
Sau nửa năm chung sống, Kiều và Từ Hải có một mái ấm gia đình, đương lúc tình cảm giữa hai người nồng đượm nhất, Từ Hải lại ‘thoắt động lòng bốn phương’. Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu ‘Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể’. Nam nhi chi chí, đầu đội trời, chân đạp đất, sống là phải làm rạng danh dòng họ, rạng danh gia đình, ‘Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh’. Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nên nét riêng của chàng.
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”
Và Từ Hải đã luôn ở trong vị thế sẵn sàng – chàng luôn cầm chắc thanh gươm, yên ngựa luôn được đặt sắn – chàng biết chẳng chóng thì chầy chàng cũng sẽ ra đi. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, ‘nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ’.
“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”
Không gian xung quanh – rộng lớn, bao la, khoáng đạt, mênh mang đến cùng trời cuối bể – như khắc họa thêm vào bóng lưng quyết liệt, dứt khoát của chàng. Chàng như hòa vào với trời đất, chàng như trở nên khổng lồ – vì ý chí và hoài bão – vươn đến tận vũ trụ xa xôi. Từ Hải tin rằng chàng sẽ thực hiện được hoài bão của mình. Còn Kiều, nàng chẳng có suy nghĩ nào khác là muốn theo chồng của mình, cùng chàng chia sẻ những nguy hiểm, khó khăn.
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”
Từ Hải trách Kiều ‘sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình’ nhưng sâu thẳm trong lòng thì ai cũng hiểu vì chàng lo cho Kiều phải chịu vất vả. Nguyễn Du đã xuất sắc miêu tả một Từ Hải – một con người bình thường, với những hoài bão và ý chí to lớn, với những hành động phi thường, và rồi lại trở lại như một người chồng quen thuộc – một người chồng luôn lo lắng, quan tâm đến vợ
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 5
Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỷ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt “động lòng bốn phương”, thế là toàn bộ tâm trí hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng.
Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi logic không ? Không, vì hai chữ “thẳng rong” có người giải thích là “vội lời”, chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lý. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hy vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thỏa chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.
Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói :
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ Hải đã đáp lại rằng:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.
Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng.
Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.
Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho thấy Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh: “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.
Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh “bốn bể không nhà” nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ “tòng” không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải “xuất giá tòng phu” mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng.
Chỉ với 8 câu thơ đầu, Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa được tình yêu mà Kiều và Từ dành cho nhau, nhưng cũng không hề làm mờ đi vẻ đẹp cùng chí khí vĩ đại của người anh hùng một lòng muốn thành danh.
Phân tích 8 câu thơ đầu bài Chí khí anh hùng – Mẫu 6
Vương Thúy Kiều là một người con gái “tài sắc vẹn toàn”, một bậc giai nhân vẹn toàn khó có thể tìm thấy trong dân gian. Tuy nhiên, càng tài sắc bao nhiêu thì cuộc đời của nàng càng trắc trở, bất hạnh bấy nhiêu. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha, cứu gia đình, cuộc đời của Thúy Kiều đã bước sang một trang khác.
Cuộc đời nàng những tưởng mãi chìm trong đau khổ, bị thương nhưng Từ Hải xuất hiện, người đàn ông “đầu đội trời, chân đạp đất” ấy đã cứu vớt cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều, cho Kiều một danh phận, một cuộc sống như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác. Trong trích đoạn “Chí khí anh hùng” nhà thơ Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét hình ảnh của người anh hùng Từ Hải.
Đến với Thúy Kiều nhưng Từ Hải chưa phút giây nào lãng quên lí tưởng, sự nghiệp lớn của mình. Vì vậy, sống chung với Thúy Kiều sáu tháng, dù vô cùng hạnh phúc, vui vẻ nhưng Từ Hải cũng đã nói lời từ biệt nàng Kiều để lên đường thực hiện nghiệp lớn:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong”
“Nửa năm” là khoảng thời gian Từ Hải hạnh phúc bên nàng Kiều. “Hương lửa đương nồng” chỉ khoảng thời gian êm đềm, hạnh phúc ấy, ngọn lửa của tình yêu vẫn nóng bỏng, rạo rực trong trái tim. Nhưng, người trượng phu ấy đã “động lòng bốn phương”, khát khao, ước mơ thực hiện lí tưởng lại trỗi dậy mạnh mẽ trong chính người trượng phu ấy, “trời bể mênh mang” tức sự nghiệp mà chàng đang ấp ủ vẫn là một cái đích lớn cần thực hiện, đang “vẫy chào” với chàng. “Thanh gươm”, “yên ngựa” là những hành trang theo Từ Hải lên đường, sát cánh bên chàng khi chiến đấu thực hiện giấc mộng lớn. Vì vậy, câu thơ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” thể hiện được phong thái của một bậc anh hùng “đầu đội trời chân đạp đất”, khí chất khẳng khái cần phải có của một người đứng đầu.
Trước quyết định ra đi của Từ Hải, Thúy Kiều đã bày tỏ nguyện vọng muốn được đi theo, vừa là tiện bề chăm sóc, làm tròn trách nhiệm của một người thê tử với phu quân, vừa là không muốn chia li, cắt biệt với Từ Hải:
“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi
Từ rằng: Tâm phúc tòng tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”
Thúy Kiều nói với Từ Hải bằng giọng điệu hết sức tha thiết, thể hiện mong muốn chân thành với Từ Hải, đó là theo Từ Hải đến nơi chân trời góc bể “Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”, với nàng Kiều, phận làm vợ phải đề cao chữ “tòng”, tức với một người con gái đã xuất giá là phải theo chồng “xuất giá tòng phu”. Có lẽ, Từ Hải là người chồng đúng nghĩa nhất của Thúy Kiều, cũng là người thật lòng yêu thương, bảo vệ nàng như một người trượng phu thực thụ. Tuy nhiên, trước mong muốn của Thúy Kiều, Từ Hải đã không thể đồng ý, chàng cho rằng Thúy Kiều chưa thể thoát ra khỏi cái yếu đuối, ủy mị của “nữ nhi thường tình”, rằng “tâm phúc tòng tri”, vì vậy không nhất thiết phải theo chàng ra tận nơi chiến trường đầy hiểm nguy.
Tấm lòng của Thúy Kiều thì Từ Hải nhận, nhưng đành phải nói lời từ chối với mong muốn đi theo của nàng. Có thể nói tình yêu của Từ Hải dành cho Thúy Kiều là đúng nghĩa, nhưng chàng cũng biết nơi chiến trường hiểm nguy, gian khổ như thế nào, đối với thân gái như Kiều khó có thể chịu được. Vì vậy, càng yêu Kiều bao nhiêu thì Từ Hải càng quyết tâm bấy nhiêu, quyết tâm ra đi, quyết tâm dành chiến thắng để mang lại cho Kiều cuộc sống tốt đẹp nhất.
Chỉ qua 8 câu thơ đầu, phần nào tác giả đã phác họa được hình ảnh người phụ nữ với những thiệt thòi khi sinh ra ở thời phong kiến, chịu đựng, hy sinh, cũng phần nào làm sáng tỏ lên ý chí kiên cường, quyết một lòng ra đi với mong muốn được rạng danh ngày trở về của bậc anh hùng.