Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng (Dàn ý + 3 mẫu), Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng là một tài liệu vô cùng hữu ích giúp
Không chỉ là điệp khúc nồng nàn của tình yêu, mà nhà thơ Xuân Diệu còn tạo cho bài thơ Vội vàng một sức hấp dẫn vô cùng riêng biệt.
Để giúp cho các bạn học sinh có thể bổ sung thêm kiến thức Ngữ văn lớp 11, sau đây chúng tôi xin mời tất cả thầy cô và các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu lớp 11: Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội Vàng
I. Mở bài:
– Việc sáng tác ra một tác phẩm có sức hấp dẫn với độc giả chưa bao giờ là dễ dàng và không phải bất cứ ai cũng có thể làm được điều kỳ diệu ấy.
– Thế mà Xuân Diệu, không hổ danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới giai đoạn 1932-1945, đã tạo nên một sức hấp dẫn mới lạ trong bài thơ Vội vàng của mình.
II. Thân bài:
* Sức hấp dẫn đến từ:
– Khao khát điều khiển chi phối thiên nhiên “tắt nắng”, “buộc gió” => Cái tôi vừa ngông cuồng vừa hồn nhiên làm nên đặc sắc cho toàn bài.
– Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân => Liên tưởng đến vẻ đẹp của tình yêu, tuổi trẻ.
– Hình ảnh gợi cảm “ánh sáng chớp hàng mi”, trong ánh mắt đa tình của Xuân Diệu, vẻ đẹp của thiên nhiên và con người giao hòa với nhau, tạo nên khoảnh khắc tuyệt đẹp.
– Sự liên tưởng, độc đáo, mới lạ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” => Vẻ đẹp mùa xuân căng tràn sức sức tựa đôi môi người thiếu nữ tuổi đôi mươi.
=> Quan niệm sống mới: Hạnh phúc hiện diện ngay bên cạnh chúng ta, từ những gì đơn giản, gần gũi nhất.
– Tư tưởng hoài xuân giữa mùa xuân, quan niệm về thời gian, về cuộc đời
– Nỗi buồn lo và nuối tiếc về việc tuổi trẻ, về mùa xuân, sợ chúng sẽ nhanh chóng vụt qua mất.
– Từ đó, Xuân Diệu hướng tới một chân lý sống mới, sống “vội vàng” để tận hưởng hết những vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời, không được để lãng phí bất kỳ giây phút nào.
III. Kết bài:
– Thứ nhất là từ bức tranh thiên nhiên thực sự hấp dẫn tâm hồn độc giả, từ ấy dễ khiến người ta liên tưởng đến bức tranh tình yêu, bức tranh cuộc sống thật nồng nàn, rực rỡ của tuổi trẻ.
– Thứ hai là từ những quan điểm về thời gian, về cuộc đời về chân lý của cuộc sống đầy mới lạ hấp dẫn.
– Thứ ba là đến từ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông, đáng lưu ý nhất là những hình ảnh, những liên tưởng đầy sáng tạo và có phần táo bạo đã góp phần làm cho Vội vàng trở nên đặc biệt hơn cả.
Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng – Mẫu 1
Việc sáng tác ra một tác phẩm có sức hấp dẫn với độc giả chưa bao giờ là dễ dàng và không phải bất cứ ai cũng có thể làm được điều kỳ diệu ấy. Thế mà Xuân Diệu, không hổ danh là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới giai đoạn 1932-1945, đã tạo nên một sức hấp dẫn mới lạ trong bài thơ Vội vàng của mình. Thơ ông chẳng phải viết về một cái gì cao xa bay bổng, mà rất thực tế viết về cái khao khát thực tại của con người. Thông qua đó những quan niệm, những chân lý sống của ông dần được bày tỏ trong bài thơ. Người ta đọc lần một, lần hai rồi càng đọc càng thấm, càng đọc càng thấy hay. Đó là nhờ sức hấp dẫn lạ kỳ từ những vần thơ tự do và nồng nàn, nhiệt huyết của Xuân Diệu.
Ngay từ 4 câu thơ đầu, người ta đã có cảm nhận được sức hút mới mẻ của bài thơ. Xuân Diệu chẳng đi vào lối mòn xưa cũ, ông không chấp nhận bị thiên nhiên khống chế, chi phối mà thay vào đó chính bản thân ông lại có có suy nghĩ điều hành ngược lại tạo hóa, của một hồn thơ với cái “tôi” giao hòa giữa sự ngông cuồng và sự hồn nhiên. Xuân Diệu khao khát nắm giữ, khống chế tạo hóa, ông muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để màu đừng nhạt mất, để hương đừng bay đi. Thế mới hiểu, Xuân Diệu yêu thích và trân trọng từng khoảnh khắc xinh đẹp của vạn vật trong trời đất đến thế nào, nên mới có suy nghĩ lạ lùng, táo bạo như vậy.
Đến những vần thơ tiếp, người ta lại thấy một hồn thơ thật nồng nàn, thật bay bổng, lãng mạn và tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ, của con người đang yêu. Trong đôi mắt của nhà thơ, vạn vật đều thật tươi đẹp tràn đầy sức sống, nào ong bướm vui “tuần tháng mật”, hoa khoe sắc rực rỡ trong đồng nội một màu “xanh rì”, rồi thì “lá của cành tơ phơ phất”. Điểm tô cho bức tranh muôn màu rực rỡ ấy là tiếng chim yến chim anh đang ngợi ca mùa xuân với “khúc tình si” đầy mê say. Mỗi buổi thức dậy là một niềm vui tựa như “thần Vui hằng gõ cửa”, ánh nắng mặt trời trong đôi mắt đa tình, lãng mạn của Xuân Diệu chỉ thật đẹp khi nó chiếu lên rèm mi khép hờ của cô gái trẻ, đó là một hình ảnh rất đỗi gợi cảm, hướng người ta đến cảm giác yêu đương ngọt ngào, đó là cảm giác tươi trẻ tuyệt vời biết mấy.
Câu “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, đôi lúc không khỏi khiến độc giả sửng sốt bởi cách liên tưởng rất đỗi lạ lùng và gợi cảm của Xuân Diệu, và có lẽ chỉ Xuân Diệu mới có cách liên tưởng tuyệt vời như thế. Mùa xuân trong tâm hồn thi sĩ đa tình, trở thành mỹ vị, cũng trở thành đôi môi quyến rũ ngọt ngào của cô gái trẻ. Hỏi có ai không muốn đến trong vòng tay xuân? Cuộc sống trong thơ Xuân Diệu mang một vẻ đẹp rất hài hòa, tràn đầy sức sống, gợi đến một cảm giác hạnh phúc thật gần gũi. Từ đây, người ta phát hiện ra một chân lý thật sâu sắc về cuộc đời, hóa ra hạnh phúc chẳng phải là những thứ cao xa tận chốn bồng lai tiên cảnh mà thơ xưa vẫn thường nhắc đến, với nỗi mơ ước phiêu diêu tự tại trên ấy. Mà hạnh phúc đến từ những gì giản dị, gần gũi bên cạnh chúng ta nhất tại chính nơi trần thế này, tại sao không ai hay?
Đang trong cảm giác hạnh phúc ngập tràn như thế, Xuân Diệu bỗng khựng lại “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Ông đã nhớ mùa xuân ngay giữa mùa xuân, vừa tha thiết tận hưởng, lại vừa bị bủa vây trong cảm giác hoài niệm tiếc nuối, đó chính là cái lạ trong thơ Xuân Diệu. Từ mạch cảm xúc ấy, Xuân Diệu đã đưa ra một loạt những quan điểm về thời gian, về vòng xoay của tạo hóa.
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.”
Xuân Diệu với một tâm hồn nhạy cảm và mang nỗi ám ảnh về thời gian, đã nhận ra quy luật tuần hoàn của mùa xuân, nhưng cũng nhận ra đời người thật buồn, rồi ai cũng phải già đi, về với cõi hư vô, để mùa xuân ở lại. Từ những nhận thức ấy, nỗi lo sợ của Xuân Diệu chuyển sang sự oán trách, oán trời, trách đất, một lần nữa cái “tôi” thật ngông và hồn nhiên của Xuân Diệu được thể hiện.
“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.”
“Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi/Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” là hai câu thơ thể hiện rõ nhất nỗi lòng của Xuân Diệu, ông vừa buồn lo vì sợ thời gian trôi đi kéo theo cả cuộc đời ngắn ngủi mấy mươi năm của mình, khi mà ông còn chưa kịp tận hưởng hết vẻ đẹp của trời đất, chưa tận hưởng hết hạnh phúc trên đời. Ông cũng vừa tiếc nuối những vẻ đẹp tuyệt vời tại nhân gian, những thứ khi mà về cõi vĩnh hằng chẳng thể nhìn lại được nữa. Xuân Diệu luôn như thế, chung quy lại vẫn là nằm trọn trong một chữ “tiếc”, tiếc cuộc sống, tiếc tuổi trẻ sao trôi đi quá nhanh. Và không chỉ nỗi buồn riêng trong lòng Xuân Diệu, dòng chảy thời gian không chỉ buông tàn nhẫn với cuộc đời con người mà nó dường như để lại nỗi buồn khắp vũ trụ, vạn vật cũng nhuốm nỗi buồn, nhuốm màu chia ly, nhận thấy điều ấy trong đoạn thơ sau.
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
Câu thơ “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” nghe thật day dứt và tha thiết làm sao, bởi đời người vốn chỉ sống một lần, qua rồi thì làm sao quay lại được. Đến đây ta mới thật thấu hiểu nỗi lòng của Xuân Diệu, thấu hiểu cái nỗi buồn, cái vội vã, vồ vập trong thơ ông là vì sao, vì ông sợ không kịp.
Sau những vần thơ rất đỗi suy tư và nồng nàn, Xuân Diệu chợt như bừng tỉnh giữa đại mộng, ông đã nhanh chóng tìm cho mình một lối thoát giữa muôn vàn nỗi hoang mang về cuộc đời. Và câu trả lời ấy chỉ gói gọn trong hai chữ ở nhan đề bài thơ là “Vội vàng”. Lời thơ ông như thúc, như giục “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”. Chân lý mới về cuộc đời của Xuân Diệu lại được ông đưa vào những vần thơ của mình, sống là phải tận hưởng hết khi còn có thể, đừng để lỡ bất kỳ một phút giây nào của cuộc đời của tuổi trẻ. Xuân Diệu khao khát tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống, tựa như nỗi khao khát về một tình yêu cực kỳ mãnh liệt và nồng nàn.
Những từ “ôm”, “riết”, “thâu” cho thấy được cái khát vọng đến điên cuồng và tha thiết vô cùng của ông hoàng thơ tình. Ông muốn tận hưởng tất cả những gì đẹp nhất trần đời ấy, được phiêu lãng, chu du, được tự do trong “mây đưa và gió lượn”, trong sự ngọt ngào đắm say của tình yêu, và hơn tất cả ông muốn “thâu” tất cả lại thành một rồi đặt trong một nụ hôn thật nồng thắm. Ông say mê, điên cuồng trong mùi thơm, trong ánh sáng, đã đầy và no đủ, như một kẻ đói lâu ngày mới gặp một bữa bữa đại tiệc. Câu chốt bài “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”, có lẽ chẳng ai viết được câu thơ vừa hoang đường vừa gợi cảm đến vậy, phải khát khao điên cuồng đến bậc nào, mà Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào một mùa xuân vô hình như vậy. Đó là sự hấp dẫn trong lối viết phóng khoáng của Xuân Diệu.
Sự hấp dẫn trong thơ của Xuân Diệu đến từ nhiều phía, thứ nhất là từ bức tranh thiên nhiên thực sự hấp dẫn tâm hồn độc giả, từ ấy dễ khiến người ta liên tưởng đến bức tranh tình yêu, bức tranh cuộc sống thật nồng nàn, rực rỡ của tuổi trẻ. Thứ hai là từ những quan điểm về thời gian, về cuộc đời về chân lý của cuộc sống đầy mới lạ hấp dẫn. Thứ ba là đến từ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông, đáng lưu ý nhất là những hình ảnh, những liên tưởng đầy sáng tạo và có phần táo bạo đã góp phần làm cho Vội vàng trở nên đặc biệt hơn cả. Đọc Vội vàng, người ta như bị cuốn vào từng nhịp thơ của Xuân Diệu, bài thơ có một sức hút chẳng thể chối từ, đẹp đẽ, mới lạ và hấp dẫn là những mỹ từ xứng đáng để nói về tác phẩm này.
Phân tích sức hấp dẫn bài thơ Vội vàng – Mẫu 2
Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1941) đã nhận xét về thơ Xuân Diệu: Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết. Thật vậy, đọc Vội vàng chúng ta mới thấy hết được nguồn sống rào rạt chưa từng thấy đó và cũng chính nó tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ.
Dựa theo nội dung hình tượng và lối chuyển đổi xưng hô, chúng ta có thể cảm nhận bài thơ theo bố cục hai phần rõ rệt: Phần đầu từ (Tôi muốn tắt nắng đi cho đến Mùa chưa ngả chiều hôm): ở đây thi sĩ xưng tôi là muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời. Nội dung cảm xúc ở đây là niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian đang bày ra trước mắt như một bữa tiệc lớn dành cho giác quan và tâm hồn. Nội dung lý luận là việc tập thuyết trình bày những lí lẽ vì sao phải sống vội vàng mà chủ yếu là xuất phát từ nhận thức và quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian, tuổi trẻ. Phần hai là phần còn lại. Thi sĩ xưng ta là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian – đối tượng cần tận hưởng. Nội dung cảm xúc đó là những vồ vập chếnh choáng của một cái tôi đầy ham hố đang muốn tận hưởng cho thật nhiều, thật đã đầy những hương sắc của trần thế.
Tuy vậy, hai phần thơ lại chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc, rất chặt chẽ về lí luận. Nó khiến cho bài thơ liền mạch và hoàn chỉnh cứ như một dòng chảy ào ạt. Ngỡ như thi sĩ không phải dụng công trong việc cấu tạo, thiết lập, sắp xếp gì vậy. Đây chính là thành công cũng như sức hấp dẫn của bài thơ. Đi vào phân tích cụ thể bài thơ ta sẽ thấy điều đó:
Mở đầu bài Thơ, Xuân Diệu thể hiện một. khát vọng kì lạ đến ngông cuồng;
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Trong làng Thơ mới, Chế Lan Viên thấy cuộc đời tất cả là vô nghĩa, là khổ đau. Không thích mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn bước chân nó bằng những gì sót lại từ mùa thu trước. Những lá và rơi, muôn cánh hoa tàn… với tất cả ý thu góp lại tạo nên một hàng rào tâm tưởng để chắn nẻo xuân sang. Ở bài Vội vàng, Xuân Diệu dường như lại có thái độ khác hẳn: thi sĩ cũng muốn đạt quyền của tạo hóa: muốn tắt nắng, muốn buộc gió để cho hương sắc của mùa xuân đừng bay đi. Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả điều này một cách thành công.
Sở dĩ Xuân Diệu có khát vọng kì lạ đó là do dưới con mắt của ông mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.
Mùa xuân – mùa của tình yêu, của sự sống đã đi vào trong thơ ca hàng nghìn năm, nhưng trước Xuân Diệu, có lẽ chưa ai có tứ thơ lời thơ tương tự. Đây là mùa xuân tươi đẹp, bướm ong dập dìu, chim chóc ca hát, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng nội . Đáng nói hơn là vạn vật như căng đầy sức sống, giao hòa vui sướng. Bằng cách sử dụng linh hoạt, dồn dập các điệp từ, điệp ngữ của này đây; những dòng thơ trên tạo cho con người đọc ấn tượng một mùa xuân viên mãn, thiên nhiên phong phú bất tận như chờ đợi, như chào mời sẵn sàng dâng hiến, trao tặng cho con người.
Táo bạo nhất, mới mẻ nhất có lẽ chính là mấy câu thơ tiếp:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mọi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa,
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Mỗi buổi sáng, thi sĩ thức dậy, mở mắt ra là được chứng kiến một cảnh tượng mới mẻ, diễm lệ: ánh bình minh rực rỡ chiếu sáng thế giới. Nguồn ánh sáng ấy như phát ra từ đôi mắt xinh đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp chớp hàng mi. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu đã lấy lại hình ảnh gợi cảm này:
Tà áo mới cũng say màu gió nước;
Rặng mi dài xao động ánh dương vui
(Xuân đầu)
Thơ Xuân Diệu câu nào cũng xanh non, biếc rờn. Song ấn tượng nhất, tươi đẹp nhất vẫn là câu: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Ở đây, nhà thơ có sự so sánh thật táo bạo, thiên về cảm giác, gây được ấn tượng mạnh cho người đọc. Dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân tựa hồ như một cô gái kiều diễm, hồng hào, tình tứ, đầy hấp dẫn… Ở đây, con người là một thiếu nữ – sản phẩm kỳ diệu của tạo hóa, được Xuân Diệu coi là chuẩn mực cho một vẻ đẹp trên thế gian này. Xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ ấy, Xuân Diệu sáng tạo ra nhiều câu thơ khỏe khoắn, mới lạ đầy sức hấp dẫn:
… Lá liễu dài như một nét mi
Hơi gió thở như ngực người yêu dấu…
Như vậy, bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời, vạn vật có nhiều điểm khác lạ so với các nhà thơ cũ, ông phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi bình dị quanh ta đây biết bao điều mới lạ thật đáng yêu đáng quý.
Cuộc đời là thế! Thật đẹp và hấp dẫn nhưng không ai có thể sống mãi mãi để tận hưởng mọi lạc thú. Năm tháng chảy trôi tuổi xuân một đi không bao giờ trở lại, đúng là thời gian ăn cuộc đời.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Cách thức trình bày của Xuân Diệu là chống lại quan niệm của thơ cũ. Trong thơ xưa, quan niệm thời gian là tuần hoàn. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng liên tục tái diễn, hết vòng này phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ làm thước đo thời gian. Bác bỏ quan niệm khác là thời gian tuyến tính. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là vĩnh viễn mất đi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, biện chứng về thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Cho nên, thi sĩ đã không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Thực ra, thơ xưa không ít bài than thở về sự hạn hữu của tiếp người. Cổ nhân từng coi đời người trôi qua nhanh chóng chẳng khác gì bóng ngựa qua cửa sổ. Nhưng người xưa không vì thế mà hoảng hốt. Họ quan niệm vũ trụ sẽ nhập thêm vào cái vĩnh cửu của đất trời. Người của thời đại, của Thơ mới, Xuân Diệu chỉ thấy thời gian một đi không trở lại và vũ trụ là thế giới khách thể độc lập với con người. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân, nhà thơ cảm nhận thấm thía hơn ai hết sự thật đáng buồn: Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại; cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.
Đến đây, cái tươi vui rạo rực ở phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn nuối tiếc không nguôi cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây chẳng qua là một cách biểu hiện khác của lòng ham sống, lòng yêu đời thiết tha, say đắm. Tình cảm mãnh liệt này đã được diễn đạt một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, mà ít nhiều ta đã gặp ở phần đầu bài thơ:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời sống cá thể đều vi cùng quý giá. Phải chăng vì ý thức rất rõ không có gì ngăn cản được bước đi của mùa xuân – của đời người, nên trong tâm tưởng thi sĩ: Cảnh xuân càng trở nên lộng lẫy – cuộc đời càng đáng sống đáng yêu bội phần?
Điều này giải thích thái độ ngông cuồng của tác giả muốn đoạt quyền của tạo hóa để tắt nắng, buộc gió ở đầu bài thơ.
Và đương nhiên, khát vọng này không bao giờ có thể thành hiện thực. Nhà thơ ham sống cũng phải tuân theo quy luật khắc nghiệt của đất trời. Do đó, chỉ còn một cách duy nhất là phải sống vội vàng sống cuống quýt, tận dụng cao độ từng giây, từng phút, của tuổi thanh xuân. Ý tưởng táo bạo này được diễn tả một cách thật mới mẻ qua đoạn thơ cuối bài:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Có thể thấy cảm xúc tràn trề ào ạt đã khiến Xuân Diệu tìm đến một phép sử dụng ngôn từ khá đặc biệt. Đó là tạo ra những làn sóng ngôn từ đan xen nhau, cộng hưởng nhau theo chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào. Trong đó việc phối hợp các hệ thống trùng điệp, lối vắt câu đã tạo nên giá trị thẩm mĩ độc đáo cho bài thơ.
Toàn bộ phần thơ cuối này được tổ chức thành tiếng lòng của nỗi khao khát mãnh liệt. Tiếng lòng ấy là một chuỗi điệp cú, hình thái thì điệp nguyên vẹn còn động thái và cảm xúc thì điệp lối tăng tiếng: Ta muốn ôm, Ta muốn riết Ta muốn say, Ta muốn thâu và cuối cùng Ta muốn cắn, vì vậy tính cao trào thể hiện khá rõ.
Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của hệ thông điệp từ khác: liên từ – và non nước, và cây, và cỏ rạng; giới từ điệp nguyên vẹn, gắn với những trạng thái càng lúc càng mãnh liệt: cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê…
Ngoài ra, phải để đến hệ thống những tính từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm say, những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ tạo ra những hình ảnh từ, quyến rũ: bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cái hôn nhiều, cỏ rạng, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng…
Tất cả những phương tiện ngôn ngữ và phương diện ngôn từ ấy được dùng thuần thục tinh vi, chuyển tải được nhuần nhuyễn những tình ý mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, chứng tỏ một Xuân Diệu ngay từ khi còn trẻ đã là một bậc thầy về tiếng Việt.
Vội vàng đúng là bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát được giao cảm với đời. Tuy có thể còn những cách cảm nhận tác phẩm khác nhau nhưng nhìn chung, bài thơ đã giúp phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống, biết tận hưởng niềm hạnh phúc trần thế và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không trở lại. Có lẽ chính điều này đã tạo nên tính hấp dẫn của bài thơ
Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng – Mẫu 3
Xuân Diệu nổi tiếng trong làng Thơ mới thời kì 1930- 1945. Thi sĩ đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một hơi thở mới, luôn trẻ trung, nồng nàn, rạo rực của một trái tim sôi nổi, đa tình. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh đã viết: “Thơ Xuân Diệu… là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”.
Bài Vội vàng được rút trong tập Thơ- thơ (1938), đây là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất phong cách nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu.
Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng muốn giữ lại mãi cái thế giới tươi đẹp muôn màu:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Đó là một khát vọng muốn cho thời gian ngừng trôi, muốn níu giữ mãi những gì tươi đẹp ở bên mình, hay nói cách khác, muốn “vĩnh cửu hóa” cái đẹp, để cho thi sĩ tôn thờ, thưởng thức.
Đó là cái cảm xúc thường thấy trong làng thơ lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Chế Lan Viên không thích mùa xuân, vì muốn “vĩnh cửu hóa” cái buồn của mùa thu:
Ai hay trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với những bông hoa muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang.
Với Xuân Diệu lại khác: thi sĩ muốn đoạt quyền của tạo hoá, “muốn tắt nắng đi”, “muốn buộc gió lại”, để cho hương sắc của mùa xuân “đừng bay đi”. Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó một cách đầy chất thơ.
Sở dĩ có khát vọng ngược với quy luật tự nhiên đó, bởi lẽ, dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ:
Của ong bướm này đây đủ tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Điệp ngữ “này đây” được lặp lại bốn lần, có mật trong mỗi câu thơ có mục đích làm cho mỗi biểu hiện của mùa xuân đều trở nên rất cụ thể, rất rõ ràng. Bên cạnh đó là những hình ảnh hết sức “cám dỗ”: tuần tháng mật của các loài ong bướm, “hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ”, khúc nhạc tình si mê của các đôi oanh yến. Tất cả đều rất cụ thể, đáng yêu và đầy sức quyến rũ. Hóa ra với Xuân Diệu, cuộc đời, hạnh phúc không phải là cái gì trừu tượng, mơ hồ, xa xôi mà rất cụ thể, rất “vật chất”, hiện hình ngay trước mắt, trong thời điểm này… Đó chính là cái mới trong cách cảm, cách nghĩ của thế hệ các nhà Thơ mới, mà ở đây Xuân Diệu là đại diện, so với những nhà thơ trước đó.
Cũng như trong nhiều bài thơ khác, cảnh vật trong bài thơ này được phát hiện với tất cả niềm háo hức mê say, tất cả sự ngỡ ngàng. Những sự vật quen thuộc trong thơ truyền thống đã trở nên mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham sống:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi buổi sớm Thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Ngày nào cũng vậy, mỗi buổi sáng, chúng ta thức dậy đều được chứng kiến một cảnh tượng ánh mặt trời rực rỡ. Nhưng với thi sĩ đa tài, đa tình này thì nguồn ánh sáng ấy như phát ra từ đôi mắt xinh đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp hàng mi.
Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu cũng đã lấy lại hình ảnh gợi cảm này:
Tà áo mới cũng say màu gió nước;
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.
(Xuân đầu)
Ta còn bắt gặp cách diễn đạt trên đây trong truyện ngắn Lệnh, in trong tập Trường ca (1945): “Khi hứng thú nồng nàn, ánh sáng lấn át cả không gian, ôm chầm vũ trụ, đè bẹp bóng tối dưới triệu móng chân. Mi của ánh sáng thật dài, tia sáng của ánh sáng thật đượm (…) Ánh sáng đứng ở một chỗ mà ở khắp nơi con mắt diệu quang thấu suốt muôn trùng”.
Tuy vậy, trong bài thơ Vội vàng, gây ấn tượng mới mẻ nhất chính là câu:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Cách ví von rất lạ! Cái lạ ấy cũng thể hiện rõ nhất quan điểm thẩm mỹ của Xuân Diệu như ta vừa phân tích: đó là cái đẹp trần tục, cụ thể – một cách cảm nhận mà trong suốt ngàn năm phong kiến không có. Tác giả ở đây còn “trần tục hóa” cả thời gian. Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng, nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Trong con mắt của Xuân Diệu, chỉ có thời gian tuyến tính, một kiểu thời gian “một đi không trở lại”:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi…
Rõ ràng cái lý do khiến Xuân Diệu cảm thấy vội vàng chính là sự linh cảm từng bước đi của thời gian. Ông sợ thời gian trôi đi mau, sợ cuộc sống trôi đi mau. Và vì thế, cái đẹp, cái vĩnh cửu không còn. Triết lí của bài thơ này là thế. Ông không tin, không muốn tin vào cái “thời gian tuần hoàn”. Đến đây, ta lại nhớ đến câu thơ của nữ sĩ Xuân Hương xưa:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
(Than thân)
Nữ sĩ Xuân Hương khát khao cái vẻ đẹp trọn vẹn, bình yên, nhưng không được chỉ vì “thời gian tuần hoàn”, “xuân đi xuân lại lại”; còn bây giờ, với Xuân Diệu, thì ông lại không muốn tin vào cái thời gian “tuần hoàn” ấy, không thích cái “thời gian tuần hoàn” ấy. Ông chỉ thấy thời gian tuyến tính, thời gian “không trở lại” đang từng giờ từng phút tạo ra sự chia ly:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt…
“Lí lẽ” của Xuân Diệu thật lạ lùng: nó xuất phát từ một trái tim nồng nàn, tha thiết với cuộc sống, muốn kéo níu tất cả những gì tươi đẹp, muốn khẳng định cái “tôi” một cách mạnh mẽ và đầy dấu ấn chủ quan:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất…
Thơ xưa cũng nói nhiều đến thời gian tuyến tính, nhưng mỗi khi nói đến nó, các nhà thơ thường bộc lộ nỗi niềm cảm hoài trước nhân tình thế sự: đó là sự đổi thay, nhất là sự đổi thay của thời thế, của các triều đại, của nhân tình và của số kiếp con người. Cảm hứng đó tạo nên cả một dòng thơ thế sự, thường than thở, ngậm ngùi trước những biến dời của tạo hóa, “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành nương dâu):
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
(Bà Huyện Thanh Quan – Thăng Long thành hoài cổ)
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ thành nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai…
(Tú Xương – Sông Lấp)
Cảm xúc của Xuân Diệu không đi theo lối mòn ấy. Đứng trước thời gian đang dần trôi đi, Xuân Diệu không giấu nỗi niềm sốt ruột vì sự lụi tàn của cuộc sống và cái đẹp:
Cơn gió xinh xì xào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Đến đây, cái tươi vui rạo rực ở phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi nuối tiếc khôn nguôi cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi u hoài ở đây là một cách biểu hiện khác của lòng ham sống, lòng yêu đời thiết tha say đắm. Tình cảm mãnh liệt này đã được diễn đạt một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, mà ít nhiều ra đã gặp ở phần đầu bài thơ.
“Lý thuyết” của sự “vội vàng” đến đây đã định hình rất rõ: vì thời gian không nhân nhượng, vì khát vọng của con người rất nồng nàn; cả hai cái ấy không dung hòa nhau. Bi kịch? Và bi kịch sẽ là tất yếu nếu con người không điều chỉnh cách sống cho phù hợp, nếu con người ta không biết vồ vập, vội vàng hơn, cụ thể hơn, thiết thực hơn trong cuộc sống!
Cái lý lẽ ấy, mới nghe tưởng như thuyết “sống gấp” xuất hiện trong văn học đồi trụy phương Tây những năm cuối của thế kỉ XX. Thực ra, phải đặt trong thời điểm những năm đầu thế kỉ trước, khi văn học Việt Nam, cách nghĩ của người Việt Nam phần lớn còn nhuốm đậm màu sắc phong kiến, luôn xa lạ, rẻ rúng những gì cụ thể, thực dụng, trái lại, chỉ thích tìm đến cái vĩnh hằng, cao cả nhưng không có thực, xa lạ với cuộc sống của con người. Phải đặt trong thời đại ấy, ta mới hay rằng, bài thơ của Xuân Diệu, dẫu có cổ động cho lối sống “vội vàng”, thì cũng chỉ là một cách để chống lại lối tư duy phong kiến cũ kĩ, thể hiện cái “tôi” cá nhân mang tính mới mẻ nhờ tiếp thu văn hóa phương Tây, cùng với lòng yêu tha thiết với cuộc sống cụ thể, trần tục này mà thôi:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Ở đây, từ lối vắt câu đến nghệ thuật dùng điệp ngữ, từ việc sử dụng nhiều hình ảnh táo bạo … đều đã góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say của tác giả. Đặc biệt, hàng loạt các động từ có ý nghĩa “mạnh” đã có sức lôi kéo độc giả rất mãnh liệt: “ta muốn ôm”; “ta muốn riết”, “muốn thâu”…; rồi hàng loạt tính từ mạnh: chếnh choáng, đã đầy, no nê … và cuối cùng là động từ “cắn”; “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”, những động từ, tính từ mạnh mẽ ấy đã bộc lộ rõ nhất cái khao khát mãnh liệt của nhà thơ muốn được sống hết mình, yêu hết mình, hưởng thụ hết mình cái ý nghĩa đẹp đẽ của cuộc sống. Và những câu thơ ấy, tình cảm thiết tha, nồng nàn ấy cũng đã thu hút bạn đọc một cách mãnh liệt. Đúng như Thế Lữ đã nhận xét: “Ông muốn thành một cây kim để hút mình vào thiên hạ”.
Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn “khát khao giao cảm với đời”. Đây là một bài thơ trữ tình, dưới hình thức triết lý nhân sinh, nhưng giá trị của nó không nằm hoàn toàn ở triết lý nhân sinh. Bạn đọc cảm nhận được ở đây một tâm hồn nồng nàn tình yêu cuộc sống, một trái tim sôi nổi trẻ trung, một tài năng xuất sắc, một nghệ sĩ đa tình… Nói tóm lại, bài thơ xứng đáng như một sáng tác bất hủ trong đời sống thơ ca dân tộc Việt Nam.