Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành (Dàn ý + 4 mẫu), Mời các thầy cô và ác bạn cùng tham khảo bài văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành, chúng
Hôm nay, chúng tôi tiếp tục gửi đến cho các bạn một số bài văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành.
Hồi trống Cổ thành của La Quán Trung là một tác phẩm đặc sắc của nền văn học Trung Hoa. Để có thể giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về tác phẩm, sau đây chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo dàn ý và một số bài văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả La Quán Trung và tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa
– Giới thiệu khái quát về đoạn trích Hồi trống cổ thành
II. Thân bài:
1. Trương Phi và những hiểu lầm đối với Quan Công
a. Phản ứng của Trương Phi khi nghe xong lời của Tôn Càn:
– Chẳng nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa.
– Dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa Bắc.
⇒ Hành động bột phát, trong tâm thế chiến đấu với kẻ thù.
b. Khi Trương Phi gặp Quan Công:
– Trương phi:
+ Diện mạo: mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược.
+ Hành động: hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.
+ Xưng hô: mày – tao.
+ Lập luận buộc tội Quan Công.
+ Nguyên nhân: Trương Phi hiểu lầm Quan Công đã phản bội lại mình.
⇒ Trương phi là người ngay thẳng, cứng cỏi, không dung thứ cho kẻ hai lòng.
– Quan Công:
+ Gọi Trương Phi là “hiền đệ”, “em”.
+ Lời lẽ mềm mỏng.
+ Nhờ hai chị dâu giải thích hộ.
2. Sự xuất hiện của Sái Dương, giải hiềm nghi và hai anh em đoàn tụ
– Ý nghĩa việc xuất hiện của Sái Dương:
+ Đẩy mâu thuẫn của hai anh em lên đến cao trào.
+ Là mở nút để minh oan cho Quan Công.
– Trương Phi khi thấy Sái Dương xuất hiện:
+ Suy nghĩ: Nghĩ Quan Công đem quân đến bắt mình.
+ Hành động: Múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.
+ Yêu cầu: Đánh ba hồi trống để Quan Công chém chết tướng giặc thể hiện lòng thành, thẳng tay đánh trống để thách thức Quan Công.
⇒ Thái độ dứt khoát, kiên quyết của con người ngay thẳng.
⇒ Quan Công chấp nhận thử thách.
– Quan Công giết Sái Dương khi chưa hết một hồi trống:
+ Thái độ, hành động của Trương Phi: rỏ nước mắt, thụp lạy Quan Công.
⇒ Thái độ bao dung, phục thiện đúng lúc.
⇒ Trương Phi là con người giàu tình cảm, nóng nảy, thô lỗ nhưng khôn ngoan và biết trọng lẽ phải.
3. Ý nghĩa của hồi trống cổ thành
– Hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của các anh hùng.
– Biểu dương tính cương trực của Trương Phi.
– Ca ngợi lòng trung nghĩa của Quan Công.
III. Kết bài:
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.
Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành – Mẫu 1
Có thể nói tiểu thuyết chương hồi là thể loại đạt được nhiều thành tựu nổi bật nhất trong kho tàng văn học thời Minh – Thanh ở Trung Quốc. Một trong những tác phẩm nổi tiếng thời kì này phải kể đến “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Ông là tác giả đã có những đóng góp xuất sắc cho thể loại tiểu thuyết lịch sử thời Minh – Thanh và “Tam quốc diễn nghĩa” có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam và các nước trên thế giới.
Đây là tác phẩm lớn gồm 120 hồi được ra đời vào đầu thời nhà Minh (1368 – 1644) kể chuyện “cát cứ phân tranh” của ba tập đoàn phong kiến Ngụy – Thục – Ngô với các cuộc chiến tranh diễn ra liên miên, đời sống nhân dân khổ cực trong gần 100 năm của nước Trung Quốc thời cổ. Đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành” thuộc hồi 28 của tác phẩm. Nội dung của đoạn trích kể về việc Quan Công đưa hai chị đến Cổ Thành thì biết Trương Phi đang chiếm thành, tạm lấy chốn nương thân liền sai Tôn Càn vào thành báo tin để Trương Phi ra đón hai chị. Gặp lại Trương Phi, Quan Công “mừng rỡ vô cùng” còn Trương Phi do hiểu nhầm Quan Công “hàng Tào Tháo” nên “múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Đang trong lúc phân trần sự thật thì quân Tào kéo đến, Quan Công đã lấy đầu của Sái Dương – tên tướng cầm đầu quân Tào. Sau này, Trương Phi mới tin Quan Công và “mời hai chị vào thành”.
Đoạn trích này đã khắc họa thành công hai nhân vật Trương Phi và Quan Công với những đặc điểm tính cách nổi bật. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi là anh em kết nghĩa nơi vườn đào, có lời thề sống chết bên nhau. Họ cùng có chí khôi phục lại nhà Hán, mang lại thái bình cho đất nước và sự ấm no cho nhân dân. Kẻ nào phản bội lại nghĩa tình anh em thì đó là kẻ bất trung, bất nghĩa. Trước đó, họ nương náu dưới trướng Tào Tháo nhưng khi hiểu được bản chất gian hùng của Tào Tháo nên họ đã bỏ đi. Vì phải “hộ tống hai chị dâu nên Quan Công tạm hàng Tào Tháo với điều kiện hàng Hán chứ không hàng Tào”. Tào Tháo tìm mọi cách thu phục Quan Công nhưng khi biết tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu thì Phi trả hết con dấu, châu báu, lên đường tìm anh. Đến Cổ Thành thì Quan Công gặp Trương Phi và bị Trương Phi hiểu nhầm.
Với tính tình nóng nảy, cương trực, Trương Phi “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Trương Phi “hầm hầm quát” người anh em kết nghĩa vườn đào với mình năm xưa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?” và quyết liều sống chết với Quan Công.Trương Phi không nghe bất cứ một lời giải thích nào từ Quan Công, Cam phu nhân, Mi phu nhân và Tôn Càn. Trương Phi không xưng hô lễ nghi như “nhị ca” -“tiểu đệ” mà xưng “tao” – “mày”, gọi Quan Công là “nó”, là “thằng phụ nghĩa”. Điều ấy chứng tỏ Trương Phi là con người thẳng thắn, không thể dung tha cho kẻ đã phản bội anh em, làm những điều phi nghĩa. Nhân vật này còn quả quyết khẳng định: “Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết chứ không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?” Đó là câu nói thể hiện lí lẽ, quan điểm và sự dứt khoát của Trương Phi. Bậc bề tôi quyết trung thành với vua, thà chịu chết chứ không chịu đầu hàng kẻ thù.
Mâu thuẫn giữa hai nhân vật được La Quán Trung đẩy lên cao trào khi Trương Phi trông thấy quân Tào kéo đến do Sái Dương dẫn đầu, “vác đao tế ngựa xông đến”. Vốn đã nghi ngờ Quan Công ngay từ đầu nên khi trông thấy cảnh tượng “bụi bay mù trời, một toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào” như đến để bắt mình nên Trương Phi lại càng nổi giận và “múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công”. Khi Quan Công tỏ lòng thực của mình bằng cách chém tên tướng Sái Dương thì Trương Phi cũng kiên quyết ra điều kiện: “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Đây là cơ hội để Quan Công chứng minh được sự trong sạch và tấm lòng ngay thẳng, trung nghĩa của mình.
Chưa dứt một hồi trống, “đầu Sái Dương đã lăn dưới đất”, “quân Tào chạy tan tác” nhưng kết quả ấy cũng chưa thuyết phục được lòng tin của Trương Phi. Chỉ khi nghe một tên lính kể chuyện Sái Dương nghe tin Quan Công giết cháu ngoại mình bèn “nổi giận đùng đùng” muốn sang Hà Bắc đánh Quan Công nhưng Tào Tháo không cho đi, “nhân sai Nhữ Nam đánh Lưu Tích” không ngờ đi đến Cổ Thành gặp Quan Công thì lúc đó Trương Phi mới “tin anh là thực” và “mời hai chị vào thành”. Hai người chị kể cho Trương Phi nghe những việc mà Quan Công trải qua khiến Trương Phi “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường”. Trương Phi tuy tính tình nóng nảy nhưng khi hiểu hết câu chuyện và hoàn cảnh của người anh kết nghĩa thì đã tin tưởng và phục thiện. Đó là một trong những vẻ đẹp nhân cách của nhân vật này.
Bên cạnh đó, tác giả La Quán Trung cũng khắc họa nhân vật Quan Công với tính cách khiêm nhường, trung nghĩa, thủy chung với tình anh em kết nghĩa vườn đào. Khi gặp được Trương Phi, Quan Công “mừng rỡ vô cùng, giao long đao cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón”. Ngay cả khi bị Trương Phi gọi là “mày”, “thằng”,”nó” nhưng Quan Công vẫn giữ cách xử sự đúng mực, độ lượng khi gọi Trương Phi là “em” và “hiền đệ”. Quan Công hết sức bình tĩnh khi “tránh mũi mâu”, nhờ hai chị làm nhân chứng cho sự trung thành của mình. Không những thế, Quan Công rất coi trọng tình nghĩa anh em đã có và muốn chứng minh điều ấy qua hành động chém Sái Dương “để tỏ lòng thực”. Trước sự nghi ngờ của Trương Phi lớn như vậy nhưng Quan Công vẫn giữ được bình tĩnh và sự từ tốn của bản thân để minh oan.
Hồi trống có ý nghĩa thâu tóm toàn bộ linh hồn, mang lại không khí chiến trận cho đoạn trích. Đó là hồi trống thách thức, minh oan, đoàn tụ của ba anh em của Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi. Đoạn trích đã thể hiện được tính cương trực của Trương Phi và lòng trung nghĩa của Quan Công. Kết cấu của “Hồi trống Cổ Thành” như một vở kịch hoàn chỉnh và mang những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” không chỉ phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa lúc bấy giờ mà còn để lại những bài học về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín của Nho giáo, các cách ứng xử của bậc quân tử. Đây cũng là nguyên nhân khiến tác phẩm luôn có sức hấp dẫn đối với các thế hệ bạn đọc.
Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành – Mẫu 2
Hồi trống Cổ Thành là tên do người biên soạn đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa hồi 28, có hai câu thơ làm tiêu đề:
Chém Sái Dương anh em hòa giải,
Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên.
Chữ “hồi” trong câu thơ này có nghĩa là trở về, chứ không phải là hồi trống như trông tên đoạn trích.Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật, nhưng sinh động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.
Lúc mới dựng nghiệp, nhà Thục còn yếu, trong khi quân Tào rất mạnh, vì thế nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Quan Công, Trương Phi bàn mưu kế chống lại Tào Tháo. Bị bại lộ, Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi kéo hai mươi vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người chạy một ngả. Lưu Bị chạy sang Nhữ Nam ở nhờ Viên Thiệu, Quan Công bị khốn ở Thổ Sơn, Trương Phi tá túc ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân sang ở nhờ Tào Tháo. Tạm hàng Tào Tháo nhưng Quan Công ra điều kiện rằng nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ đi tìm ngay.
Biết tin Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công đưa hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo vì muốn lưu giữ Quan Công để dùng nên không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không sai tướng đuổi bắt. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công qua ải nên ông phải mở đường máu mà đi: Quan Công đã phải chém sáu tướng Tào để vượt qua năm cửa ải: Qua ải Đông Lĩnh chém Khổng Tú. Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thần. Qua Nghi Thủy giết Biện Hỷ. Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực. Đến bờ Hoàng Hà giết Tần Kỳ.
Đoạn trích kể về cuộc “đụng độ” đặc biệt giữa hai anh em kết nghĩa là Quan Công và Trương Phi ở cổ Thành.
Trên đường sang Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến cổ Thành, Quan Công hỏi thăm được biết Trương Phi đang ở đấy nên xiết bao vui mừng. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công ăn ở hai lòng đã lầm tưởng là Quan Công lừa mình để bắt nộp cho Tào Tháo nên giận dữ không thèm tiếp, đã thế còn sỉ mắng và dọa đánh. Ngẫu nhiên, lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân ầm ầm kéo đến khiến Trương Phi càng khẳng định thêm nghi ngờ của mình là đúng. Thanh minh không được, Quan Công hứa sẽ chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng Tào thì mới tin. Nhưng Trương Phi vừa đánh dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi tạm nguôi giận nhưng chỉ sau khi nghe tên lính hầu của Sái Dương bị Quan Công bắt kể đầu đuôi mọi chuyện thì chàng mới tin, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Quan Công vào được Cổ Thành, “cửa ải thứ sáu” và cũng là cửa ải thử thách ghê gớm nhất đối với lòng trung nghĩa.
Đoạn trích Hồi trống cổ Thành rất giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không bình phẩm. Linh hồn đoạn trích kết tụ trong hồi trống của Trương Phi. Đó là hồi trống ra quân, cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, giải oan và đoàn tụ. Chủ đề đoạn trích toát lên hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt vời trung nghĩa của Trương Phi và ý nghĩa sâu xa của hồi trống Cổ Thành.
Trương Phi là con người thẳng như làn tên bắn, sáng như tấm gương soi. Ông không chấp nhận sự quanh co, lắt léo. Đối với Trương Phi, đen trắng phải rõ ràng; với kẻ thù thì chỉ có thể nói chuyện bằng gươm giáo. Tính cách Trương Phi vốn dĩ là nóng nảy, bộc trực và đơn giản, song để xác định Quan Công trung thành hay phản bội, Trương Phi lại không đơn giản chút nào. Khi nghe tin Quan Công đến, Trương Phi giận dữ mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đầm Quan Công.
Câu hỏi của Quan Công: Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào ư? làm cho Trương Phi bừng bừng nổi giận. Ý của Quan Công là muốn nhắc lại việc ba anh em kết nghĩa vườn đào để uốn nắn thái độ quá khích của Trương Phi, không ngờ lại như đổ thêm dầu vào lửa, càng làm cho Trương Phi thêm phẫn nộ. Theo Trương Phi, Quan Công ở chung với Tào Tháo một thời gian, nhận tước vị Tào Tháo phong cho đã là phản bội; đã phản bội mà còn dám động đến chuyện kết nghĩa vườn đào thì lại càng đáng căm thù và phỉ nhổ. Quan Công phản bội thì phải xử đúng như lời thề trước đây: Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời, người cũng giết. Những lời thanh minh cho Quan Công của hai chị dâu và Tôn Càn không làm dịu bớt cơn thịnh nộ của Trường Phi.
– Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ. Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!
Mi phu nhân cũng nói: – Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.
Phi nói: – Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?
Quan Công nói: – Hiền đệ đừng nói như vậy, oan uổng quá.
Tôn Càn cũng nói: – Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.
Trương Phi mắng: – Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó!
Tôn Càn bênh vực Quan Công không được mà Cam phu nhân, Mi phu nhân thanh minh hộ cũng vô hiệu. Với Trương Phi, dẫu có “trăm nghe” cũng không bằng “một thấy”. Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi đã hết sức cẩn trọng. Quan Công thanh minh: Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quân mã chứ! Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói: Không phải quân mã là gì kia? Sự hiểu lầm đã lên tới điểm đỉnh vì một chi tiết ngẫu nhiên : Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy đuổi Quan Công đang tới gần. Để xoá bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ có cách là chém đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng của Tào Tháo. Dứt lời, Trương Phi lập tức đánh trống. Bao nhiêu uất ức, căm giận của Trương Phi như dồn cả vào cánh tay thúc trống. Chỉ sau một hồi, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất.
Tưởng thế là mọi việc đã rõ và câu chuyện nhanh chóng đi đến kết thúc, song thực tế lại diễn ra không đơn giản. Mãi đến khi nghe một tên lính bị bắt kể về lí do Sái Dương đến cổ Thành là để truy đuổi và trị tội Quan Công vì đã giết cháu ngoại hắn ; rồi Trương Phi còn hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, bấy giờ Phi mới tin anh là thực. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội biểu lộ rõ thái độ ngay lúc ấy mà cho tới lúc đã vào cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những việc Quan Công đã trải qua thì Trương Phi nghe hết chuyện, “rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường”.
Thô lỗ và tinh tế là hai nét tính cách đối lập song ở trong đoạn trích này, chúng lại xuất hiện trong cùng một nhân vật Trương Phi. Trong cuộc đời, Trương Phi đã từng dùng mưu mẹo tinh vi để bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo và bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không hề làm hao tổn một binh sĩ! Thô trung hữu tế (trong cái thô có cái tinh tế) là biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và tinh tế ở đây đều là biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình huống ở cổ Thành, việc hạ thủ Quan Công có lẽ còn dễ hơn, đơn giản hơn là kiểm nghiệm lòng trung thành của Quan Công. Cái khéo léo của tác giả là đã tạo ra những tình huống để cho cả hai nét trái ngược trong tính cách Trương Phi cùng bộc lộ vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn.
Trong đoạn trích Hồi trống cổ Thành, Quan Công tỏ ra rất độ lượng và từ tốn, thể hiện qua các chi tiết nổi bật như: sự hốt hoảng trước cách xử sự của Trương Phi, thái độ nhún mình thanh minh trước người em nóng nảy, cầu cứu hai chị dâu, chấp nhận điều kiện khắc nghiệt để minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là nỗi oan đặc biệt: làm công việc vì chủ tướng nhưng lại trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và lòng dũng cảm, phi thường.
Để đến được Cổ Thành, Quan Công đã phải vượt qua bao thử thách (năm cửa ải). Những kẻ cản đường trong hành trình gay go này là quân địch. Còn tại Cổ Thành, kẻ cản đường lại là anh em kết nghĩa. Chí với chiến công xuất sắc Chém đầu Sái Dương trong nháy mắt, vấn đề trung thành hay phản bội của Quan Công đã được làm sáng tỏ.
Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong quan hệ đối sánh với Trương Phi. Người đời khen Quan Công “tuyệt nghĩa”. Nhưng chữ “nghĩa” cũng có hai mặt: trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa là lòng trung thành với vua, với lý tưởng phò nhà Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín nghĩa là lòng tin trong quan hệ giữa bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng. Đoạn trích có hai nhân vật, nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền để tính cách của Trương Phi nổi bật.
Cái tên Hồi trống cổ Thành rất hay vì trước hết, nó gợi lên không khí chiến trận. Ở đây không chỉ có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công mà còn là mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy đó chỉ là mâu thuẫn thứ yếu song nó cũng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chủ yếu thêm quyết liệt.
Ba hồi trống là điều kiện, hơn thế, là vị quan tòa nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung thành hay phản bội. Điều kiện ba hồi trống Trương Phi đặt ra là vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chém được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo đã từng công khai biểu thị thái độ không phục Quan Công, giờ lại mang quyết tâm trả thù rất cao cho cháu, đó cũng là thách thức to lớn với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã làm tăng sức mạnh và tài nghệ siêu quần của Quan Công, cho nên Quan Công đã làm được một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chém rơi đầu Sái Dương trong giây lát.
Bởi vậy, Hồi trống cổ Thành dù mang đậm không khí trận mạc song rất khác tiếng trống trận thông thường. Nó đã trở thành một biểu tượng cho lòng trung nghĩa, tinh thần dũng cảm và tinh thần công minh chính trực.
Có thể coi Cổ Thành là cửa ải thứ sáu nhưng đó là cửa ải tinh thần, cửa ải khảo nghiệm lòng trung nghĩa. Với tài nghệ của Quan Công, vượt qua năm cửa ải kia còn dễ hơn nhiều. Trong tình thế “tình ngay lý gian” rất khó biện bạch, giải quyết thông suốt mắc mớ trong tư tưởng, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi quả là cực khó.
Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành – Mẫu 3
La Quán Trung là người đầu tiên đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử thời Minh – Thanh ở Trung Quốc, ông chuyên sưu tầm và biên soạn dã sử như Tam quốc diễn nghĩa, Bình yêu truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa… trong đó tam quốc diễn nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam, nó phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là “cát cứ phân tranh”, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Trong một thời kì như vậy , nhân dân mong muốn hòa bình, ổn định, thống nhất. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” thuộc hồi 28 nói lên việc tranh quyền của ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Ngụy – Thục –Ngô và ý nghĩa sâu xa của hồi trống cổ thành.
Hồi trống cổ thành có bố cục khá chặt chẽ gồm sáu phần gồm trình bày, mở mối, phát triển, đỉnh điểm, mở nút và kết thúc.
Mở đầu đoạn trích “từ đầu… bảo Trương Phi ra đón hai chị”. Quan Công vì phải hộ tống hai chị dâu nên tạm hàng Tào với điều kiện chỉ hàng Hán chứ không hàng Tào. Khi nghe tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu lập tức trả hết ấn tín, vàng bạc châu báu, lên ngựa đi tìm anh. Trên đường đi nghe ngóng được tin Trương Phi đang nắm giữ Cổ Thành, quân đội hùng mạnh, lương thực rồi rào, Quan Công được tin hay vui mừng khôn xiết, không ngờ anh em thất lạc nay lại tìm thấy nhau ở đây, sai người đi báo tin cho Trương Phi để anh em đoàn tụ và đón hai chị về.
Trương Phi là người nóng nảy, thẳng thắn như tên bắn, mạnh mẽ, nói chuyện với kẻ thù bằng gươm giáo, trắng đen phải rõ ràng, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo phức tạp. Vì vậy mà sau khi Tôn Càn vào chào hỏi, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác vâu lên ngựa dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa Bắc. Hành động vô cùng giận dữ “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công” vì Phi tưởng Quan Công phản bội, đầu hàng Tào Tháo cầu vinh. Lời nói hầm hầm “Mày đã bội nghĩa, còn mặt nào đến gặp tao nữa?” Phi rất tức giận và lòng hận thù dâng ngùn ngụt như lửa. Quan Công vui mừng vô cùng cứ tưởng đoàn tụ vui vẻ ai ngờ mọi chuyện lại như thế. Quan bình tĩnh hỏi lại Trương Phi, Phi càng bốc hỏa lên mà quát rằng “Mày bỏ anh em, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước, nay lại đến đây đánh lừa tao!” và quyết liều sống chết phải giết được Quan Công cho hả giận.
Quan Công không thể giải thích được, bèn nhờ hai chị dâu, nhưng Phi bỏ ngoài tai mọi lời can gián. Hai chị dâu kể lại việc Quan Công nương nhờ bên Tào là bất đắc dĩ, đã không ngại hiểm trở, đưa hai chị tới đây bình an, khuyên Phi không được nghĩ lầm như thế , Trương Phi phớt lờ và nêu ra đạo lí với hai chị “Hai chị bị lừa dối đấy”, bề tôi trung có chết cũng không chịu nhục, người đàn ông tài năng lại thờ hai chủ. Quan Công đau lòng thanh minh với đệ của mình, nhưng chỉ chút thêm dầu vào lửa. Tôn Càn thấy vậy cũng can ngăn Trương Phi, bị Trương Phi mắng mỏ : “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó.” Qua đó càng nổi bật lên con người nóng nảy nhưng rất cương trực, trung nghĩa và vô cùng cẩn thận cảnh giác. Quan Công bình tĩnh thuyết phục Trương Phi, nhưng Trương Phi phát hiện ra quân lính phía xa đã hăm hở xông lại đâm Quan Công. Lúc này Phi đang rất tức giận, không gì có thể ngăn cản được, Quan Công cảm nhận được sự tức giận của hiền đệ nên đã nói là chém đầu tên tướng giặc cho Trương Phi. Phi ra điều kiện là đánh xong ba hồi trống phải chặt được đầu giặc không thì mạng khó giữ, Trương Phi thẳng tay đánh trống. Trong con người Trương Phi toát ra sự thẳng thắn, quyết liệt, mạnh mẽ, dứt khoát, muốn biết rõ trắng đen như thế nào. Chưa hết một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi dưới đất. Trương Phi lúc này chưa tin, bắt tên lính hỏi cho thật kỹ rồi mới tin vô cùng thận trọng và khôn ngoan. Vào thành nghe hai chị kể lại chuyện Quan Công, Trương Phi khóc, quỳ lạy anh mình mong anh mình bỏ qua mọi chuyện. Con người Trương Phi tuy nóng nảy, thô lỗ nhưng cương trực, trung nghĩa, thẳng thắn, đó là một phẩm chất tốt đẹp. Quan Công tuy là vai phụ nhưng đã hiện ra người hùng dũng, giàu nghĩa khí, tấm lòng son sắt. Nỗi oan của Quan Công là nỗi oan đặc biệt, ông làm vì chủ tướng nhưng công việc ấy trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và sự dũng cảm của chính mình.
Phân tích tác phẩm Hồi trống Cổ thành – Mẫu 4
Tam quốc diễn nghĩa là một trong những câu chuyện kinh điển về tình nghĩa anh em, quân thần thời phong kiến Trung Hoa và Hồi trống Cổ Thành là một trong những trường đoạn khiến người đọc phải lặng suy ngẫm về tình nghĩa giữa Quan Vũ và Trương Phi.
Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi là ba anh em kết nghĩa nhưng tình sâu hơn bể. Sự khác nhau về tính cách không khiến ba con người này trở nên mâu thuẫn bởi cả ba cùng chung một lí tưởng, một tâm nguyện. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, ba anh em phải tạm li tán. Và chính sự ly tán đó dẫn đến sự nghi ngờ trong lòng Trương Phi ở đoạn trích Hồi trống Cổ Thành này.
Rời Tào doanh, đến Cổ Thành, biết tin Trương Phi đang trấn giữ ở đây, Quan Công mừng rỡ vô cùng. Trong khi đó Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt ra cửa bắc. Nhưng tưởng Trương Phi sẽ thi lễ, đón hai anh chị vào thành, vậy mà lại múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công. Thái độ của Trương Phi hoàn toàn đối lập với thái độ của Quan Công và gần như trái ngược với đạo lí làm em. Lẽ nào Trương Phi đã quên nghĩa vườn đào, quên là em mà hành xử với Quan Công như vậy. Nhưng Trương Phi có lý do để hành động như vậy. Nhân vật của La Quán Trung đứng trên hai lập trường (tình nghĩa anh em và nghĩa vua – tôi) để định tội Quan Công. Nhà văn tiếp tục dẫn mâu thuẫn đi xa hơn bằng cách để Trương Phi để xưng mày – tao với Quan Công, luận giải tội trạng của Quan Công “bỏ anh, hàng Tào (…) lừa tao” và kết tội Quan Công bội nghĩa. Quan Công thanh minh, hai phu nhân cũng nói đỡ hộ nhưng Trương Phi vẫn không tin lời anh. Hồi trống Cổ Thành.
Mâu thuẫn truyện được đẩy lên một bậc khi quân của Sái Dương mang cờ Tào đuổi kịp Quan Công. Trương Phi càng có cớ để nghi ngờ lòng dạ Quan Công. Đám quân mã do Sái Dương dẫn đầu khiến Trương Phi nghĩ rằng Vân Trường đưa đến để bắt về qui hàng cho Tào Tháo. Tình thế éo le buộc Vân Trường phải hành động để chứng thực lòng với em: “Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta!”. Đến đây, La Quán Trung quyết định thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm bằng tình tiết Hồi trống Cổ Thành.
Trước đề nghị của Quan Vân Trường, Trương Phi đã ra điều kiện – một điều kiện khắc nghiệt: “Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy”. Ba hồi trống định mức thời gian để minh chứng cho một tấm lòng, ba hồi trống để giải oan, ba hồi trống để nhận diện nhân cách một con người cũng là ba hồi trống đầy thách thức. Nó quả là quá ngắn ngủi đối với một mạng người. Nó sẽ là một minh chứng nếu quả thật Quan Công do dự, dao động và không có tài nghệ, khí phách. Nhưng nó cũng là cơ hội để Quan Công minh oan, để hai anh em có thể đoàn tụ lẫn nhau, để lời thề vườn đào năm xưa được giữ trọn. Nếu không có ba hồi trống, mối nghi ngờ trong lòng Trương Phi chỉ có thể giải tỏa bằng bát xà mâu. Và lúc đó, khó có thể hình dung giữa Trương Phi và Quan Công hai anh em ngang tài ngang sức, ai sẽ là người chiến thắng, ai là người phải hy sinh. Tình huống đó bắt buộc Quan Vân Trường phải hành động gấp rút. Chưa dứt một hồi trống, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Mâu thuẫn được hóa giải, nút thắt đầy kịch tính được tháo bỏ. Chi tiết Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường thể hiện tình cảm chân thành của người em cương trực, thẳng thắn, nghĩa dũng đối với người anh em của mình.
Đến cuối đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, hồi trống mới xuất hiện nhưng nó đã thực thi nhiệm vụ quan trọng: hóa giải mối nghi ngờ giữa hai anh em Quan Vũ – Trương Phi. Trở lại với diễn biến câu chuyện phía trước, có thể thấy đó là hồi trống ra quân và cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức, minh oan và đoàn tụ. Cuộc hội ngộ của hai anh em không có rượu, chỉ có hồi trống trận. Nó cũng chính là một thành công trong nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của nhà văn La Quán Trung.
……………..
Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!