Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài (Dàn ý + 3 Mẫu), Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài là
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu đến thầy cô và các bạn một số bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài.
Để có thể giúp cho các bạn học sinh có thể bổ sung cho mình thêm nhiều kiến thức Ngữ văn lớp 12. Sau đây chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo dàn ý và một số bài văn mẫu Phân tích tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài.
Xem Tắt
Dàn ý tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài
I. Mở bài
– Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
– Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp văn học.
– Hai tác phẩm khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết “dòng nước mắt” là một phương tiện biểu hiện.
II. Thân bài
1. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong Vợ nhặt
– Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết.
– Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của bà cụ Tứ – mẹ Tràng: tình huống truyện anh Tràng nhặt vợ, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ.
– Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:
+ Là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng…
+ Giọt nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc…
+ “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi.
+ Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng.
– Đánh giá:
+ Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
+ Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945.
+ Nhân đạo: cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ.
+ Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
2. Cảm nhận chi tiết “dòng nước mắt” trong Chiếc thuyền ngoài xa
– Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết.
– Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài: câu chuyện gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng người đàn bà hàng chài.
– Cảm nhận, phân tích chi tiết “dòng nước mắt”:
+ Là biểu hiện của nỗi đau đớn: gia cảnh nghèo khó bế tắc -> tình trạng bạo lực trong gia đình không có lối thoát → câu chuyện thằng con phạm vào tội ác trái luân thường đạo lý không thể giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lệch lạc của con đã không tìm được giải pháp…
+ Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh không hề có bất kỳ phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng.
– Đánh giá:
+ Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
+ Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kỳ Đổi mới 1986.
+ Nhân đạo: cảm thông thương xót; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ.
+ Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc.
3. So sánh
– Điểm tương đồng
+ Về nội dung:
Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ.
Đều là “giọt châu của loài người”, giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh.
Đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.
+ Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc
– Điểm khác biệt
+ Về nội dung: Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau – nước mắt cũng mang những nỗi niềm riêng
Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhóm.
Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Phía trước chị là một màu xám, bế tắc.
+ Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.
4. Lý giải sự giống và khác nhau
– Vì sao giống? Giống về nội dung vì cùng hướng đến:
+ Từ nỗi đau -> đề xuất giải pháp cách mạng.
+ Từ vẻ đẹp tâm hồn -> ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống -> cùng là những nhà văn hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
– Vì sao khác?
+ Hoàn cảnh khác và tương lai khác do được viết trong những bối cảnh khác nhau (Kim Lân từ sau khi Cách Mạng thành công nhìn lại viết nên mang cảm quan lạc quan; Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại nên không dám chắc chắn tin tưởng ở tương lai) – phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả khác biệt không trộn lẫn.
III. Kết bài
– Khẳng định vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của dòng nước mắt người mẹ.
– Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả trên văn đàn.
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 1
Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa là hai truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Điểm gặp gỡ giữa hai tác phẩm là xây dựng thành công hình tượng người mẹ đẹp đẽ, đáng trân trọng với tình thương con vô bờ bến. Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài cũng chính là cội nguồn tạo nên sức sống mãnh liệt trong tâm hồn của hai người mẹ này.
Cả bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài đều là những người mẹ thương con, tình thương cao cả này đã mang đến sức sống tâm hồn mãnh liệt giúp họ vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh để yêu thương,che chở cho những người con.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà giàu trải nghiệm, một người mẹ giàu yêu thương, có tấm lòng bao dung, vị tha cao cả. Trước tình huống anh Tràng dẫn về một người đàn bà xa lạ và giới thiệu là vợ của mình, bà cụ Tứ vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà thương con vì lấy vợ trong lúc đói khát dữ dội lại tủi cho mình vì làm mẹ mà chẳng thể làm tròn bổn phận với con.
Bao cảm xúc phức tạp được bà cụ Tứ cố giấu trong lòng mà dang rộng vòng tay để đón nhận người con dâu mới “ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng”. Trước hạnh phúc bất ngờ của con, bà cụ Tứ đã giấu nỗi buồn cho mình và thật tâm mong muốn các con sẽ hạnh phúc. Không chỉ đón nhận người con dâu mới bằng cả tấm lòng bao dung của người mẹ mà bà cụ Tứ còn động viên, thắp lên trong các con niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng với triết lý “Không ai nghèo ba họ, không ai khó ba đời”.
Hạnh phúc của các con cũng làm cho bà cụ Tứ trở nên hạnh phúc, tươi tỉnh hơn “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong buổi sáng hôm sau bà đã cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa cơm ngày đói, ngay khi không khí bữa cơm trầm lại vì miếng cháo đắng nghẹn nơi cổ thì bà cụ Tứ vẫn vui vẻ động viên con. Bà cụ Tứ là người đàn bà khốn khổ đã trải qua bao cay đắng của cuộc đời nhưng lại là người nói nhiều nhất về hạnh phúc và tương lai tươi sáng. Chính tình thương con đã mang đến sức sống, sự lạc quan đầy mạnh mẽ cho người mẹ ấy.
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, bên cạnh câu chuyện bất hạnh của gia đình người đàn bà hàng chài, độc giả còn xúc động bởi tình mẫu tử thiêng liêng mà người đàn bà ấy dành cho con cái của mình. Người đàn bà đã chấp nhận chung sống với người chồng vũ phu, tàn nhẫn, chấp nhận những trận đòn roi vô lý trên thân xác để các con được ăn no, có một gia đình hạnh phúc. Chị ta đã thu xếp cho thằng Phác lên ở với ông ngoại nhằm tránh những xung đột giữa hai cha con. Người đàn bà ấy cũng cầu xin chồng mang mình lên bờ để đánh để những đứa con không phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ và cũng là cách bảo vệ cho tâm hồn non nớt, dễ bị tổn thương của chúng.
Khi thằng Phác lao vào đánh bố như một mũi tên, người đàn bà hàng chài đã vô cùng đau khổ bởi điều chị ta sợ hãi nhất đã xảy ra, dù cố gắng, nỗ lực như thế nào vẫn không thể bảo vệ được cho tâm hồn mỏng manh của Phác. Người đàn bà hàng chài đã ôm chầm, vái lấy vái để đứa con để mong con không làm những việc trái với đạo lí, đó cũng là hành động cầu xin con tha lỗi cho mình vì đã không bảo vệ được con và khiến nó chứng kiến những cảnh tượng đau lòng.
Nhìn vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến vô lý của người đàn bà, Phùng, Đẩu cũng như hàng nghìn độc giả cảm thấy bất bình nhưng thực chất, mọi sự hi sinh của người đàn bà ấy đều xuất phát từ tình thương con, từ sự hiểu biết. Trong cuộc đời tăm tối, khổ đau của mình, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Chính tình thương con đã mang đến sức mạnh và ý nghĩa cuộc sống cho người đàn bà ấy.
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 2
Từ thuở văn chương mang đến những giọt nước mắt rớt rơi vào tâm hồn mỗi con người thì cũng là lúc trái tim ta biết rung động. Nếu như đọc Vợ nhặt của Kim Lân, ta không quên được hình ảnh bà cụ Tứ lặng lẽ khóc thầm trong bóng đêm – thì dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, người đàn bà khốn khổ trong Chiếc thuyền ngoài xa lại làm lòng ta quặn thắt khi vội lau dòng nước mắt để cất bước theo chồng tất tả cuộc mưu sinh. Mỗi nhà văn, với thiên chức của mình đã điểm thêm cho văn học Việt Nam những dòng nước mắt lấp lánh, chứa chan biết bao yêu thương và trân trọng.
Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình, Kim Lân đã rất thành công khi ba lần miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ – cũng như bao người mẹ nghèo ở chốn thôn quê ngày ấy-luôn mơ đến ngày được “dựng vợ gả chồng cho con”. Nhưng éo le thay, ước mong giản dị đó lại đến với bà trong một buổi chiều “tối sầm lại vì đói khát”. Khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, Tràng dẫn về nhà một người vợ, khi gia đình Tràng đang đói quay đói quắt và mỗi sáng, người ta đã quá quen với những cái thây “nằm còng queo bên đường”… Liệu bà cụ Tứ có chấp thuận mối nhân duyên này không? Sau giây lát ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà lão “cúi đầu nín lặng”, Tràng, người “vợ nhặt” và cả độc giả nữa dường như cũng nín lặng đi vì hồi hộp. Chợt, “trong kẻ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Dòng nước mắt rỉ ra hiếm hoi trên gương mặt già nua của một người dường như đã cạn khô nước mắt. Bà không chỉ hiểu, mà còn thấy được những tháng ngày khổ cực, lam lũ sắp tới khi gia đình có thêm một miệng ăn. Tâm trạng bà đan xen vui mừng, buồn tủi với thương lo. Vui mừng vì con mình giờ đây đã có vợ. Nhưng nghĩ đến cảnh nhà quá nghèo, bổn phận mình là mẹ mà không lo được gì cho các con khiến niềm vui của bà không sao cất cánh lên được. Và cuối cùng, như bao người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu, bà cụ đồng ý tác hợp cho đôi vợ chồng trẻ: “thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” Lòng ta bỗng nhẹ lại, vui lây niềm vui của Tràng. Giữa những năm “đói mòn đói mỏi” ấy, tình người chợt vụt sáng trên nền trời ảm đạm. Bao nhiêu khó khăn, vất vả dần tan biến, đọng lại bấy giờ chỉ còn là tình thương.
Nhưng vẫn còn đó hiện thực cuộc sống khắc nghiệt, chỉ chực dồn ép con người ta đến chân tường. Nước mắt bà lão lại cứ “chảy xuống ròng ròng”. Bà cũng không buồn lau. Nghĩ về cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình và tương lai của các con, bà vẫn lo lắng không nguôi: “Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Nhưng buổi sáng sau đêm “tân hôn” của các con, bà lão “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà nhanh nhẹn, xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Ta thấy trong bà dường như có một sự thay đổi theo hướng tích cực: bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bức tranh ngày đói dường như được tô sáng lên trong ánh nắng mùa hè và trong niềm vui của mỗi người. Nhưng nồi cháo cám đắng chát đã kéo con người quay về thực tại. Vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, đàn quạ vẫn bay từng đám trên nền trời như những đám mây che lấp ánh sáng của niềm tin và của hy vọng. Bà cụ Tứ lại rơi nước mắt, nhưng không dám để mọi người nhìn thấy bà khóc. Đúng là trên gương mặt của người mẹ nghèo khổ thì giọt nước mắt lăn giữa nụ cười. Và do đó, với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã hòa dòng nước mắt của bà cụ Tứ cùng với những khốn khổ của đồng bào ta trong nạn đói năm Ất Dậu thành dòng chảy đau thương của lịch sử.
Tạm biệt nhà văn của chốn thôn quê, đồng ruộng, ta đến với “người mở đường tinh anh và tài năng” Nguyễn Minh Châu,để lần nữa thấy được nét đẹp tâm hồn ẩn lấp sau giọt nước mắt của những người phụ nữ Việt Nam.
Đọc Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật người đàn bà hàng chài gây ấn tượng bởi một thân hình rắn chắc, thô kệch; bởi một sức chịu đựng, nhẫn nhục phi thường. Hằng ngày, những trận đòn roi tới tấp từ người chồng vũ phu vẫn không làm chị hé môi lấy nửa lời. Ta tưởng chừng con người ấy cũng trơ lì như sỏi đá và chắc sẽ chẳng có điều gì có thể chạm đến trái tim của chị. Nhưng không, chị là người phụ nữ giàu lòng bao dung và thương con rất mực. Chị hiểu người chồng thay đổi tâm tính vì anh là nạn nhân của hoàn cảnh, chị thương con bằng một tình thương lớn lao, cao cả. Chị cũng là một người phụ nữ, chị cũng yếu đuối nhưng phải kìm nén nỗi lòng để sống vì các con. Và khi giọt nước mắt của người đàn bà mạnh mẽ ấy rơi xuống thì những lớp vỏ chai sần của cuộc đời cũng không sao ngăn được con người nội tâm trong chị tỉnh giấc. Là khi chị nhận ra bao nhiêu cố gắng, nỗ lực của chị vẫn không thể cứu vớt một gia đình tan vỡ; Là lúc những luân lý đạo đức bị con mình dẫm đạp; Là khi bất lực nhìn đứa con mình yêu thương nhất đi vào con đường sai trái chỉ bởi nó muốn giải thoát cho mẹ. Nhưng rồi con người bản năng không cho phép chị mềm yếu, chị vội vàng chạy theo chồng mình như vội đuổi theo cuộc sống mưu sinh của hiện thực lạnh lùng, tàn khốc. Lần thứ hai ở tòa án huyện, chị lại khóc khi Phùng nhắc về cậu bé Phác mặc dù chị luôn cố không để lộ ra ngoài. Với chị những đứa con là niềm hạnh phúc, là lý do chị cố gắng nhịn nhục, cam chịu và tồn tại trên cõi đời này. Nhưng cũng chính chúng đã mang lại niềm đau đớn tột cùng, chạm sâu vào tâm hồn yếu ớt của chị để những giọt lệ chị rỏ ra đầy chua xót. Đó chính là bi kịch không lối thoát trong cuộc đời của những người phụ nữ miền biển như chị.
Tình mẫu tử của bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài – Mẫu 3
Người phụ nữ Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn nổi tiếng với nhiều phẩm đạo đức chất vô cùng tốt đẹp, đặc biệt là càng trong những hoàn cảnh khó khăn đọa đày, ta lại càng nhìn rõ những phẩm chất ấy. Trong các tác phẩm văn học xưa và nay cũng không dưới một lần người ta ngấm ngầm hoặc công khai bày tỏ, đề cao phẩm chất của người phụ nữ Việt để thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Đặc biệt là trong các tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội, những năm hoàn cảnh đất nước còn nhiều khắc nghiệt, thì hình ảnh những người đàn bà tảo tần mưa nắng, nhẫn nhục, chịu đựng lại càng hiện lên rõ nét. Tiêu biểu có thể kể đến Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, hay hình ảnh người bà trong Đò lèn của Nguyễn Duy,… cùng vô số những tác phẩm khác nữa. Và trong số những tác phẩm ấy người ta vẫn ấn tượng với hình ảnh người phụ nữ với tình mẫu tử sâu sắc trong hai tác phẩm Vợ nhặt và Chiếc thuyền ngoài xa. Có một nhận xét rất chính xác rằng: “Cùng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời nhưng nếu ở bà cụ Tứ (Vợ nhặt – Kim Lân) là sự vị tha, bao dung, lạc quan thì ở người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) là sự chịu đựng, hy sinh, nhẫn nhục”.
Trước hết nói về bà cụ Tứ, là người phụ nữ sinh ra và lớn lên trong buổi đất nước có nhiều biến chuyển, thực dân Pháp xâm lược, chế độ phong kiến tàn lụi thối nát, đặc biệt nhất là đến thuở gần đất xa trời cứ ngỡ là sẽ được an hưởng tuổi già thì phát xít Nhật lại đem đến cái nạn đói khủng khiếp, hành hạ con người ta đến độ khốn khổ. Bà lão là người nghèo khó, chồng cụ có lẽ đã chết từ lâu, vì nạn đói, bệnh tật hay phu dịch gì đó, một mình bà vất vả nuôi lớn Tràng. Tài sản cũng chẳng có gì ngoài căn chòi rách nát, hai mẹ con nương tựa vào nhau qua ngày đoạn tháng. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu, bà chỉ bắt đầu có vai sau khi Tràng dẫn Thị về nhà làm vợ. Ấn tượng của độc giả về cụ Tứ chính là cái tiếng ho “húng hắng”, cái dáng người “lọng khọng” tưởng chừng đã già yếu lắm rồi, tuy nhiên vẫn còn rất minh mẫn khi “vừa đi vừa lẩm bẩm tính gì trong miệng”. Chỉ đôi chi tiết ấy thôi người ta cũng đủ biết cụ Tứ là người đàn bà cả đời vất vả nên mới có cái dáng bộ như thế. Cụ Tứ đã sống gần hết đời người, trải qua nhiều gian khó, nên bà yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc. Khi thấy người đàn bà lạ lẫm ngồi trong căn nhà nhỏ bé của mình bà cụ ngạc nhiên lắm, biết bao nhiêu câu hỏi cứ thế tuôn ra trong lòng, nhưng cụ không tỏ ra bối rối mà cụ chỉ quay ra “nhìn con tỏ ý không hiểu”. Cụ thương và hiểu Tràng nên cụ để con tự nói mà không cần phải dò hỏi xét nét, đó là biểu hiện đầu tiên của sự hiền dịu yêu thương dành cho con mình của bà cụ. Rồi đến khi cụ biết Thị là người vợ mà con mình nhặt về, thì lòng bà lặng lại, bà lão lập tức “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, con trai mình cũng đến tuổi dựng vợ gả chồng, âu cũng là chuyện tất yếu cả. Thế nhưng tấm lòng yêu con của người mẹ cũng từ lúc đó lại diễn ra bao mối lo khác, bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình” cũng là xót xa cho kiếp làm mẹ, nuôi con đến từng này tuổi đầu nhưng không có nổi cho con một nhúm trầu cau để hỏi vợ, khiến nó phải tự đưa một người phụ nữ về nhà nhận làm vợ. Bà lão vì thương con mà xúc động “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”, con trai có vợ bà vui một nhưng buồn mười, trước cái cảnh đói kém, mạng người như rơm rác, cứ lâu lâu lại có một ai đó ngã xuống vì đói thì cái bà lo nhiều nhất là “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Như vậy có thể thấy rằng, bà cụ Tứ không hề phản đối cuộc hôn nhân chớp nhoáng của Tràng, thậm chí bà đã ngầm chấp nhận Thị làm con dâu, cái khiến bà trăn trở chỉ là gia cảnh khốn khó, bà sợ con khổ, rồi làm khổ cả người khác nữa. Một người mẹ thương con và thấu hiểu lẽ đời là vậy. Và sự thấu suốt ấy còn thể hiện rõ ràng thông qua phân cảnh bà nhìn Thị mà nghĩ ngợi “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Thật tình chẳng mấy người mẹ có thể nghĩ được như bà cụ Tứ, cứ nhìn cái cảnh rách rưới, lại theo không về làm vợ người ta của Thị không khéo chắc chẳng ai muốn nhận. Nhưng cụ Tứ lại khác, bà thậm chí biết ơn Thị, thấu hiểu cho hoàn cảnh của Thị, cũng ý thức rõ được hoàn cảnh của con mình, thế nên bà chọn cách tác hợp, với hy vọng về một mối lương duyên tốt đẹp cho con trai. Bởi lẽ, ngăn cấm chẳng có ý nghĩa gì, thậm chí khiến cả con trai lẫn Thị khổ sở. Bà hiền từ, đối đãi với người con dâu mới một cách khéo léo, không muốn để Thị phải buồn lòng, trong lời với hai vợ chồng là lời khuyên lời dạy bảo với một niềm tin, niềm hy vọng vững chắc vào tương lai “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?” khiến lòng đôi tân nhân cũng thêm phần phấn khởi. Mặc dù lòng bà cụ lúc nào cũng vẫn còn nhiều tối tăm, bà nhìn ra “cánh đồng tối”, “bóng tối bao trùm lấy đôi mắt”, “bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dài đằng đẵng của mình”. Trong nỗi lòng thương con vô bờ bến bà chỉ hy vọng rằng vợ chồng Tràng được khấm khá hơn cuộc đời khốn khổ của mình. Nghĩ đến đời mình bà lão lại càng thấu cảm cho cuộc đời Thị, bà nhìn Thị “lòng đầy thương xót”, cố thân mật với con dâu để Thị đỡ cảm thấy lạnh lẽo, buồn tủi, trước cảnh cưới xin lạ lùng như này.
Sau đêm tân hôn, cả căn nhà vốn tơi tả, u ám bỗng trở nên có không khí hẳn, thấy sự chu đáo tươm tất của Thị bà lão như trút được gánh nặng trong lòng “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Dẫu bữa cơm có thảm hại chỉ toàn rau chuối, cháo và muối nhưng cả nhà vẫn ăn rất ngon lành, bà cụ kể toàn những chuyện vui, thắp nên niềm tin vào tương lai cho vợ chồng Tràng, nào là nuôi gà, nào là chuyện làm ăn, không khí đầm ấm hẳn lên. Nồi cháo cám của bà cụ Tứ có lẽ chính là chi tiết đắt giá nhất của câu chuyện này, đó là món “chè khoán” mừng cặp vợ chồng mới cưới, thể hiện tấm lòng của bà cụ Tứ. Dẫu cuộc sống có khó khăn, kiệt quệ nhưng bà vẫn cố bòn cho được nồi cháo cám để làm giàu bữa ăn gia đình. Có lẽ rằng bà cụ Tứ thương vợ chồng Tràng không muốn họ phải chịu thiệt khi tân hôn mà vẫn phải ăn rau chuối, cháo kèm muối, nên mới có nồi cháo cám tuy đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng nhưng đó chính là tình thương sâu sắc của người mẹ dành cho con. Qua những chi tiết kể trên nhận định về tình thương con của bà cụ Tứ với những nét “vị tha, bao dung, lạc quan” là hoàn toàn chính xác.
Về người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, ta lại thấy một số kiếp khác, một cuộc đời khốn khổ khác. Cách mạng đã thành công, đất nước đã độc lập, không còn nạn đói khủng khiếp những năm 44, 45, thế nhưng số kiếp người phụ nữ vẫn chưa thể khấm khá hơn được. Phải nói rằng người đàn bà trong truyện có một số phận bất hạnh vô cùng, xấu xí, cuộc sống lam lũ vất vả hơn cả nửa đời người để hy sinh cho gia đình, thế nhưng vẫn bị chồng bạo hành không thương tiếc. Cũng như bà cụ Tứ, người đàn bà làng chài cũng yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời sâu sắc nhưng sự yêu thương này ngoài lòng bao dung thì điểm nhấn lại chính là tính hy sinh, nhẫn nhục chịu đựng của người phụ nữ. Cảnh người đàn bà làng chài bị chồng dùng thắt lưng da quất tới tấp, vừa đánh vừa mắng như kẻ thù,thế nhưng nghịch lý “người đàn bà với một vẻ nhẫn nhịn, cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Điều ấy khiến người đọc có phần sửng sốt và khó hiểu, là chị đau đớn, nhục nhã đến chết lặng, hay chị cố chịu đựng vì điều gì khác? Thậm chí lúc được Phùng giúp ly hôn chị cũng một mực không chịu, chị van xin “quý tòa bắt tội con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Thực kỳ lạ khi trên đời lại có người phụ nữ muốn chung sống với kẻ hành hạ mình không tiếc tay như thế, nhưng rồi qua cuộc nói chuyện với Phùng và Đẩu, ta mới chợt vỡ lẽ ra nhiều điều. Có phải rằng chị không thể chống lại những trận đòn roi hay chị không thể ly hôn đâu, nhưng cuộc đời đâu có đơn giản đến thế, đâu có dễ dàng như cái cách mà Phùng vẫn thường tưởng tượng. Những lời bộc bạch sắc bén của chị đã khiến cả Phùng và Đẩu phải nín lặng, phải đổi cách nghĩ về cuộc đời, chị nói một câu “Là bởi vì các chú không phải đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông”. Hóa ra chị nhẫn nhục, chịu đựng mọi sự bạo hành của chồng mà vẫn không chịu ly hôn là vì gần chục đứa con của mình. Phải nói rằng chẳng có gì có thể thiêng liêng và rộng lớn hơn tình mẹ cả, chị đã nguyện hy sinh cuộc đời, hy sinh sức khỏe, lòng tự trọng để mong cho những đứa con bé bỏng được khôn lớn trong một gia đình đầy đủ. “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”, chị cũng tự ý thức cho mình trách nhiệm cao cả của người phụ nữ với hơi hướng rất truyền thống “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khôn lớn nên phải gánh lấy cái khổ”. Có thể nói rằng mỗi câu chữ của người đàn bà làng chài tuy mộc mạc giản đơn vậy, nhưng lại đều có lý lẽ riêng cả, trong đó chứa đựng sự thấu hiểu và từng trải sâu sắc của một người đàn bà đã quá nửa đời người. Là những cái lý mà Đẩu và Phùng không thể nào phản bác, bởi vì nó thật sự đúng, ông bà ta đã nói “Mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh” là vậy, đời nay đâu ai có thể giống ai mà phán xét hay thay nhau quyết định. Nhưng cái thấu hiểu của người đàn bà làng chài không chỉ dừng lại ở sự hy sinh, nhẫn nhục và chịu đựng mà còn là tấm lòng bao dung, vị tha vô cùng. Chị lý giải việc lão chồng mình trở nên nóng nảy và cục cằn là bởi chị đẻ nhiều quá, bấy nhiêu miệng ăn khiến cuộc sống khó khăn đè nặng lên vai của người chồng, khiến ông ta trở nên đổi tính. Chị vẫn luôn nghĩ về người chồng đã cứu vớt chị khỏi những tháng ngày tăm tối nhất của cuộc đời, nghĩ về người con trai hiền lành như cục đất độ hơn chục năm về trước. Những ký ức đẹp đẽ và cả lòng biết ơn đã tiếp thêm sức mạnh khiến chị cố gắng trụ vững, nhẫn nhịn để nhà cửa được êm ấm, con cái được ăn no, mặc ấm thì bao nhiêu khổ cực chị cũng chịu được.
………………..
Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết của bài viết tại file dưới đây!