Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu hay nhất
Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
Dưới đây Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn lớp 12 bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Đây là tài liệu rất hữu ích gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu hay nhất của học sinh trên toàn quốc. Qua tài liệu này các bạn có nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ để đạt được kết quả cao trong bài thi THPT Quốc gia 2020 sắp tới. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm một số dạng văn mẫu khác tại chuyên mục Văn 12.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích truyện ngắn Rừng xà nu
I. Mở bài
– Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965, đúng lúc quân Mĩ ào ạt đổ bộ vào Chu Lai, Quảng Ngãi.
– Dẫn đề và chuyển mạch.
II. Thân bài
A. Phân tích
1. Cốt truyện và lời kể mang tính sử thi anh hùng
– Câu chuyện kể về anh Tnú tham gia cách mạng. Giặc bắt vợ anh và đứa con nhỏ đem đánh đập dã man cho đến chết. Tnú xông ra, bị giặc bắt, đốt mười đầu ngón tay anh. Dân làng Xô Man đã vùng lên giết giặc cứu Tnú. Rồi anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Ba năm sau, Tnú về thăm quê hương.
– Câu chuyện được tác giả kể trên bối cảnh cuộc đồng khởi của nhân dân Tây Nguyên. Chuyện cuộc đời Tnú được kể lại qua một nhân vật trong truyện là cụ Mết. Cách kể, giọng kể đã góp phần xây dựng tác phẩm như một bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên chống Mĩ.
2. Nhóm nhân vật
(1) Nhân vật trung tâm Tnú
– Gắn bó với cách mạng.
– Tha thiết thương yêu bản làng, vợ con.
– Càng đau thương, càng căm thù giặc
– Yêu thương, căm thù biến thành hành động: gia nhập lực lượng quân giải phóng để tiêu diệt kẻ thù, giải phóng quê hương.
(2) Cụ Mết, già làng:
– Tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man.
– Thủy chung với cách mạng.
– Là linh hồn của làng Xô Man trong cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man.
(3) Dít
– Kiên cường, dũng cảm.
– Căm thù giặc trên cơ sở nhận thức bản chất tàn bạo của kẻ thù, tiếp tục lãnh đạo dân làng xô Man chiến đấu giải phóng bản làng.
(4) Bé Heng
– Đóng góp công sức xây dựng làng chiến đấu.
– Ngày càng trưởng thành về ý thức trách nhiệm, ý chí chiến đấu cao.
Tất cả các nhân vật trên đều toát lên vẻ đẹp hào hùng trên bối cảnh hùng vĩ của rừng xà nu, của làng xô Man.
B. Đánh giá
1. Nội dung tư tưởng
Rừng xà nu ca ngợi tinh thần bất khuất, vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc Tây Nguyên. Tác phẩm xứng đáng được coi là một bức tranh sinh động, chân thực về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ.
2. Nghệ thuật xây dựng truyện
Rừng xà nu là một truyện ngắn nhưng có sức chứa lớn như một bản trường ca về chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên. Các yếu tố truyện càng lúc càng mở rộng, tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
(1) Một câu chuyện của cụ già Mết với dân làng về cuộc đời Tnú. Câu chuyện đời Tnú cũng là chuyện của bà con làng Xô Man. Chuyện làng Xô Man cũng là chuyện của Tây Nguyên.
(2) Một nhân vật trung tâm – Tnú – mở ra một loạt quan hệ với cụ già Mết, Mai, Dít, bé Heng… và đằng sau là cả dân làng Xô Man, làng Xô Man với bạt ngàn những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
(3) Một thời gian ngắn ngủi, một đêm về phép sống và bản làng của Tnú và một quãng đường dài của nhân dân, của cách mạng từ quá khứ đến tương lai, từ những đau thương đến một cuộc đồng khởi vĩ đại: suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng…
III. Kết bài
– Rừng xà nu là một bức tranh sinh động về cuộc chiến tranh nhân dân chống Mĩ cứu nước.
– Tác phẩm đã ca ngợi tinh thần bất khuất, vùng lên chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc Tây Nguyên.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu – Mẫu 1
Trong nền văn học nước nhà, thể loại văn xuôi được biết đến là một trong những thế loại đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong các tác phẩm không thể không nhắc đến bài “rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, một bài sử thi đậm chất Tây Nguyên. Trong đó tác giả khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, làm cho ta cảm thấy hào hùng, sự chiến đấu của con người Tây Nguyên.
Tác giả Nguyễn Trung Thành là nhà văn của Tây Nguyên, ông còn hoạt động chiến trường miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn “Rừng xà nu” là tác phẩm tiêu biểu của tác phẩm, hình tượng “cây xà nu” là hình ảnh trung tâm trong bài văn. Xà nu được biết đến là loài cây phổ biến ở núi rừng Tây Nguyên, dẻo dai, kiên cường bất khuất như người dân Tây Nguyên, sống trong một môi trường khắc nghiệt nhưng nó vẫn bền bỉ.
Hình ảnh cây xà nu được ví như những con người Tây Nguyên không chịu đầu hàng với số phận, với thời tiết, không chịu đầu hàng, luôn hướng về phía trước để bảo vệ độc lập, tự do của bản mình, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, những cây xà nu vươn mình bảo vệ dân làng khỏi bão táp, khỏi sự săn đuổi, giúp cán bộ cách mạng thực hiện được chiến lược của mình.
Cây xà nu gắn liền với đời sống hàng ngày với người dân Tây Nguyên, sự trưởng thành từng của các thế hệ dân làng Xô Man, đó là từ Tnú, chị Mai, cụ Mết, bé Heng, đó là những người thế hệ từ đời này sang đời khác, mỗi thế hệ đều cố gắng lớn lên, thay nhau bảo vệ ngôi nhà Tây Nguyên của mình, mà cây xà nu vẫn gắn bó, trải qua bao bom đạn với dân làng nơi đây.
Có thể nói “cây xà nu”chính là linh hồn của Tây Nguyên, nó đã lớn lên, ăn sâu trong mỗi tiềm thức con người Tây Nguyên, khi nhắc đến loài cây này, dường như ta cảm thấy sự hào hùng, cây mọc thẳng, vươn vai, cao lớn, hướng tới ánh sáng cũng như người dân Xô Man hướng tới hạnh phúc, sự độc lập dân tộc.
Trong lịch sử kháng chiến của dân làng Tây Nguyên, cây xà nu chính là người bạn chiến đấu, sát cánh cùng người dân, nó chính là biểu tượng tinh thần và ý chí quật cường, mặc dù bị thiêu rụi thì cây xà nu vẫn kiên cường bảo vệ âm ỷ dòng nhựa để cho cây non mọc lên, cũng như Tnú từ một cậu bé dần dần được cách mạng nuôi dưỡng, bảo vệ và lớn dần khi trưởng thành chiến đấu, dù bị đốt mười ngón tay những vẫn cầm súng chiến đấu.
Tác giả đã miêu tả hình tượng cây xà nu ẩn dụ, miêu tả cây bằng nghệ thuật nhân hóa như những con người Tây Nguyên, nói lên sự hi sinh, và cũng miêu tả lê cảnh bị áp bức bóc lột đến tàn bạo mà bọn thực dân đối với dân làng Xô Man, cây xà nu bị thiêu rụi, cũng chính là sự mất mát, đau thương cứ chồng chất khiến cho lầm than cứ nối tiếp. Hình ảnh Mai và Tnú bị tra tấn nhưng họ vẫn chịu đựng, gắng gượng đến phút cuối cùng.
Mối quan hệ giữa người dân với cây xà nu có một sợi dây gắn kết rất bền chặt, và khăng khít không ai có thể tách rời, cây xà nu chính là người bạn từ thuở ấu thơ, trải qua bao thăng trầm lịch sử với dân làng, chúng chính là hàng rào bảo vệ kiên cố, dù bị thiêu rụi vẫn cố gắng đứng lên như con người Xô Man, tuy không thể nói, không thể biểu hiện cảm xúc nhưng những cây xà nu lại làm ta cảm thấy thêm niềm tin, sức mạnh chiến đấu đến cùng.
Cứ thế hệ này ngã xuống, thế hệ sau lại đứng lên nối tiếp nhau, phát huy hết sức mạnh chiến đấu, cũng như cây xà nu già chết lại trên thân cây đó có cây xà nu con mọc lên vươn vai để bảo vệ người dân Xô Man, từ thế hệ lão làng như cụ Mết, rồi đến Tnú và cuối cùng là bé Heng, ở họ đều có sự khao khát cháy bỏng về một tương lai tươi đẹp ở phía trước đang chờ đợi họ.
Trong tác phẩm rừng xà nu chắc chắn hình ảnh Tnú và cây xà nu được ví như hai hình ảnh song song nhau, có nhiều mối tương đồng, hỗ trợ lẫn nhau, làm nổi bật được ý chí và tinh thần chiến đấu của nhau, một cây xà nu to, chắc, vươn rộng vai mình bao trùm dân làng cũng như Tnú một chàng thanh niên khỏe mạnh cùng cán bộ,cùng các già làng đấu tranh đuổi bọn giặc Mỹ ra khỏi làng, để người dân có một cuộc sống êm đềm, không còn sống trong sợ hãi, hi sinh bản thân vì độc lập, tự do.
Sự khát vọng hòa bình, sự bình yên cho cả nước, những ước mong mà người dân luôn khao khát từng ngày, bằng tình yêu bao la của mình đối với Tây Nguyên, câu văn miêu tác giả dùng những tả qua hình ảnh cây xà nu, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật, sự kiên cường của từng con người Xô Man, và sự quan sát một cách tinh tế, Nguyễn Trung Thành đã khiến cho người đọc cảm nhận được sự mất mát và đau thương mà người dân nơi đây phải chịu thông qua hình ảnh cây xà nu, có một trái tim đồng cảm và chua xót cho con người Tây Nguyên.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu – Mẫu 2
Tây Nguyên hùng vĩ núi non, Tây Nguyên bất khuất kiên cường với những con người bộc trực kiên trung một lòng đi theo cách mạng. Chính vùng đất sản sinh ra vô số những anh hùng dân tộc đi vào sử sách thì nơi đây cũng chính là vùng đất mang đến cảm hứng sáng tác cho tác giả Nguyễn Trung Thành. Trong những năm tháng của mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Tây Nguyên khơi nguồn cảm hứng cho ông viết truyện ngắn Rừng xà nu, một truyện ngắn xuất sắc của văn học thời chống Mĩ.
Rừng xu nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên với sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng mới, trẻ trung nhiệt tình, mưu trí và kiên cường. Nó chỉ là truyện ngắn nhưng dung lượng hiện thực to lớn mà giá trị lịch sử khẳng định.
“Rừng xà nu” viết về những anh hùng ở làng Xô Man của người Strá trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Cảm hứng của nhà văn về nhân vật anh hùng gắn liền với cảm hứng về đất nước hùng vĩ gắn với hình tượng cây xà nu của Tây Nguyên. Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh rừng xà – một loại cây họ thông, gỗ và nhựa đều rất quý, có sức sống mãnh liệt và dẻo dai rất gần gũi với đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho phẩm chất và sức mạnh tinh thần bất khuất của dân làng Xô Man và các dân tộc Tây Nguyên.
Và đặc biệt đó cũng là một rừng xà nu bất chấp đạn bom, vượt lên sự hủy diệt tàn bạo để tiếp nhận ánh nắng mặt trời duy trì sự sống của mình, rừng xà nu tràn trề sức sống cho dù đại bác của bọn giặc “đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng vào xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy” dồn dập nã chết chóc đau thương vào nó. Truyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh rừng xà nu đều mang dụng ý của tác giả Nguyên Ngọc.
Suốt trong quá trình kể chuyện, hình ảnh rừng xà nu được nhắc đi nhắc lại tạo cảm giác như một điệp khúc, gần 20 lần nhà văn nói đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu, khói xà nu, lửa xà nu, dầu xà nu. Mọi thứ dường như đều xoay quanh một loại cây đặc biệt này. Ngược đọc không khó nhận ra ý nghĩa của rừng xà nu là để nói lên sức sống bền vững, quật khởi của dân làng Xô Man, của Tây Nguyên bất khuất.
Chất sử thi của thiên truyện sẽ không trở thành giọng điệu chính của tác phẩm nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, nhất là các hình ảnh “đồi xà nu” (4 lần), “rừng xà nu” (5 lần), với “hàng vạn cây” “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”.
Hình ảnh cây xà nu mở đầu truyện như cách mở đầu của bức tranh đấu tranh quyết liệt của dân làng và nó cũng là một hình ảnh mang tính dự báo. Bằng nghệ thuật nhân hoá, tác giả nói lên được nỗi đau thương mất mát của dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Mỗi cây xà nu ngã xuống, ta thấy thương tâm như một người dân làng Xô Man ngã xuống.
Tác giả Nguyễn Trung thành đã có dụng ý miêu tả rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ rất giàu chất thơ, chắt lọc và tinh tế ở một thứ ngôn ngữ vừa tả vừa gợi, mở ra những liên tưởng phong phú cho người đọc. Hình ảnh rừng xà nu ở đây vừa là hình ảnh thực một rừng cây “ham ánh sáng mặt trời”, vừa là hình ảnh có nghĩa tượng trưng cho con người Tây Nguyên đau thương, bất khuất, kiên cường trong những ngày đồng khởi chống Mĩ. Kết hợp bút pháp đặc tả phối hợp với thủ pháp nhân hóa đã phát huy tối đa hiệu lực cua nó. Rừng xà nu hiện lên như một người bạn trung thành che chở cho dân làng Xô Man, như những con người đẹp của buôn làng. Và có thể nói rừng xà nu chính là biểu tượng về sức sống bất diệt của con người Tây Nguyên, của con người Việt Nam.
Truyện ngắn hiện lên như một bức tranh tái hiện chân thực toàn bộ cuộc chiến đấu đầy gian khó nhưng không thiếu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mĩ, nhà văn tập trung miêu tả sự trưởng thành một thế hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mĩ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú và Dít. Sự trưởng thành của họ gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân Strá làng Xô Man.
Tnú nhân vật chính của Rừng Xà Nu đã mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người con của núi rừng Tây Nguyên ấy lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng , nuôi dạy khôn lớn. Đó là người anh hùng dân tộc lớn lên, trưởng thành và kiên cường bất khuất từ trong lòng của nhân dân, của dân tộc.
Tnú đến với cách mạng ngay từ khi còn rất nhất vào thời điểm của những ngày gian khổ, ác liệt nhất khi mà Mĩ Diệm đang ngày đêm khủng bố cách mạng ở khắp mọi nơi. Chính Tnú đã chứng kiến cảnh đau thương của dân làng. Bọn giặc “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, chỉ vì họ là những người dũng cảm, dám nuôi dấu cán bộ cách mạng.
Khi Tnú vào rừng nuôi cán bộ, tiếp nhận tri thức, lẽ sống qua sự chỉ bảo của anh cán bộ Quyết. Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc phục kích, bắt được, chúng dẫn về làng, tra tấn đủ mọi cách, lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém nhưng Tnú vẫn không khai báo, chỉ điềm tĩnh chỏ và bụng mình để trả lời câu hỏi của kẻ thù: “Cộng sản ở đây này”. Câu trả lời ấy đâu chỉ đơn giản là một câu trả lời mà đó là cả một lời thách thức, sự dũng cảm! Và chính lời thách thức ấy, Tnú phải trả giá bằng ba năm tù.
Thoát ngục Kon Tum trở về, Tnú là một thanh niên, trưởng thành hơn về nhân cách. Anh hiểu rõ nhiệm vụ của mình khi tiếp nhận lời trăng trối của anh Quyết. Anh trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của dân làng Xô Man. Anh thực hiện ngay lời dặn của anh Quyết “chuẩn bị giáo, mác, vụ, rựa, tên, ná… ” chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến đấu sắp tới. Và hạnh phúc đến với anh trong những ngày đó. Mai, cô bạn gái cùng anh đi liên lạc trở thành người bạn đời của anh.
Lại một thử thách nữa đến với Tnú: bọn giặc ở đồn Rác Hà xuống làng Xô Man truy bắt anh, vợ con anh sa vào tay chúng. Không thể cầm lòng trước cảnh giặc tra tấn vợ con. Tnú đành phải ra đối đầu với bọn chúng. Và trong cuộc đối đầu này, phẩm chất kiên cường của anh càng sáng hơn bao giờ hết. Giặc bắt Tnú, chúng đốt mười ngón tay anh, “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, răng cắn chặt môi, không một tiếng kêu vang, Tnú trừng trừng ném căm giậm vào kẻ thù.
Có thể nói Tnú là hình ảnh của Tây Nguyên đau thương, bất khuất. Sự tàn bạo của kẻ thù đã lên tới tột đỉnh và nhân dân cũng không thể cam chịu sống dưới ách tàn bạo đó. Cho nên, khi tiếng thét căm giận Tnú vang lên, tiếng thét như một lời báo hiệu triệu dân làng cầm vũ khí đứng lên, cả làng Xô Man đứng dậy. “Tiếng giết”, tiếng chân người đạp nhà ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh… Sự vùng dậy của dân làng đã cứu thoát Tnú rồi sau đó anh vào giải phóng quân đi giải phóng cho nhân dân, giải phóng đất nước với một nhận định sâu sắc hơn.
Điều này có thế thấy rõ qua lời tâm sự của Tnú với dân làng sau “ba năm đi lực lượng”. Anh kể rằng anh giết thằng Dục, tên chi huy đồn giặc ở Đắc Hà, kẻ đã giết vợ con anh, kẻ dã gieo đau thương cho làng Xô Man và theo anh thằng giặc nào “cũng là thằng Dục cả”. Rõ ràng, với anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú, mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước cũng là mối thù của gia đình, của quê hương anh. Đó là một nhận thức sâu sắc, nhận thức mà Tnú rút ra được từ nỗi đau của bản thân, của buôn làng của đất nước và từ cuộc chiến đấu của quê hương.
Cùng thế hệ của Tnú còn có Dít, cô bí thư chi bộ xã kiêm chính trị viên xã đội làng Xô Man. Ba năm trước, ngày Tnú ra đi. Dít “còn là một cô bé không có áo mặc, đêm lạnh không ngủ…”. Vậy mà, khi Tnú trở về, cô bé ấy đã đảm trách những công việc trọng yếu nhất của làng Xô Man. Sự trưởng thành kì lạ của Dít không phải ngẫu nhiên mà là quá trình rèn luyện vượt qua thử thách lúc còn nhỏ. Dít là một đứa bé lanh lợi, rất gan dạ. Lần ấy, Dít bị giặc bắt “Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm xong rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai bàn chân nhỏ của Dít. Váy nó rách từng mảng. Nó khóc thét lên nhưng rồi đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng lẽ giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó giật lên một cái nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng”.
Không chỉ gan góc Dít còn là một cô bé cương nghị. Chứng kiến cái chết đau thương của chị Mai, Dít “lầm lì không nói gì cả, mắt ráo hoảnh trong khi mọi người cả cụ già, đều khóc”. Cứ thế Dít lớn lên cùng với cuộc đấu tranh của làng Xô Man. Trở thành người lãnh đạo cuộc chiến đấu của buôn làng, Dít cũng tỏ rõ là người có bản lĩnh, có sức thuyết phục quần chúng. Gặp lại Tnú, Dít, không khỏi xúc động, nhìn anh với “đôi mắt mở to bình thản trong suốt”. Ấy vậy, chị không quên trách nhiệm của minh khi hỏi “đồng chí có giấy không?”, khi tuyên bố dứt khoát “không có giấy thì không được, ủy ban phải bắt thôi” và sau khi xem giấy của Tnú chị lại nói tiếp “sao anh về có một đêm thôi”. Con người Dít như vậy đó, gan góc, cương nghị, không kém phần tha thiết với quê hương, đành rằng bề ngoài tưởng như chỉ có lạnh lùng bình thản.
Tnú và Dít tiêu biểu cho thế hệ thanh niên làng Xô Man, từ lòng căm thù của họ đến với cuộc chiến đấu của dân tộc và chính trong cuộc chiến đấu đó, họ trưởng thành. Sự trưởng thành của họ có cội nguồn của có một mặt là do họ tự vượt mình qua những thử thách lớn lao, mặt khác là do có sự dìu dắt cách mạng của cha ông. Đặc biệt sự trưởng thành của Tnú và Dít được Nguyên Ngọc miêu tả trong mối quan hệ với truyền thông anh hùng của người Strá. Cụ Mết chính là đại diện cho thế hệ cách mạng đi trước của làng Xô Man.
Cụ là pho sử sống, là chỗ dựa tinh thần của dân làng. Tuy già nhưng “cụ vẫn quăc thước như xưa ngực cũng như một tấm xà nu lớn tiếng nói vẫn ồ ồ vang trong lồng ngực”, vẫn sáng suốt ngày đêm lãnh đạo cuộc chiến đấu của làng. Có lẽ cuộc đời cụ đã nếm trải qua nhiều đau khổ, đã thu lượm được nhiều kinh nghiệm quý báu, cho nên cụ luôn luôn nhắc nhở con cháu nhớ tới quá khứ đau thương bất khuất của quê hương.
Chứng kiến cái chết thảm thương của Mai và sự bất lực của Tnú trước sự tra tấn dã man tàn bạo của bọn thằng Dục, cụ Mết càng thấu hiểu: Đối với kẻ thù “chỉ có hai bàn tay trắng, chỉ với bàn tay không” thì không thể nào đối đầu với chúng được, phải cầm vũ khí đứng lên! Bài học này, cụ muốn truyền lại cho thế hệ mai sau: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. San này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu. Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo’’. Lời cụ rành rẽ vang lên trong ánh lửa bập bùng ở nhà ưng.
Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyên Ngọc muốn khẳng định vai trò của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ! Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ truyền thống, với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện tại. Chính vì có một thế hệ cha ông như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít… có sự trưởng thành lớn lao.
Và không chỉ có lớp người như Tnú, lớp sau Tnú như bé Heng, cũng lớn lên, lớn lên cùng với cuộc chiến đấu ác liệt của làng Xô Man. Với nhân vật bé Heng, Nguyên Ngọc chỉ phác họa vài ba đường nét miêu tả ngoại hình nhưng cũng đủ tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Tuổi của bé Heng, lẽ ra, là tuổi đến trường với những trang sách, với những trò chơi vui nhộn nhưng đất nước còn giặc, bé cũng còn nhỏ, bé Heng đã có dáng vẻ của “một người lính thật sự, đội chiếc mũ sụp xin được của anh giải phóng quân nào đó, mặc vào một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng”. Hơn thế, Heng thuộc từng lớp hầm bẫy, hố chông, trở thành người liên lạc như Tnú năm xưa. Thật là từ hào và tin tưởng với một lớp người như bé Heng! Lớp ấy đang lớn lên, trưởng thành, xứng đáng với thế hệ cha anh.
Đọc Rừng xà nu có cảm tưởng như được xem một bộ phim về số phận một con người với biết bao sự kiện. Truyện bắt đầu từ hiện tại từ cái thời điểm anh chiến sĩ giải phóng quân Tnú đặt chân lên mảnh đất quê hương ‘‘sau ba năm đi lực lượng” rồi ngược dòng thời gian trở về quá khứ.
Quá khứ cứ hiện dần lên trong sự hồi tướng của Tnú, trong lời kể của tác giả, trong lời kể của cụ Những mảnh đời quá khứ, những mảnh đời hiện tại, cứ đan ngang, soi tỏ cho nhau để cắt nghĩa sự trưởng thành của thế hệ Tnú, sự trưởng thành của làng Xô Man trong cuộc chiến đấu với kẻ thù, để làm nổi rõ chủ đề của truyện, từ nỗi đau riêng và nỗi đau chung, Tnú và làng Xô Man phải cầm vũ khí để tự cứu lấy mình, để giải phóng dân tộc và cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc sinh ra một thế hệ trẻ kế tục xứng đáng với cha ông.
Chính cái tư tưởng này đã chi phối kết cấu của Rừng xà nu. Hệ thống sự kiện trong truyện, chủ yếu được tổ chức theo sự phát triển tâm lí tính cách nhân vật trung tâm, chứ không theo trật tự thời gian thông thường. Tổ chức sự kiện theo cách đó, nhà văn có điều kiện tập trung miêu tả những tình huống gay cấn làm nổi bật tính cách nhân vật, mặt khác cũng phù hợp với ý nghĩa chính luận của tác phẩm.
Hai lần đối đầu trực tiếp với kẻ thù là hai lần Tnú thể hiện rõ phẩm chất kiên cường của anh, tất nhiên tác phẩm này thể hiện ở mỗi lần có khác nhau và có sự phát triển. Sa vào tay giặc khi còn là một cậu bé, Tnú tỏ rõ đức kiên trung quả cảm của mình. Còn lần đối đầu với kẻ thù, Tnú rực sáng kiên cường bất khuất trước bóng đen tàn bạo của kẻ thù.
Khắc họa tính cách nhân vật, Nguyên Ngọc có sở trường trong việc lựa chọn những chi tiết tiêu biểu có ý nghĩa khái quát cao, những chi tiết giàu chất tạo hình, giàu chất thơ. Trong nhận thức của người đọc, sừng sững hình ảnh cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết với những nét khắc chạm rất tài tình của tác giả: một cụ Mết quắc thước, râu dài, mắt sáng, ngực căng như một cây xà nu lớn.
Và cũng xúc động lòng người một cụ Mết ân tình với cháu con lúc trở tay chùi hai giọt nước mắt lớn khi lặng nhìn tấm lưng rộng của Tnú còn ngang dọc những vết thương đã thành sẹo tím. Như vậy nhân vật anh hùng trong Rừng xà nu không chỉ rung cảm người đọc ở sự vượt lên hoàn cảnh khốc liệt của họ mà còn ở những xúc động, những tình cảm thầm kín nơi họ.
Trên những trang viết của mình. Nguyên Ngọc thường trải những cảm xúc trữ tình của ông về con người, đất nước quê hương. Giọng văn của Rừng xà nu đằm thắm chất trữ tình, khi trầm hùng theo ánh lửa chập chờn ở nhà nhưng trong lời kể trang nghiêm xúc động về quá khứ đau thương của cụ Mết, khi tha thiết tuôn chảy theo dòng hồi tưởng về người thân, theo dòng suy tưởng về quê hương của Tnú… lời văn của Rừng xà nu giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, nhiều đoạn văn trau chuốt, óng mượt như ngôn ngữ của một bài thơ (ví dụ: đoạn mở đầu tác phẩm). Chính cái vẻ của lời văn đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Viết về cuộc khởi nghĩa của dân làng Xô Man trong cuộc kháng chiến chống Mĩ lại lấy tên là “Rừng xà nu”… Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Trung Thành. Với bút pháp tượng trưng, tư tưởng chủ đề của truyện “Rừng xà nu” thêm sâu sắc. Chính nhờ hình tượng cây xà nu mà những nhân vật anh hùng thêm bất tử.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu – Mẫu 3
Truyện ngắn Rừng xà nu được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam ở vào một bước ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”; hàng chục vạn quân viễn chinh Mĩ ồ ạt đổ vào miền Nam, lực lượng cách mạng phải đương đầu với những thách thức to lớn, nhưng vẫn kiên trì mục tiêu và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nguyễn Trung thành lúc ấy đang hoạt động báo chí trong lực lượng quân giải phóng miền Trung Trung Bộ đã kịp thời viết bài tùy bút nổi tiếng Đường chúng ta đi, được xem như một bài hịch của thời đánh đế quốc Mĩ. Tiếp đó, theo yêu cầu của tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung Bộ, bằng vốn hiểu biết và tình cảm sâu nặng với Tây Nguyên, nhà văn đã viết rất nhanh truyện Rừng xà nu cùng với tư tưởng cơ bản là khẳng định con đường duy nhất để giải phóng của nhân dân miền Nam là đứng lên cầm vũ khí chiến đấu, dung bạo lực cách mạng để chống lại sự tàn bạo của kẻ thù.
Rừng xà nu là truyện về cuộc “đồng khởi” của làng Xô Man ở Tây Nguyên, cũng là câu chuyện bi tráng về cuộc đời của Tnú. Hai câu chuyện ấy lồng vào nhau mà truyện về Tnú diễn ra trên nền cảnh lịch sử là cuộc “đồng khởi” của làng. Tư tưởng chủ đề của truyện đã được phát ngôn qua lời của cụ Mết, ở đoạn cao trào của xung đột giữa nhân dân làng Xô Man với kẻ thù, qua lời của một già làng ; tư tưởng ấy được ghi khắc như một chân lí lịch sử : “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu : Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo !…”. Cố nhiên, giá trị tác phẩm không phải chỉ ở sự minh hoạ tư tưởng ấy, những tư tưởng ấy là điểm quy tụ mọi cảm hứng nghệ thuật của tác giả và soi chiếu lên mọi chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
Truyện Rừng xù nu mang đậm chất sử thi. Chất sử thi toát lên từ chủ để, cốt truyện đến nhân vật và cả hình ảnh thiên nhiên, các chi tiết nghệ thuật và giọng điệu, ngôn ngữ của tác phẩm. Hãy chú ý đến cách trần thuật của truyện : Câu chuyện về lịch sử cuộc nổi dậy của một làng và cuộc đời của Tnú được kể lại trong một đêm, cái đêm anh về thăm làng, qua lời của cụ Mết. Chuyện được kể qua lời của một già làng, bên bếp lửa bập bùng suốt đêm, cho cả dân làng nghe : giọng kể trang trọng như truyền cho các thế hệ con cháu những trang lịch sử bi thương và anh hùng của cộng đồng : Người già chưa quên, người chết quên rồi thì để cái nhớ lại cho người sống… “Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe !…”.
Cách trần thuật như vậy gợi nhớ tới cách kể khan (trường ca) của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên. Bên bếp lửa chung của làng, các bài khan được kể như hát suốt nhiều đêm, những trường ca đầy chất sử thi kể về lịch sử mang màu sắc huyền thoại của bộ tộc, về những người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh và khát vọng của cộng đồng (như các trường ca Đăm San, Xinh Nhã, Đăm Bơ-ri,…). Trong Rừng xà nu, câu chuyện cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện của thời hiện tại, nhưng đã được kể như là một câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng sử thi, với thái độ “chiêm ngưỡng” qua một “khoảng cách sử thi” những con người và sự kiện được kể lại.
Truyện ngắn này đã xây dựng cả một hệ thống nhân vật, thể hiện sự tiếp nối của các thế hệ cách mạng của làng Xô Man ở Tây Nguyên : Cụ Mết là gạch nối giữa lịch sử và hiện tại, là thế hệ chiến đấu từ thời chống thực dân Pháp ; anh Quyết là cán bộ cách mạng, người đã “gieo mầm” cách mạng trong đồng bào Tây Nguyên ; rồi Tnú, Mai và tiếp đó là Dít, cả thằng bé Heng – các thế hệ nhân dân Tây Nguyên tiếp nối cuộc chiến đấu, càng sau càng trưởng thành mau lẹ. Nhân vật trung tâm – Tnú – được tác giả tập trung khắc hoạ cả tính cách và số phận. Cuộc đời và số phận của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường giải phóng của nhân dân Tây Nguyên. Ở Tnú, nhiêu chi tiết được miêu tả nhằm làm nổi bật những nét tính cách đẹp đẽ và được bộc lộ ngay từ lúc còn là một cậu bé : gan góc và táo bạo, dũng cảm và trung thực, gắn bó và trung thành với cách mạng, tình thương yêu vợ con và dân làng, quê hương. Câu chuyện tình của Tnú và Mai lúc còn nhỏ thì hồn nhiên và thơ mộng, ở tuổi trưởng thành thật đẹp và thắm thiết nghĩa tình, nhưng rồi thành vô cùng bi thương bởi sự tàn bạo tột cùng của kẻ thù, ngay giữa lúc hai người đang ngập tràn hạnh phúc. Nhưng có lẽ ở nhân vật Tnú, hình ảnh đôi bàn tay gây được ấn tượng sâu sắc và đậm nét hơn cả. Qua bàn tay mà hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật. Bàn tay Tnú lúc còn lành lặn là bàn tay trung thực, tình nghĩa : bàn tay cầm phấn viết cái chữ do anh Quyết dạy cho, bàn tay dám cầm đá đập vào đầu mình “Cộng sản ở đây này !” khi giặc tra hỏi, khi Tnú thoát ngục Kom Tum trở về, gặp Mai ở đầu làng, Mai cầm đôi bàn tay ấy mà giàn giụa nước mắt.
Với đôi bàn tay không, Tnú xông ra giữa bọn giặc, quật ngã tên lính to béo đang nện những cây gậy sắt lên mẹ con Mai. Nhưng với hai bàn tay trắng, Tnú đã không cứu nổi vợ con anh. Hai bàn tay Tnú, mười ngón bị bọn giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu rồi đốt. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Ngọn lửa từ mười đầu ngón tay – nơi thần kinh bén nhạy nhất – đã thiêu đốt cả gan ruột, cả hệ thần kinh của Tnú : “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Mười ngọn đuốc ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của làng Xô Man : trong ánh đuốc lửa xà nu, cụ Mết cùng đám thanh niên với giáo mác trong tay xông ra giết sạch cả tiểu đội lính địch, khởi đầu cho cuộc chiến đấu vũ trang giải phóng của làng. Bàn tay Tnú đã được dập lửa, nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt. Đốt ngón tay cháy cụt không thể mọc lại. Bàn tay mười ngón cháy cụt còn đó như chứng tích căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, nó nhắc nhở anh và cả làng Xô Man về tội ác man rợ của kẻ thù.
Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo, cầm súng được. Và Tnú đã lên đường, cầm súng đi tìm những thằng Dục để đòi trả món nợ máu… Đến cuối truyện, bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện trong một cảnh được miêu tả tỉ mỉ như quay cận cảnh của điện ảnh. Nhưng lần này nó ở trong một tư thế, một tương quan hoàn toàn khác với kẻ thù. Bằng đôi bàn tay cụt mười đốt ngón tay ấy, Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó, trong ánh đèn pin soi vào mặt nó cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo đang siết vào cổ họng những thằng Dục (với Tnú, chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục).
Một hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong truyện ngắn này là hình tượng cây xà nu. Hình ảnh này không chỉ là khung cảnh thiên nhiên làm nền cho câu chuyện mà còn mang một ý nghĩa biểu tượng rộng lớn. Mở đầu và kết thúc truyện đều là hình ảnh cánh rừng xà nu : “đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời” (câu này được nhắc lại gần nguyên vẹn ở đoạn kết, như một vĩ thanh láy lại, gây ấn tượng nổi bật, tạo một dư ảnh và dư âm đọng lại trong tâm trí độc giả sau khi câu chuyện đã khép lại).
Nhưng xà nu không chỉ có mật trong đoạn mở đầu và đoạn kết, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với cuộc sống, sinh hoạt hằng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng : ngọn lửa xà nu cháy bập bùng trong đống lửa ở nhà ưng tập hợp cả dân làng ; khói xà nu đen nhẻm trên thân mình lũ trẻ ; khói xà nu còn làm cho tấm bảng nứa đen kịt để anh Quyết dạy Mai và Tnú học chữ,… Xà nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man : ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và cả dân làng đi rừng sâu lấy giáo, mác, dụ, rựa đà giấu kĩ về chuẩn bị cho cuộc nổi dậy ; đêm đêm cả làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu ; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu ; rồi ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cả làng cái đêm nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính bị giết nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu lớn giữa sân nhà ưng của làng.
Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên. Chúng ta hiểu vì sao truyện ngắn này có tên là Rừng xà nu. Tác giả cũng đã nói rõ vai trò của hình tượng xà nu trong sự tổ chức các chi tiết nghệ thuật và quy tụ cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Có thể nói hình tượng xà nu là một mô típ chủ đạo trong tác phẩm, không tìm được hình tượng này, tác giả cũng không thể viết được truyện ngắn Rừng xà nu. Nguyên Ngọc kể lại : “Bắt đầu như thế nào ? Không, quả thực bắt đầu tôi chưa hề có câu chuyện, cốt truyện nào cả. Bắt đầu đến với ngòi bút, gần như không hề tính trước, là một khu rừng xà nu, những cây xà nu.
Hồi tháng 5 – 1962, hành quân từ miền Bắc vào, tôi cùng đi với anh Nguyễn Thi. Nguyễn Thi về Nam Bộ, tôi rẽ xuống khu Năm. Cùng đi dọc Trường Sơn từ Bắc vào, đến điểm chia tay mỗi người về chiến trường của mình, là khu rừng bát ngát phía tây Thừa Thiên giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp tận chân trời.
Tôi yêu say mê cây rừng xà nu từ ngày đó […], Nguyễn Thi và tôi đã sống với nhau một ngày một đêm chia tay cuối cùng trong khu rừng tuyệt vời ấy […]
Tại sao cái đêm giữa năm 1965 ấy, ngồi viết, rừng xà nu lại bỗng đột ngột đến với tôi, chảy ra dưới ngòi bút tôi ! .
Vì nhớ Nguyễn Thi chăng ? Từ ngày vào chiến trường chúng tôi bặt tin nhau. Vì bấy giờ, bước vào cuộc giáp mặt trực tiếp với Mĩ rồi đây, cả cuộc đời mình – mà tôi đã cùng Nguyễn Thi ôn lại, điểm lại ngày nọ dưới rừng xà nu Tây Thừa Thiên – chợt sống dậy chăng ? Hay vì cái không khí “Hịch tướng sĩ” đánh đế quốc Mĩ hừng hực bấy giờ rất tráng ca, rất “xà nu” chăng ?,… Tôi không nhớ và biết rõ.
Nhưng vậy đấy, rừng xà nu chợt đến. Và lập tức tôi biết tôi đã tạo được không khí, dã có không gian ba chiều. Và cũng lập tức đã nhập được vào không khí, và không gian ấy”.
Chính vì xà nu mang ý nghĩa một biểu tượng nên sự miêu tả về loài cây ở đây luôn luôn được đặt trong sự ứng chiếu với con người gợi ra những liên tưởng về đời sống và số phận cùng phẩm cách của con người – dân làng Xô Man. Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”. Cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá hằng ngày của giặc : “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. Nhưng xà nu có sức sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi : “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai ; Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình, thì Dít lớn lên nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, rồi những bé Heng thế hệ tiếp theo của Dít, cũng đang lớn lên tiếp bước các lớp cha anh.
Thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người cũng còn được thể hiện ngay khi miêu tả nước, tác giả thường dùng cách so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn” ; vết thương trên lưng Tnú do dao giặc chém thì “ứa một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu”.
Thủ pháp nghệ thuật “ứng chiếu” này trong miêu tả tạo nên một sự chuyển hoá, hoà nhập giữa hình tượng thiên nhiên và con người, một bản hợp ca đầy chất thơ hào hùng, tráng lệ về sức sống bất diệt và cuộc chiến đấu bất khuất của nhân dân giành tự do.
Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu – Mẫu 4
Nguyễn Trung Thành còn có bút danh khác là nhà văn Nguyên Ngọc ông viết truyện ngắn “Rừng xà nu” sau những ngày đi tìm kiếm thực tế sáng tác tại núi rừng Tây Nguyên hoang sơ. Truyện ngắn “Rừng xà nu” nhằm ca ngợi những người dân Tây Nguyên kiên cường, trung thành, bất khuất trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
“Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân văn, tình cảm và lòng yêu nước vô cùng to lớn của những người dân vùng núi đại ngàn. Tác phẩm chính là một bản hùng ca bi tráng mang đậm tính sử thi viết về những người dân Tây Nguyên gan dạ, mưu trí, yêu nước hơn yêu cả mạng sống của mình. Nhờ có tinh thần bất khuất kiên cường đó mà toàn dân ta mới chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống lại hai kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là hình ảnh những cánh rừng xà nu. Một rừng xà nu bạt ngàn xanh tươi, trải dài tới hút tầm mắt. Một rừng xà nu mà không cây nào không bị thương, bởi mỗi khi kẻ thù muốn đánh người dân nơi đây chúng đều thả rất nhiều bom đạn trút xuống cánh rừng xà nu. Nên việc xà nu bị thương là điều vô cùng dễ hiểu. Nhưng dù bị thương hay vết thương có khiến cho nhựa cây chảy ra thật nhiều thì những cây xà nu kia cũng không bao giờ chết. Chỗ vết thương theo thời gian sẽ tạo thành một vết sẹo mà thôi. Không có một loài cây nào ham sống như cây xà nu, nếu một cây to bị gục xuống thì ngay dưới chân nó lại có vài cây con mọc lên. Những cánh rừng xà nu cứ vì thế mà xanh tươi mãi mãi.
Hình ảnh những cây xà nu kia chính là biểu tượng của người dân Tây Nguyên, những con người luôn trung thành với Đảng với cách mạng và Bác Hồ. Những con người Tây Nguyên từ người già như cụ Mết, cho tới Tnú, Mai, Dít và bé Heng đều có tinh thần yêu nước. Những người dân của làng Strá dù ít dù nhiều dù lớn dù bé cũng luôn một lòng hướng về quê hương của mình, có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Nhân vật chính trung tâm song song với hình tượng cây xà nu chính là anh Tnú một người anh hùng. Một chiến sĩ cách mạng kiên trung dù trải qua nhiều đau khổ khó khăn trong tình cảm riêng tư nhưng Tnú càng thêm kiên cường và căm thù giặc sâu sắc. Tnú vốn là một cậu bé chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống ba mẹ anh qua đời trong một trận càn quét của giặc. Tnú được cụ Mết và người dân trong làng Xô Man nuôi dưỡng nên người. Ngay từ nhỏ Tnú đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường của mình, Tnú làm liên lạc việc đưa thư cho các chiến sĩ cách mạng, để tránh sự truy đuổi của kẻ thù Tnú thường đi đường mới không đi những con đường mòn dễ đi. Rất nhiều nhiệm vụ khó đã được Tnú hoàn thành. Có lần Tnú bị giặc bắt được chúng tra tấn Tnú nhưng anh vẫn kiên cường không khai mà âm thầm nuốt lá thư vào bụng của mình để bảo đảm an toàn của bức thư.
Ngày còn nhỏ Tnú và Mai là bạn thanh mai trúc mã, cả hai được cán bộ Quyết dạy chữ. Mai thông minh học đâu nhớ đó, còn Tnú thì cứ quên hoài nên anh đã lấy viên đá đập vào tay của mình để nhắc nhở mình phải ghi nhớ. Khi lớn lên Mai và Tnú kết hôn họ đã có thêm em bé là kết quả tình yêu của hai người. Nhưng Mai bị bọn tay sai bắt đi tra tấn dã man khiến cho Mai và em bé trong bụng tử vong. Tnú đau đớn ôm xác vợ con. Anh bị bọn chúng tra tấn dã man và đốt cháy mười ngón tay, nhưng Tnú không hề cảm thấy đau đớn nỗi đau trong lòng anh còn lớn hơn nỗi đau thể xác. Tnú như một cây xà nu trưởng thành bị giặc bắn phá bị thương, nhưng vẫn luôn kiên cường vươn lên và không bao giờ gục ngã.
Truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn vô cùng thành công của nhà văn viết về đề tài những người dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Hình ảnh những cây xà nu anh dũng hiên ngang tựa như những người dân làng Xô Man bất khuất trung hậu, quả cảm.