Soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận, Để giúp cho việc học tập môn Ngữ văn lớp 8 của các bạn ở trên lớp trở nên dễ dàng hơn, chúng tôi xin mời thầy
Để giúp cho mọi người có thể dễ dàng chuẩn bị bài học trước khi đến lớp, sau đây chúng tôi xin giới thiệu tài liệu soạn văn lớp 8: Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận.
Tài liệu soạn bài Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận sẽ gồm hai phần chính là: soạn bài chi tiết và soạn bài ngắn gọn, được chúng tôi biên soạn theo chương trình trong sgk Ngữ văn lớp 8 tập 2. Sau đây, mời các thầy cô và các bạn cùng tham khảo tài liệu.
Xem Tắt
Soạn văn Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận chi tiết
I. Kiến thức cơ bản
1. Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946.
Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Sđd)
Câu hỏi:
a. Hãy tìm những từ ngữ bộc lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả và những câu cảm thán trong văn bản trên. Về mặt sử dụng từ ngữ và đặt câu có tính chất biểu cảm, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giống với Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn không?
b. Tuy nhiên, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ vẫn được coi là những văn bản nghị luận chứ không phải là văn bản biểu cảm. Vì sao?
c. Hãy theo dõi bảng đối chiếu dưới đây:
(1) | (2) |
Thấy sứ giặc đi lại ngoài đường, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ. | Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ. |
Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt | Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! |
Chúng ta sẵn sàng hi sinh tất cả, chứ không thể mất nước, không thể làm nô lệ. | Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. |
Có thể thấy những câu ở hàng (2) hay hơn những câu ở hàng (1). Vì sao như thế? Từ đó, hãy cho biết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận.
Trả lời:
a. Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả:
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em hình sĩ, tự vệ, dân quânỊ
+ Hỡi đồng bào!
+ Chúng ta phải đứng lên!
+ Việt Nam độc lập thống nhất muôn năm!
+ Dù phải gian lao kháng chiến… về dân tộc ta!
Cách dùng từ ngữ của văn bản ” Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh và “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn giống nhau ở việc sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn có giá trị biểu cảm.
b. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và Hịch tướng sĩ vẫn được coi là những văn bản nghị luận chứ không phải văn bản biểu cảm. Bởi vì những tác phẩm này viết ra nhằm mục đích nghị luận chứ không phải biểu cảm (nêu quan điểm, ý kiến bàn luận phải trái, đúng, sai, nên suy nghĩ, sông và hành động như thế nào). Trong hai văn bản này, các yếu tố biểu cảm không thể đóng vai trò chủ đạo mà chỉ có tính chất phụ trợ cho vấn đề nghị luận được đưa ra.
c. Các câu cột 2 hay hơn các câu cột 1 vì có chứa những từ ngữ biểu cảm, câu cảm thán làm cho câu văn giàu hình ảnh, sinh động, gây ấn tượng cho người đọc người nghe.
2. Thông qua việc tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩ và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, em hãy cho biết: Làm thế nào để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận?
a. Người làm văn chỉ cần suy nghĩ về luận điểm và lập luận hay còn phải thật sự xúc động trước từng điều mình đang nói tới?
b. Chỉ có rung cảm không thôi đã đủ chưa? Phải chăng chỉ cần có lòng yêu nước và căm thù giặc nồng cháy là có thể dễ dàng tìm ra những cách nói như: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả…” hay “uốn lưỡi cú diều…”? Để viết được những câu như thế, người viết cần phải có phẩm chất gì khác nữa?
c. Có bạn cho rằng: Càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm trong văn nghị luận càng tăng. Ý kiến ấy có đúng không? Vì sao?
Trả lời:
Phương pháp phát huy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận:
– Người viết ngoài việc suy nghĩ về luận điểm, lập luận còn phải thực sự xúc động trước những điều mình đang nói tới.
– Không chỉ cần rung cảm, mà cần phải có tình cảm, cảm xúc thực sự trước những vấn đề mà mình trình bày.
– Không phải bài văn cứ sử dụng nhiều từ ngữ biểu cảm và câu cảm thán thì giá trị biểu cảm tăng vì những yếu tố này chỉ là phụ trợ. Cảm xúc, sự rung động thực sự chứ không phải sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.
II. Rèn luyện kĩ năng
1. Hãy chỉ ra các yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “người bản xứ” (ở văn bản Thuế máu) và cho biết tác giả đã sử dụng những biện pháp gì để biểu cảm. Tác dụng biểu cảm đó là gì?
Trả lời:
a.
– Các yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và người bản xứ (ở văn bản Thuế máu) được thể hiện qua những hình ảnh so sánh,liên tưởng, những từ ngữ đối lập nhau:
+ Những tên da đen bẩn thỉu >< những đứa con yêu, những người bạn hiền, những chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do
+ Chiến tranh vui tươi >< rời xa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường
+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái.
+ Bỏ xác tại những miền hoang vu, thơ mộng
+ Lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế…
+ Khạc ra từng miếng phổi
b. Tác dụng của những từ ngữ này;
– Giúp người đọc thấy rõ được bộ mặt thâm độc, giả nhân giả nghĩa cũng như âm mưu quỷ quyệt của bọn thực dân Pháp
– Những từ ngữ này làm cho tính mỉa mai, trào phúng của bài viết mạnh mẽ hơn.
2. Đọc đoạn nghị luận sau đây và cho biết: Những cảm xúc gì đã được biểu hiện qua đoạn văn? Tác giả đã làm thế nào để những đoạn văn đó không chỉ có sức thuyết phục lý trí mà còn gợi cảm?
Tôi muốn nói với các bạn câu chuyện làm Việt luận và học Việt văn, luôn thể giãi bày hết nỗi khổ tâm của người anh các bạn đã đeo một cái “nghiệp” vào người: “nghiệp” dạy tiếng mẹ đẻ.
Nỗi buồn thứ nhất là thấy các bạn có quan niệm học “tủ”. Ông thầy dạy giỏi đối với các bạn là ông thầy giảng và soạn sách đúng “tủ”.
Nói làm sao cho các bạn hiểu rằng trong 7, 8 năm trời, nào nhận xét, đọc sách, xem truyện, giảng văn…, nào tập dùng chữ, đặt câu, dàn ý, làm bài, tôi thiết tưởng một học sinh, với khiếu thông minh, trí nhớ trung bình, không có lí do gì phải nhấn bút trước một đề văn trong kì thi viết.
Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa. Sao không có một “hãng” nào đó in ra độ 500 bài làm sẵn để học sinh cứ việc mang về học thuộc như con vẹt, rồi đem nguyên văn chép lại cho hội đồng chấm thi duyệt xem chép sai hay đúng, việc gì còn phải lôi thôi bày đặt ra chương trình học tập để bắt trẻ em ngày ngày phải đến trường?
(Theo Nghiêm Toản, Luận văn thị phạm)
Trả lời:
– Đoạn trích đã thể hiện:
+ Nỗi buồn của tác giả – một nhà giáo tâm huyết với nghề dạy học – trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
+ Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước một thực tế đáng buồn diễn ra trong đời sống giáo dục nước nhà trước đây.
– Tình cảm ấy thể hiện:
+ Từ ngữ bộc lộ cảm xúc: nỗi khổ tâm, nói làm sao,…
+ Câu văn thể hiện nỗi buồn, thái độ bất bình: “Sự học mà đã hạ xuống là học “tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa”.
+ Câu văn mang giọng điệu mỉa mai: “Sao không có một “hang” nào đó…”
3. Viết một đoạn văn nghị luận để trình bày luận điểm “Chúng ta không nên học vẹt và học tủ” sao cho đoạn văn ấy vừa có lí lẽ chặt chẽ, lại vừa có sức truyền cảm.
Trả lời:
Muốn chiếm lĩnh được tri thức cần có phương pháp khoa học thay vì việc học tủ và học vẹt. Học vẹt là học chay, học không khoa học, tràng giang đại hải, học theo kiểu bắt chước một cách vô thức, không hiểu bản chất của vấn đề. Còn học tủ là lối học lỏi, chọn phần tiếp thu nhanh để học. Hai lối học tai hại này đều gây ra hậu họa khôn lường. Học tủ có thể bị “lệch tủ”, “trật tủ” và khả năng bị điểm liệt, điểm yếu rất báo động. Học vẹt khiến cho học sinh rỗng kiến thức và làm mất đi lối tư duy phân tích, tổng hợp vấn đề. Cả hai cách học này đều khiến học trò bị mất phương hướng, và hoàn toàn trống rỗng khi học. Kiến thức thực sự, khả năng sáng tạo và phát triển trí tuệ sẽ không được bị triệt tiêu bởi hai phương pháp học tủ và học vẹt lệch lạc, phiến diện.
Soạn văn Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận ngắn gọn
I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận
Câu 1 (sgk trang 95 – 96 sgk Ngữ văn lớp 8 tập 2)
a. Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn:
– Từ ngữ: muốn hòa bình, phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm cướp nước ta, thà hy sinh, nhất định không, phải hy sinh tới giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
– Những câu cảm thán:
+ Hỡi đồng bào toàn quốc!
+ Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước nhất định không chịu làm nô lệ.
– Cả Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều giống nhau ở việc đều sử dụng nhiều từ ngữ và câu văn giàu tình cảm.
b, Cả hai văn bản này đều là văn bản nghị luận vì hai văn bản này không nhằm bộc lộ cảm xúc mà hướng tới tác động tới lý trí của người đọc, buộc người đọc phải hiểu và phân tích được để bàn về lẽ phải, trái, đúng sai của một quan điểm, một ý kiến.
c. Những câu văn ở đoạn 2 hay hơn đoạn 1 vì giàu sức biểu cảm khi kết hợp những từ ngữ bộc lộ tình cảm, thái độ của người viết.
Yếu tố biểu cảm khi đưa vào văn nghị luận sẽ có hiệu quả thuyết phục hơn, tác động mạnh mẽ tới người đọc (người nghe).
Câu 2 (sgk trang 96 – 97 sgk Ngữ văn lớp 8 tập 2)
Để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận thì:
– Phải thật sự có cảm xúc trước những điều mình viết (nói).
– Phải biết diễn tả cảm xúc đó bằng những từ ngữ, những câu văn có sức truyền cảm.
– Cảm xúc cần phải diễn tả chân thực và không được phá vỡ mạch nghị luận của bài văn => ý kiến ở phần (c) là không chính xác.
II. Luyện tập
Câu 1 (sgk trang 97 Ngữ văn lớp 8 tập 2)
Những yếu tố biểu cảm trong phần I – Chiến tranh và “Người bản xứ”:
– Những yếu tố đối lập:
+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu >< những đứa “con yêu”, những người “bạn hiền”, chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do.
+ Chiến tranh vui tươi, vinh dự đột ngột >< đột ngột xa lìa vợ con, phơi thây trên các bãi chiến trường.
+ Cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi >< xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái.
– Hình ảnh mang tính biểu tượng cao:
+ Bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng.
+ Lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy.
+ Khạc ra từng miếng phổi.
– Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm sâu cay, khi xót thương.
– Tác dụng: Thuyết phục người đọc đồng cảm với suy nghĩ của mình, căm thù sự độc ác và tráo trở của bọn thực dân, cảm thương cho số phận của nhân dân ta.
Câu 2 (sgk trang 97 sgk Ngữ văn lớp 8 tập 2)
– Những cảm xúc của tác giả được biểu hiện qua đoạn văn:
+ Nỗi buồn trước tình trạng học tủ, học vẹt của học sinh.
+ Những dằn vặt, trăn trở của một nhà giáo trước thực tế đáng buồn của ngành giáo dục .
– Để đoạn văn không chỉ có sức thuyết phục lý trí mà còn gợi cảm, tác giả đã sử dụng:
+ Giọng văn mang đầy tâm sự chứa đựng nỗi băn khoăn , day dứt của người viết.
+ Câu văn được viết dưới dạng câu hỏi tu từ:
* Nói làm sao cho…
* Không có lý do gì phải nhấn bút…
* Sao không có một “hãng” nào đó in ra…
+ Từ ngữ thể hiện thái độ xuất hiện nhiều: nỗi khổ tâm, đeo một cái nghiệp, không có lí do gì, như con vẹt, việc gì còn phải lôi thôi,…
Câu 3 (trang 98 sgk Ngữ văn lớp 8 tập 2)
Học tủ và học vẹt đang là tình trạng chung của nhiều học sinh hiện nay. Học vẹt là cách học làu làu không suy nghĩ, học mà không nắm rõ nội dung mình học là gì, còn học tủ là chỉ học cầu may, rủi, đoán đề mà thành công. Cả hai cách học đều trở thành một lối học khiến cho học sinh hổng kiến thức, không nắm rõ được nội dung bài học, học theo mô típ và may rủi hạn chế khả năng tư duy và sáng tạo, đồng thời khiến chúng ta phụ thuộc nhiều vào hên xui. Thật đáng buồn thay cho những học sinh đang có cách học đó, cố nhồi nhét kiến thức vào đầu trong khi mình không hiểu rõ hay nhiều học sinh dựa vào vận may rủi của riêng mình. Bởi lẽ sự học còn dài, học tập là quá trình trau dồi kiến thức cho bản thân, giúp chúng ta có nhiều kiến thức vận dụng vào đời sống, đạt được nhiều thành công trên quãng đường đời chứ không phải là hình thức học đối phó như thế. Chính vì lẽ đó mà mỗi chúng ta hãy ý thức cho riêng mình sự học quan trọng như thế nào, và tìm ả cho mình con đường đi đúng đắn. Học tập chính là cho chính bản thân chúng ta. Tôi và các bạn, chúng ta hãy cùng nhau cố gắng nhé!