Bài văn mẫu lớp 10 – Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny https://quatangtiny.com Shop chia sẽ Tài Liệu Học tập Miễn Phí cho các bạn độc giả có cái nhìn hay và tổng quan về các tính năng sản phẩm độc đáo Mon, 03 Jan 2022 08:44:14 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.9.9 https://quatangtiny.com/wp-content/uploads/2020/10/cropped-icon-Qua-1-32x32.png Bài văn mẫu lớp 10 – Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny https://quatangtiny.com 32 32 Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá (Dàn ý + 11 mẫu) https://quatangtiny.com/thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742 https://quatangtiny.com/thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742#respond Mon, 03 Jan 2022 08:44:14 +0000 https://quatangtiny.com/thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742

Related posts:

  1. Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về vấn đề hút thuốc lá hiện nay (Dàn ý + 8 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
]]>
Văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá (Dàn ý + 11 mẫu), Thuyết minh về tác hại của thuốc lá sẽ giúp cho các bạn lớp 10 có thêm nhiều tư liệu tham khảo,

Thuyết minh về tác hại của thuốc lá gồm dàn ý và 11 bài văn mẫu siêu hay, ấn tượng nhất. Qua đó các bạn học sinh lớp 10 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, hình dung được cách thức, các bước đi và hướng giải quyết vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó nhanh chóng viết thành một bài văn thuyết minh hoàn chỉnh, hay.

Ngoài ra các bạn xem thêm đoạn văn thuyết minh tác hại của thuốc láthuyết minh về tác hại của rượu và nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 10.

Dàn ý thuyết minh tác hại của thuốc lá

Dàn ý số 1

I. Mở bài: giới thiệu về thuốc lá và tác hại của thuốc lá

Khi chúng ta đến bệnh viện, công ty, hay bất kỳ một nơi công cộng cũng có một biển báo là “ cấm hút thuốc”. thế nào tình trạng hút thuốc lá vẫn diễn ra thản nhiên trước mặt chúng ta. Những người hút thuốc tuy vẫn biết tác hại của thuốc lá nhưng họ vẫn hút, mặc kệ sức khỏe của mình. chúng ta đang càng ngày chịu những tác hại của thuốc lá gây ra, ngay cả khi chúng ta không hút thuốc.

II. Thân bài: thuyết minh về tác hại của thuốc lá

1. Tình trạng hút thuốc lá hiện nay

– Ở Việt Nam, các bệnh liên quan đến thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam

– Mỗi năm có khoảng 40.000 ca tử vong mỗi năm gây ra – tức là hơn 100 người chết vì thuốc lá mỗi ngày.

– Theo như tình trạng hiện giờ thì ước tính số tử vong do các bệnh liên quan đến thuốc lá mỗi năm sẽ tăng lên thành 70.000 người vào năm 2030.

– Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nam giới hút thuốc lá cao nhất thế giới với 47,4%

– Trong tổng số 15 triệu người hút thuốc có 12,8 triệu (39,4% nam và 1.2% nữ) hút thuốc lá điếu. Hiện có 4,1 triệu người lớn hút thuốc lào (GATS 2010).

– 67% người không hút thuốc (khoảng 33 triệu người) nói họ bị tiếp xúc với khói thuốc thụ động tại nhà và 49% người lao động (khoảng 5 triệu người) cho biết họ bị ảnh hưởng bởi khói thuốc thụ động tại nơi làm việc (GATS 2010).

– Các nhà xã hội học thống kê, nếu số tiền mua thuốc hút được dùng để mua thực phẩm hoặc chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác của hộ gia đình, hơn hai triệu người Việt Nam có thể thoát nghèo.

2. Tác hại của thuốc lá:

– Hút thuốc lá là nguyên nhân gây nên nhiều loại ung thư như: Ung thư phổi, ung thư thực quản, ung thư thanh quản, ung thư miệng, ung thư thận và bàng quang, ung thư hậu môn trực tràng, ung thư bộ phận sinh dục,….

– Thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây nên bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

– Thuốc là làm giảm khả năng sinh dục và có khả năng tăng nguy cơ vô sinh ở cả nam và nữ.

– Hút thuốc làm rất có hại cho phụ nữ mang thai, có thể tăng nguy cơ sảy thai, thai chết lưu, trẻ đẻ non, trẻ đẻ thiếu cân, các dị tật bẩm sinh ở trẻ…

– Người hút thuốc thụ động có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn những người không hít phải khói thuốc.

– Trẻ em hít phải khói thuốc có nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp, viêm tai giữa, tăng nguy cơ lên cơn hen, làm giảm trí tuệ,….

III. Kết bài:

– nêu cảm nghĩ của em về thuốc lá và tác hại của thuốc lá

– Thuốc lá rất có hại cho sức khỏe nên hãy bỏ thuốc ngay từ bây giờ

– Hãy bảo vệ chính bạn cũng là bảo vệ những người thân trong gia đình bạn

Dàn ý số 2

I. Mở bài

– Giới thiệu đối tượng thuyết minh: Tác hại thuốc lá

– Nêu lên suy nghĩ, độ của bản thân: Đây là đối tượng tiêu cực, cần lên án, phê phán

II. Thân bài

1. Thuốc lá là gì?

– Thuốc lá là sản phẩm được làm chủ yếu từ nguyên liệu là cây thuốc lá. Lá thuốc sau khi phơi khô, qua xử lí sau đó quấn thành điếu để hút.

– Một số dạng của thuốc lá: Thuốc lào, thuốc lá điếu, xì gà.

– Thuốc lá có chứa chất gây nghiện, những người hút thuốc lá nhiều lần sẽ bị nghiện và phụ thuộc vào thuốc.

2. Thực trạng của việc sử dụng thuốc lá trong đời sống.

– Số lượng người sử dụng thuốc lá ở Việt Nam rất lớn bởi giá thành khá rẻ, dễ sử dụng

– Thuốc lá hiện nay được sử dụng phổ biến trong đời sống với nhiều đối tượng đa dạng: Từ trí thức, công nhân, nông dân đến học sinh sinh viên

– Đối tượng sử dụng thuốc lá chủ yếu là nam giới.

3. Nguyên nhân của việc sử dụng thuốc lá.

a. Nguyên nhân khách quan.

– Do sự du nhập của lối sống phương Tây vào đời sống Việt Nam, cùng với đó là những tệ nạn xấu.

– Do sự kiểm soát thiếu nghiêm ngặt, khắt khe từ nhà nước

– Do gia đình, nhà trường chưa có biện pháp đúng đắn giáo dục con em

b. Nguyên nhân chủ quan.

– Do sự đua đòi, thiếu hiểu biết của mỗi người

– Do sự tò mò, ham của lạ, thích khám phá cái mới của giới trẻ

– Do sự dụ dỗ của bạn bè, đồng nghiệp

– Do không có ý chí kiên định để từ bỏ thuốc lá

4. Hậu quả của thuốc lá đối với đời sống con người

a. Về sức khỏe.

– Thuốc lá chứa những chất độc gây ra ung thư cho con người.

– Thuốc lá có thể làm phá hủy nội tạng, gây ra những căn bệnh về phổi, tim mạch, hô hấp

– Làm giảm tuổi thọ của con người

– Người nghiện thuốc sẽ bị phụ thuộc vào nó, nếu không hút thường xuyên sẽ không được tỉnh táo.

– Khói thuốc lá còn ảnh hưởng đến sức khỏe của những người hít phải, nguy cơ mắc bệnh của người vô tình hít phải khói thuốc cũng giống như những người trực tiếp hút.

b. Về kinh tế.

– Số tiền bỏ ra để mua thuốc hằng năm rất lớn, ảnh hưởng đến kinh tế của mỗi người.

– Những chất độc hại của ma túy ngấm vào cơ thể khiến bạn mang những căn bệnh nặng. Số tiền để chạy chữa rất lớn, rất có thể gia đình lâm vào cảnh nợ nần vì bệnh tật.

c. Về môi trường.

– Tàn thuốc hút xong vứt ra môi trường là cho môi trường thiếu trong sạch

– Khói thuốc được xem là chất độc hại nhất trong môi trường, khiến cho môi trường trở nên độc hại, ngột ngạt.

5. Biện pháp ngăn chặn tác hại của thuốc lá.

– Nhà nước có những biện pháp cứng rắn ngăn chặn việc sản xuất, buôn bán thuốc lá.

– Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi người nhận thức được tác hại của thuốc lá

– Gia đình, nhà trường cần có biện pháp giáo dục, răn đe đối với con em mình tránh xa thuốc lá

– Mỗi người cần phải có ý thức trong suy nghĩ và hành động của mình, làm chủ bản thân, tránh xa tác hại của thuốc lá.

6. Liên hệ bản thân, rút ra bài học.

– Là học sinh, sinh viên cần rèn luyện lối sống lành mạnh, biết bảo vệ sức khỏe bản thân và những người xung quanh

– Biết giữ mình, tránh xa những lời dụ dỗ, khích bác của kẻ xấu.

– Học tập, khám phá nhưng phải biết tiếp thu có chọn lọc

III. Kết bài

– Khái quát lại vấn đề cần thuyết minh

– Thể hiện suy nghĩ của bản thân và đưa ra lời khuyên: Thuốc lá có tác hại vô cùng to lớn đối với con người, nó không gây đến những hậu quả tức thì như ma túy nhưng hậu quả về sau của nó cũng nghiêm trọng không kém.

– Đưa ra lời khuyên: Nói không với thuốc lá

Thuyết minh tác hại của thuốc lá ngắn gọn

Bài làm mẫu 1

Thuốc lá là một chất kích thích gây nghiện, gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của con người. Nhưng nhiều người vẫn lờ đi và không để ý tới các tác động xấu đó.

Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, những tác hại của thuốc lá liên tục được cập nhật bởi những hiểm họa mà nó gây ra cho cuộc sống con người có thể nói đã ở mức báo động. Tuy nhiên, không phải ai cũng quan tâm đến vấn đề này, đặc biệt những người đang hút thuốc thường chậc lưỡi cho rằng: chuyện biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Điều đó thực sự trở nên nguy hiểm vì nếu chính những người hút thuốc không có kiến thức sơ đẳng về tác hại của thuốc lá họ sẽ vô tình gây ảnh hưởng không chỉ đến sức khỏe của mình mà còn tới những người xung quanh và môi trường sống. Bài viết sau đây xin được bổ sung những kiến thức còn thiếu hụt mà những người hiện đang sử dụng thuốc lá chưa quan tâm đến, đặc biệt đối với lứa tuổi học đường đây sẽ là những kiến thức hành trang cần thiết đối với các bạn trước ngưỡng cửa cuộc sống với những cám dỗ khó vượt qua trong đó có thuốc lá.

Hút thuốc lá là có hại, nhưng bằng những con đường nào? Chúng ta có thể viết được nhiều cuốn sách nói về những tác hại của thuốc lá nhưng ở đây chúng ta chỉ có thể đề cập trong phạm vi nhỏ. Nhưng trước tiên tôi muốn cảnh báo các bạn: Hãy hít thở thật sâu để giữ bình tĩnh nếu không bạn sẽ bị ngất đấy! Tác hại của thuốc lá đối với học sinh là rất lớn.

Có rất nhiều con đường mà thuốc lá có thể làm hại bạn: hút thuốc lá, nhai cau với lá thuốc lào, hít thở khói thuốc lá từ những người quanh bạn. Thuốc lá gây tử vong cho 3 người trong tổng số 10 người chết vì bệnh tim và 9 trong số 10 người chết vì bệnh ung thư phổi.

Nếu như bạn hút thuốc lá trước tuổi 18, phổi của bạn sẽ không phát triển và bị co lại, dẫn tới những vấn đề về hít thở và rủi ro bệnh tật sau này. Những người hút thuốc lá chịu rủi ro cao hơn những người không hút thuốc khi bị những khối u trong hệ tiêu hoá và những vấn đề kinh niên về đường ruột. Thêm vào đó những người hút thuốc lá mắc những bệnh này khó điều trị hơn và rủi ro bị mắc lại cùng cao hơn. Hút thuốc sẽ làm tăng rủi ro bệnh loãng xương.

Không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến người hút thuốc, khói thuốc là còn là mầm mống đặc biệt nguy hiểm đối với những người không hút thuốc nhưng phải sống trong môi trường có khói thuốc lá.

Với những tác hại khủng khiếp như vậy, tại sao thuốc lá vẫn được tiêu thụ mạnh đến vậy? Thực tế các công ty sản xuất thuốc lá đã tung ra những phương thức quảng cáo lừa bịp để người sử dụng có những cái nhìn sai lệch về thuốc lá.

Tiếp đó bạn có thể động viên họ hàng và bạn bè cai thuốc và giúp đỡ họ trong quá trình này, cố gắng giữ cho ngôi nhà của bạn là nơi “không hút thuốc”, hãy treo những biển hiệu và khẩu hiệu đề nghị khách không hút thuốc hoặc lí giải rằng nhà của bạn là nơi không hút thuốc. Hãy vứt bỏ những gạt tàn thuốc mà bạn có và hãy lịch sự đề nghị khách hút thuốc ở ngoài. Hãy nói chuyện với bạn bè cùng lớp, thầy cô và ban giám hiệu nhà trường về việc biến trường học của bạn thành một nơi “không hút thuốc”. Mức tối thiểu cũng phải là học sinh không nên hút thuốc hoặc không phải ngửi khói thuốc khi học tại trường.

Hiện nay hầu hết các loại thuốc lá được sản xuất tại Việt Nam đều được in những hình ảnh, dòng chữ cảnh báo gây ấn tượng sợ hãi cho người sử dụng nhưng cũng không ngăn được tình trạng hút thuốc lá ngày càng tăng lên. Không thể chần chừ thêm nữa, ngay bây giờ mỗi chúng ta hãy cùng nhau nói “Không” với thuốc lá để bảo vệ sức khỏe bản thân và sức khỏe cộng đồng.

Bài làm mẫu 2

Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng được quan tâm song vẫn có không ít những tác nhân làm nguy hại đến sức khoẻ của con người. Một trong số đó là thuốc lá!

Trên mỗi vỏ bao thuốc lá đều có dòng chữ “Thuốc lá có hại cho sức khoẻ” vậy mà bất chấp điều cảnh báo ấy,người ta vẫn hút thuốc. Hút đến vàng răng,vàng cả ngón tay cầm thuốc,hơi thở hôi đến khó chịu với những người xung quanh…Có một thời, thuốc lá trở thành vật không thể thiếu trên bàn tiếp khách. Người lớn hút, trẻ nhỏ cũng hút. Nguyên nhân nào dẫn đến thói quen tai hại ấy? Do thói quan giao tiếp cũng có,do sự học đòi bắt chước thích tỏ ra mình là người “sành điệu” cũng có.

Hầu hết những người hút thuốc lá đều biết tác hại của nó. Trong thuốc lá có chứa Nicotin là một chất gây nghiện. Hút thuốc lá nhiều có thể bị hỏng hệ hô hấp, dẫn đến ho, khó thở, tức ngực, thậm chí có thể gây rỗ phổi hoặc ung thư phổi. Như vậy, thuốc lá làm cho sức khoẻ và tuổi thọ bị suy giảm nghiêm trọng. Không những thế thuốc lá còn làm tiêu hao túi tiền của người sử dụng. Có thể số tiền dành cho thuốc lá không nhiều,nhưng nếu không hút thuốc lá, ta có thể dùng số tiền đó vào những việc khác hữu ích hơn. Đối với trẻ nhỏ việc học đòi, bắt chước hút thuốc lá vừa làm nguy hại đến sức khoẻ vừa làm cho tâm tính bị thay đổi dẫn đến dối trá, trộm cắp vặt để có tiền hút thuốc…

Thuốc lá không chỉ có hại đối với người trực tiếp sử dụng nó mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh vì khói thuốc lan trong không khí khiến họ cũng phải chịu ảnh hưởng nặng nề. Hiện nay, khi đến các nơi công cộng như bến xe, thậm chí cả trường học, trụ sở nhà nước, chúng ta vẫn bắt gặp nhiều người hút thuốc lá mà không hề quan tâm đến sức khoẻ của mình và cảm giác của những người xung quanh. Như vậy họ đã gián tiếp làm nguy hại đến sức khỏe cộng đồng và vô tình làm cho môi trường bị suy thoái. Theo điều tra mới nhất của tổ chức y tế thế giới WHO, cứ theo đà hút thuốc hiện nay thì đến năm 2020 số người chết vì thuốc lá sẽ là 8 triệu người một năm. Tức là cao hơn số người chết vì HIV/AIDS, bệnh lao và tai nạn giao thông cộng lại. Dự báo ấy liệu có làm cho những con nghiện thuốc lá lưu tâm ?

Thuốc lá có hại như vậy. Làm thế nào để ngăn chặn việc hút thuốc lá ?Có lẽ cần tuyên truyền nhiều hơn về tác hại của nó trên các phương tiện thông tin đại chúng. Coi việc hút thuốc lá là hành vi không đẹp bởi nó là biểu hiện của nghiện ngập và của những con người dễ bị chi phối. Và yếu tố quan trọng nhất là tự bản thân phải ý thức cao, chủ động không tiếp cận với thuốc lá để giữ gìn,bảo vệ sức khoẻ của chính mình và những người thân trong gia đình mình.

Thuốc lá có hại. Thuốc lá nguy hiểm cho sức khỏe. Bởi vậy thế hệ trẻ chúng ta hãy cùng nhau nói không với thuốc lá!

Bài làm mẫu 3

Xã hội ngày càng phát triển bên cạnh những phát minh tiên tiến có ích cho cuộc sống thì cũng còn đó những mặt trái khiến con người nhức nhối. Một trong những bài toán không có lời giải hiện nay đó là làm sao để con người không còn đam mê với thuốc lá nữa. Bởi nó chính là nguyên nhân gây nên rất nhiều sự bất cập cho xã hội.

Thuốc lá là một trong những sản phẩm của cây thuốc lá thái sợi được cuộn vào và bán cho người dùng. Trong thành phần thuốc lá có chứa chủ yếu là chất nicotin một trong những chất độc hại gây suy giảm sức khỏe tuổi thọ của con người và là nguyên nhân chính gây nên bệnh ung thư. Hiện nay thuốc lá tồn tại ở rất nhiều dạng như : thuốc lá đầu lọc, thuốc lá không đầu lọc, xì gà….

Có thể gọi việc hút thuốc lá chính là một tệ nạn xã hội. Bởi nó gây nên quá nhiều những hậu quả xấu cho con người cho xã hội. Bất kể người già, người trẻ, đàn ông thậm chí đàn bà đều sử dụng thuốc lá. Chính vì nhu cầu đó mà nó được chia thành 2 loại: thuốc lá đàn ông và thuốc lá dành cho phụ nữ.

Bạn thường thấy trên những bao bì của gói thuốc thường có dòng chữ “Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe”, thế nhưng không hiểu vì lí do gì mà con người ta vẫn bỏ mặc ngoài tai và dùng nó. Bởi thực chất trong thành phần thuốc lá có chứa một chất gây nghiện. Khiến con người trở nên lệ thuộc vào nó. Vậy tác hại của thuốc lá là thế nào?

Đầu tiên hút thuốc lá ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe. Theo một nghiên cứu khoa học của trường đại học Mỹ, trong thuốc lá có chứa đến 4000 chất hóa học trong đó có 200 loại gây hại cho sức khỏe như chất gây nghiện, chất gây độc và là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ung thư phổi. Những người hút thuốc sẽ tăng nguy cơ bị mắc các bệnh như tim, tắc nghẽn phổi, nhồi máu cơ tim và còn gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sinh sản của cả nam và nữ. Người hút thuốc lá thường xuyên có tuổi thọ ngắn hơn 5-8 năm so với những người không hút, như thế có nghĩa là mỗi một điếu thuốc bạn hút sẽ khiến bạn lãng phí đi 5,5 phút tuổi thọ.

Không chỉ gây ảnh hưởng đến bản thân người hút, khói thuốc lá còn gây tác động nghiêm trọng đến những người xung quanh. Trẻ em, người lớn, phụ nữ những người không dùng thuốc khi hít phải lượng khói thuốc lá sẽ có nguy cơ mắc các bệnh về họng, trí tuệ, thể chất. Phụ nữ mang thai hít khí thuốc sẽ gia tăng khả năng sinh non, xảy thai, tử vong… Trẻ sơ sinh có cha hoặc người thân hút thuốc sẽ có nguy cơ hở hàm ếch, và ung thư não hơn 40% những đứa trẻ không có cha hút thuốc.

Bên cạnh việc gây tổn hại về sức khỏe thì thuốc lá cũng là nguyên nhân gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho xã hội. Mỗi một năm tính toán trung bình một người Việt Nam hút thuốc sẽ tiêu tốn khoảng 700 ngàn đồng. Nếu với khoảng 12 triệu người hút thuốc như hiện tại thì mỗi năm chúng ta sẽ phải tốn tới 8,2 nghìn tỉ đồng chỉ để… mua thuốc lá. Con số này gấp 3. 6 lần chi phí cho học hành, 2. 5 lần chi phí cho quần áo, gấp hai lần chi phí khám chữa bệnh và đủ để mua lương thực sống 1 năm cho 11 triệu người. Đấy còn chưa kể nhà nước sẽ mất hàng triệu đô la để khắc phục chữa bệnh cho các bệnh nhân chịu di chứng từ thuốc lá.

Thực tế nghịch lí cho thấy càng ở những nước nghèo thì tỉ lệ người hút thuốc càng cao. Còn những nước phát triển số người hút thuốc đã giảm chóng mặt. Thuốc lá trở thành một trong những việc phạm pháp ở các nước phương Tây. Đó cũng là lí giải cho việc tại sao tỉ lệ số người chết vì ung thư ở nước đang phát triển và nước nghèo tăng cao, tại sao nạn đói cứ tiếp diễn đều đều như vậy. Nguyên nhân là do chúng ta còn chưa kiểm soát, khống chế được người hút thuốc lá.

Có thể nói hút thuốc lá chính là một trong những tệ nạn cần được loại bỏ ngay trong xã hội. Đối với những người chưa hút hãy tránh xa thuốc lá. Còn những người đã hút và nghiện thuốc lá hãy nghĩ đến tương lai của mình và người thân mà tìm cách hạn chế, cai thuốc. Cai thuốc tuy là một việc vô cùng khó khăn song hãy quyết tâm thì điều gì cũng có thể dễ dàng vượt qua.

Thuốc lá đang từng ngày gặm nhấm và hủy hoại con người. Chính vì thế ngay từ bây giờ còn ngồi trên ghế nhà trường bạn hãy hiểu về tác hại khôn lường của nó và có biện pháp để phòng tránh. Hãy bảo vệ chính cuộc sống của mình và người thân bằng cách nói không với thuốc lá.

Bài làm mẫu 4

Dịch hạch, thổ tả, hàng vạn hàng triệu người chết, nhờ tiến bộ y học, loài người hầu như đã diệt trừ được. Cả thế giới đang lo âu về nạn AIDS, chưa tìm ra giải pháp thì lại xuất hiện nạn thuốc lá. Có thể nó rằng bên cạnh các tệ nạn khác, thuốc lá đã gây ra tác hại rất lớn đối với đời sống con người.

Hút thuốc lá ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người. Hút thuốc lá có thể gây ra bệnh về phổi, gan, tim, khoa học và thực tế đã chứng minh rằng nếu một người hút thuốc lá thường xuyên trong vòng nhiều năm thì tuổi thọ sẽ giảm đi rất nhiều so với những người không hút thuốc lá. Vì sao vậy. Trong thuốc lá có cocain dễ gây nghiện, khi hút có thể nó kích thích sự hưng phấn cho người hút nhưng nó lại gây ra tác hại rất lớn. Nó làm thành màng đen bao lấy phổi, hút càng nhiều thì diện tích màng đen càng lớn gây bệnh cho người hút. Không chỉ cá nhân người hút mà hút thuốc thì người gần anh cũng hít phải khói độc. Vợ con, những người xung quanh. . . cũng bị nhiễm độc, cũng đau tim mạch, viêm phế quản, ung thư. . . đặc biệt người hít phải khói thuốc còn có khả năng bị bệnh cao gấp mười lần người hút thuốc. Hút thuốc cạnh một người đàn bà có thai quả là một tội ác.

Nạn hút thuốc ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế mỗi người và nền kinh tế xã hội. Một người mới bắt đầu làm quen với thuốc lá có thể hút rất ít không tốn là bao nhưng thuốc lá rất dễ gây nghiện nên số lượng và số lần hút sẽ tăng lên một cách nhanh chóng. Vì vậy, số tiền đáng lẽ một người chồng cha mẫu mực phải lo cho gia đình, một cậu thanh niên dành quyên góp đồng bào lũ lụt. . . thì lại nướng vào hút thuốc lá. Thật tai hại! Đặc biệt trên phong bì ngoài bao thuốc nào cũng có ghi “hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ” nên việc nhập khẩu thuốc lá với thuế quan rất đắt ảnh hưởng đến nền kinh tế cả nước. Do vậy có thể nói thuốc lá làm nền kinh tế cá nhân, cả nước và cả thế giới thiệt hại.

Nhiều thanh niên (trong đó có cả nữ) ngày nay muốn tỏ vẻ ta đây là người lớn, lên mặt đàn anh đàn chị bèn tìm đến thuốc lá. Họ coi lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc lá trên tay mới là dân sành điệu. Suy nghĩ vậy thực là nguy hiểm! Quả thuốc lá đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách con người. Bố và anh hút, chú bác hút. . . không những đầu độc con em mà còn nêu gương xấu. Một điều đáng chê trách của nền điện ảnh Việt Nam và cả thế giới là những chiến sĩ cảnh sát mẫu mực nhất, những cán bộ được yêu kính nhất. . . trước một vấn đề đau đầu cần suy nghĩ để tìm hướng giải quyết thì lại trầm ngâm cùng điếu thuốc. Điều đó càng khuyến khích việc hút thuốc lá. Tệ nạn thuốc lá không chỉ giới hạn trong phạm vi của nó. Từ điếu thuốc đến cốc bia, đến ma tuý thực là khoảng cách không xa mấy. Mọi tệ nạn dường như đều có thể mở đầu bằng điếu thuốc.

Thuốc lá – Môi trường ngỡ không liên quan đến nhau nhưng thực ra có liên quan mật thiết đến nhau. Hút thuốc lá, khói thuốc lá làm ô nhiễm môi trường. Bên cạnh khói nhà máy, khói xe cộ. khói thuốc lá hủy hoại môi trường sống, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.

Vì những tác hại ảnh hưởng đến sức khoẻ kinh tế, nhân cách, đời sống con người như vậy nên mỗi cá nhân cộng đồng, toàn thế giới cần phải tích cực chống việc hút thuốc lá. Không chỉ là lời nói, khẩu hiệu suông mà ai cũng phải tự ý thức thực hiện bằng hành động. Người người nhắc nhở nhau, nhà nhà nhắc nhở nhau. . . nếu tất cả cùng đồng tâm hiệp lực không hút – không mua – không bán thuốc lá thì tốt biết mấy.

Bài làm mẫu 5

Thuốc lá không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn ảnh hưởng đến người sức khỏe của con người. Hút thuốc có thể gây một số bệnh nguy hiểm cho người hút và cả những người xung quanh. Vì vậy con người nên từ bỏ thuốc lá càng sớm càng tốt.

Thuốc là không chỉ gây hại cho người hút mà còn gây hại cho những người xung quanh. Ước tính mỗi năm có 5 triệu người chết vì thuốc lá. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và đã tìm thấy trong khói thuốc lá có hơn 4000 hóa chất trong đó có hơn 200 loại có hại cho sức khoẻ, bao gồm chất gây nghiện, các chất gây độc, trong đó có 43 chất được biết là nguyên nhân gây ung thư, đặc biệt là ung thư phổi. Hút thuốc không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn ảnh hưởng đến sự duy trì giống nòi.

Ngoài ra hút thuốc lá còn có nguy cơ dẫn đến nhiều bệnh ung thư khác như ung tư miệng, đại tràng, vòm họng, thực quản, gan, thận…Các nhà khoa học đã khảo sát và tìm ra đc rằng tuổi thọ trung bình của người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút thuốc từ 05 đến 08 năm, tức là khi hút 1 điếu thuốc tự ta đã làm mất đi 5,5 phút cuộc sống. Thế thì có phải chỉ có người hút mới chịu những tác hại xấu do thuốc lá ?

Những người không hút thuốc nhưng hít phải khói thuốc có nguy cơ bị mắc các bệnh kinh niên và cấp tính về họng, tai và trí tuệ cũng như sức khoẻ thể chất bị ảnh hưởng. Phụ nữ hút thuốc khi mang thai có nguy cơ bị sẩy thai cao hơn, sinh con nhẹ cân, hoặc con bị ốm, tử vong. Trẻ sơ sinh của những người cha hút thuốc trong những tháng trước và trong thời gian mang thai của người mẹ có nguy cơ gấp đôi bị hở hàm ếch, bạch cầu và chịu mức rủi ro bị ung thư não cao hơn tới 40% so với những trẻ có cha không bao giờ hút thuốc. Đó là những ảnh hưởng không nhỏ tí nào.

Theo ước tính, mỗi năm người Việt Nam chi 8. 200 tỷ đồng để hút thuốc lá. Trong khi số tiền đó đủ để mua lương thực nuôi sống 10,6 triệu người. Chi tiêu cho thuốc lá ở nước ta cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo và gần gấp đôi mức chi cho khám chữa bệnh. Mặt khác, bệnh tật mà thuốc lá đem lại đã tăng thêm gánh nặng kinh tế cho mỗi gia đình và làm mất đi lực lượng lao động. Vì thuốc lá, những người nghèo ngày càng trở nên kiệt quệ. Trong thực tế, đối với nhiều gia đình thì chi phí cho hậu quả của việc hút gây ra còn tốn kém hơn nhiều so với chi phí để mua thuốc. Khi một thanh niên trong gia đình bị ốm do thuốc lá thì gia đình này phải chịu những chi phí điều trị chăm sóc, tốn kém thời gian. Thế là từ chuyện hút thuốc nảy sinh ra nhiều vấn đề khác.

Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã giảm tỉ lệ người hút thuốc lá một cách nhanh chóng như Hoa Kỳ và Canada. Ở nhiều nước phương Tây, giờ đây việc hút thuốc lá ở những nơi công cộng như nhà hàng, bệnh viện và trường học là phạm pháp. Vì thuốc lá đang bị tẩy chay tại những nước này, các công ty thuốc lá đã để mắt tới những nước đang phát triển, sự hiểu biết của người dân còn có hạn nhằm mục đích phát triển thị trường của mình.

Từ bỏ hút thuốc không có gì là khó, chỉ cần chúng ta quyết tâm là sẽ làm được. Và quan trọng nhất, ta phải quyết tâm cai thuốc: trước khi cai thuốc, ta phải quyết định thật sự mình muốn gì chứ không phải chỉ gia đình, bạn bè của mình muốn gì. Hãy lên kế hoạch cho tương lai, đưa ra các mục tiêu cho mình và lập kế hoạch để thực hiện và hãy tập trung vào các mục tiêu đó hút thuốc có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện mục tiêu. Một trong những cách hữu hiệu nhất là nhai kẹo cao su mỗi khi muốn hút thuốc. Tập dần thói quen này dần sẽ thay thế hẳn luôn việc nghiện thuốc lá. Và sau khi ta đã bỏ được, đôi khi những cơn “ghiền” vẫn quay lại. Hãy sẵn sàng để đối phó nếu tình huống đó xảy ra. Cai thuốc không phải là việc dễ dàng nhưng nhiều người vẫn làm được.

Hút thuốc lá ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe của cá nhân và của cộng đồng. Vì vậy mọi người hãy từ bỏ thuốc lá để bảo vệ bản thân và những người xung quanh trong gia đình, giảm gánh nặng cho xã hội và góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Bài làm mẫu 6

Vấn đề phổ biến và đang được mọi người quan tâm nhất hiện nay đó là tác hại của thuốc lá đối với đời sống của con người.

Như chúng ta đã biết, việc hút thuốc lá đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày trên thế giới. Họ hút thuốc lá ở mọi lúc mọi nơi, không phân biệt chỗ nào. Mỗi người đàn ông họ luôn cho rằng hút thuốc lá là thể hiện mình là một người có đẳng cấp. Một gói thuốc khoảng từ 10 đến 20 ngàn đồng, họ tiếc với những thứ khác còn với thuốc lá thì không.

Việc hút thuốc lá đã được khoa học chứng minh, thuốc lá với 4000 chất độc hại trong đó có chất nicotin một trong những chất độc hại nhất là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư phổi.Thuốc lá là một trong những chất gây nghiện, hút lần một sẽ có lần hai, lần ba, từ đó tạo thành thói nghiện và không bỏ được.

Nhiều bạn trẻ bây giờ rất thích đua đòi, ham chơi, sa vào các tệ nạn xã hội trong đó có tệ nạn hút thuốc lá. Tình trạng hút thuốc lá diễn ra khắp mọi nơi, kể cả trường học. Học sinh hiện nay chỉ mới học lớp 6, lớp 7 là tập tành hút thuốc, cứ đến giờ ra chơi thì lại rủ nhau vô phòng vệ sinh để hút. Đến lớp sớm rồi rủ nhau cùng hút, các bạn ấy cứ nghĩ như vậy mới là đàn ông thực thụ, thích thể hiện trước mọi người nhưng lại không bao giờ nghĩ đến tác hại mà thuốc sẽ gây ra cho mình ghê gớm như thế nào.

Hằng năm, có đến hàng triệu người chết do thuốc lá gây ra. Hút thuốc gây ra các bệnh như ung thư phổi, bệnh lao,… nó có sức tàn phá đến cơ thể của con người rất ghê gớm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng hút thuốc ngày càng tăng cao là do chính bản thân con người không ý thức được, phần lớn do thiếu sự quan tâm của gia đình nên khiến các bạn trẻ bây giờ sa vào tệ nạn thuốc lá.

Khi đã nghiện thuốc thì sẽ tìm đủ mọi cách để có thuốc hút. Ăn trộm, ăn cắp để có được tiền thỏa mãn được cơn thèm khát. Thậm chí còn giết cả cha cả mẹ người thân trong gia đình để chiếm đoạt tài sản. Điều này thật kinh khủng có đúng không? Trên các trang mạng hiện nay đăng rất nhiều tin về việc con trẻ giết bà, giết mẹ để lấy tiền đi hút thuốc.

Trên mỗi vỏ bao thuốc lá đều có dòng chữ “Thuốc lá có hại cho sức khỏe” vậy mà bất chấp điều cảnh báo ấy, người ta vẫn hút thuốc. Hút đến vàng răng,vàng cả ngón tay cầm thuốc,hơi thở hôi đến khó chịu với những người xung quanh. Hút thuốc không chỉ có hại cho người hút mà nó còn ảnh hưởng đến những người xung quanh, khói thuốc lan trong không khí khiến họ cũng phải chịu ảnh hưởng nặng nề.

Thuốc lá có hại như vậy. Làm thế nào để ngăn chặn việc hút thuốc lá? Có lẽ cần tuyên truyền nhiều hơn về tác hại của nó trên các phương tiện thông tin đại chúng. Coi việc hút thuốc lá là hành vi không đẹp bởi nó là biểu hiện của nghiện ngập và của những con người dễ bị chi phối. Và yếu tố quan trọng nhất là tự bản thân phải ý thức cao, chủ động không tiếp cận với thuốc lá để giữ gìn, bảo vệ sức khỏe của chính mình và những người thân trong gia đình mình.

Xã hội ngày càng phát triển khiến con người không mấy bận tâm về tình trạng hút thuốc lá này. Thuốc lá có hại đến như vậy. Vậy chúng cần làm gì để ngăn chặn tình trạng này? Có lẽ ta nên tuyên truyền tác hại của việc hút thuốc này trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là ý thức của chính bản thân mỗi chúng ta. Hãy cùng nhau “Nói không với thuốc lá” nào!

Thuyết minh tác hại của thuốc lá đầy đủ

Bài làm mẫu 1

Trong cuộc sống ta thường thấy có những người hút thuốc lá. Một thời, thuốc lá có mặt trong đời sống con người Việt Nam như một phần tất yếu. Thuốc lá trong công sở, trong gia đình, ngoài đường phố. Thuốc lá trong các bữa tiệc mừng, trong đám cưới, đám tang… Thế nhưng thuốc lá lại vô cùng nguy hiểm với sức khỏe con người. Điều này không phải ai cũng hiểu hết. Thậm chí hiểu rồi vẫn không có những động thái tích cực để loại bỏ nó ra khỏi cuộc sống.

Thuốc lá là tên gọi của một loại sản phẩm được làm chủ yếu từ nguyên liệu lá thuốc lá đã thái sợi, được cuốn hay nhồi định hình băng giấy, có dạng hình tròn. Thuốc lá điếu thường được đốt cháy ở một đầu, để cháy âm ỉ nhằm mục đích tạo khói và khói này theo dòng khí vào miệng người hút từ đầu đổi diện.

Thuật ngữ thuốc lá thường được dùng theo nghĩa chung liên quan đến thuốc lá trong khi thuốc lá điếu nhằm chỉ cụ thể loại sản phẩm thuốc lá sợi đã cuốn thành điếu. Các loại thuốc lá thường dùng là: thuốc lá có đầu lọc, thuốc lá không đầu lọc, thuốc lào, xì gà…

Trong thực tế có rất nhiều người hút thuốc lá. Vậy vì sao họ hút? Có rất nhiều lí do để giải thích cho một thói quen nào đó, đặc biệt là thói quen (nghiện) hút thuốc lá. Nhiều người cho rằng hút thuốc tạo cảm giác: thư giãn, khoan khoái, tập trung được cho công việc, để vơi đi, quên đi nỗi buồn. Có người hút thuốc lá là do bắt chước người khác, vì người khác rủ rê. Các bạn trẻ mới lớn thì cho rằng hút thuốc lá trông có vẻ: người lớn, nam nhi, sành điệu…

Dù vì bất cứ lí do gì thì việc hút thuốc lá là việc làm hết sức tai hại. Thuốc lá gây nghiện không kém gì cocain hay heroin. Nghiện thuốc lá rất nguy hiểm và sẽ thật khó bỏ thuốc nếu không đánh giá đúng mức sự “xảo quyệt” của nó. Người ta vô tư hút vì thói quen, vì đã nghiện dù biết hay chưa biết về tác hại của thuốc lá.

Trong khói thuốc lá có tới hơn 400 chất hoá học, phần lớn là chất độc hại, trong đó 43 chất được biết là tác nhân gây ung thư. Khi hút thuốc, tất cả các chất này sẽ đi vào cơ thể, gây ra nhiều căn bệnh nguy hiểm. Nicotin là một chất gây nghiện và rất độc trong thuốc lá. Một giọt nicotin có thể làm chết một con thỏ, bảy giọt làm chết một con ngựa. Khi bắt đầu hút thuốc lá là làm cho cơ thể dần dần phải phụ thuộc vào nicotin.

Nicotin gây cảm giác thím đối với người sử dụng giống như thuốc phiện và heroin làm người nghiện rất khó bỏ thuốc lá. Các chứng bệnh do thuốc lá gây ra gồm: Bệnh đường tiêu hóa: viêm dạ dày tá tràng, loét dạ dày tá tràng. Bệnh lí về tai – mũi – họng. Bệnh hô hấp: viêm phế quản, viêm thanh quản, viêm lợi răng. Những rối loạn về da: xuất hiện sớm các vết nhăn trên mặt, nicotine làm da của các ngón tay cầm điếu thuốc trở nên màu vàng nâu.

Là một trong những nước có tỉ lệ nam giới hút thuốc lá cao nhất thế giới, Việt Nam có số ca tử vong hàng năm vì các bệnh liên quan đến thuốc lá khoảng 40. 000 người, cao gần gấp 4 lần số tử vong vì tai nạn giao thông. Ông Giám đốc Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Trung ương, cho biết, một nửa số người thường xuyên hút thuốc sẽ chết sớm do các bệnh liên quan đến thuốc lá; họ phải chấp nhận mất đi 12-25 năm tuổi thọ.

Thuốc lá phải chịu trách nhiệm trong 87% tổng số ca ung thư phổi. Nó cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, ung thư lên 10-15 lần. Thuốc lá cũng gây suy thoái giống nòi do làm giảm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ. Với hơn 400 chất độc, nó làm giảm số lượng và chất lượng tinh trùng, tăng bạch cầu trong tinh dịch, giảm khả năng phóng tinh. Tỉ lệ mắc bệnh liệt dương tăng gấp đôi ở những người hút thuốc.

Đối với phụ nữ, thuốc lá gây mãn kinh sớm, giảm khả năng mang thai, tăng nguy cơ sẩy, sinh con thiếu tháng, nhẹ cân, thai chết lưu. Người hút thuốc không chỉ gây bệnh tật cho mình mà còn làm hại người khác, nhất là người thân, vì việc hút thuốc lá thụ động cũng đem lại hậu quả nghiêm trọng không kém so với hút chủ động. Khói thuốc đặc biệt có hại cho trẻ em.

Nó làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới như viêm phế quản, viêm phổi, làm bệnh hen trở nên nặng nề hơn. Nếu mỗi ngày bạn ở trong phòng với người hút thuốc lá một giờ, nguy cơ mắc ung thư phổi của bạn sẽ cao gấp 100 lần so với những người sống 20 năm trong một tòa nhà chứa thạch tín (asen).

Mỗi năm, thế giới có 5 triệu người chết vì thuốc lá, nhiều hơn số tử vong do tai nạn, bị lao và AIDS cộng 1 lại. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, sau 25 năm nữa, con số này sẽ là 10 triệu ca; 2/3 trong số đó thuộc các nước đang phát triển.

Ở Việt Nam, do tỉ lệ người hút thuốc rất cao (56% nam giới) nên số người bị phơi nhiễm khói thuốc cũng rất lớn. Trên 50% số người không hút phải tiếp xúc với khói thuốc ít nhất 30 phút/ngày. Theo khảo sát ở 5 tỉnh đại diện cho 5 vùng kinh tế, cứ 10 học sinh thì có 6 em bị phải nhiễm khói thuốc tại nhà.

Bệnh tật sẽ trầm trọng hơn ở những người làm trong ngành công nghiệp thuốc lá. Phần lớn trong số họ bị bệnh xanh thuốc lá do chất nicotin thấm dần qua da sau những ngày tiếp xúc với lá thuốc. Các triệu chứng thường thấy gồm buồn nôn, nôn oẹ, ốm yếu, nhức đầu chóng mặt, thậm chí co thắt vùng bụng, khó thở, rối loạn huyết áp và nhịp tim.

Không chỉ gây bệnh, thuốc lá còn gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho xã hội. Món hàng độc hại này còn là thủ phạm khiến 1,3 triệu người Việt Nam rơi xuống mức đói nghèo. Với kinh tế gia đình: người hút thuốc lá sẽ tiêu phí một khoản tiền khá lớn để mua thuốc lá, làm ảnh hưởng đến thu nhập của gia đình, đặc biệt ở những gia đình kinh tế khó khăn.

Hút thuốc lá chắc chắn sẽ gây ra những bệnh tật nguy hiểm như đã trình bày phần trên, chi phí để chăm sóc y tế cho chính bản thân người hút và người bị hút thuốc lá thụ động trong gia đình là rất lớn, có gia đình không thể chịu đựng nổi (chưa nói đến những bệnh nan y như ung thư, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính…).

Với kinh tế quốc gia: đất canh tác dùng cho sản xuất các loại cây lương thực bị thu hẹp, nhường chỗ để trồng cây thuốc lá vì có lợi nhuận cao hơn. Một lượng giấy khổng lồ phục vụ cho việc vận các điếu thuốc lá, và các loại bao bì. Rác thải do hút thuốc còn ảnh hưởng xấu đến môi trường sống. Chi phí chăm sóc y tế cho những người hút thuốc lá và việc giảm ngày công lao động của họ là những tổn thải thất rất lớn cho một quốc gia có nhiều người nghiện thuốc lá.

Ngoài ra thuốc lá còn có nguy cơ gây ra những vụ hỏa hoạn dữ dội và những vụ cháy rừng tàn phá lãi nguyên quốc gia! Mỗi năm, một người có hút thuốc ở Việt Nam chi sản 700.000 đồng cho thuốc lá. Với 12 triệu người hút, một năm chúng ta tốn hơn 8.200 tỉ đồng cho mặt hàng này. số tiền đó đủ để mua lương thực nuôi sống 10,6 triệu người, số tiền mà những người hút thuốc lá tại Việt Nam dùng để mua thuốc hàng năm có thể mua được 1,5 triệu tấn gạo.

Cũng như xu hướng chung của thế giới, số người hút thuốc tại Việt Nam tập trung nhiều nhất ở nhóm thu nhập thấp. Tiền chi cho thuốc lá chiếm một phần không nhỏ trong ngân quỹ vốn đã eo hẹp của họ và ảnh hưởng đến các chi tiêu về quần áo, giáo dục, y tế.

Một khảo sát gần đây cho thấy, chi tiêu cho thuốc lá ở nước ta cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo và gần gấp đôi mức chi cho khám chữa bệnh. Mặt khác, bệnh tật mà thuốc lá đem lại đã tăng thêm gánh nặng kinh tế cho mỗi gia đình và làm mất đi lực lượng lao động. Vì thuốc lá, những người nghèo ngày càng trở nên kiệt quệ.

Vậy chúng ta đã và đang làm gì để loại bỏ thuốc lá khỏi cuộc sống đặc biệt là các bạn trẻ? Cả thế giới đã vào cuộc để loại bỏ thuốc lá. Ngày thế giới không thuốc lá được chọn vào ngày 31-5 hàng năm. Gần đây Tổ chức Y tế Thế giới đã công bố báo cáo “Thuốc lá và quyền trẻ em”. Báo cáo này đưa ra những quyền của trẻ em không bị đe dọa bởi thuốc lá, phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em.

Việt Nam hưởng ứng bằng Tuần lễ Quốc gia không thuốc lá. Từ năm 2007, chính phủ đã quy định in những khuyến cáo về tác hại của thuốc lá trên vỏ bao. Tuy nhiên dòng chữ khiêm tốn “Hút thuốc lá có thể gây ung thư” chưa làm người nghiện thuốc lá lo ngại. Cũng từ ngày 1/1/2010, tại Việt Nam quyết định cấm hút thuốc lá nơi công cộng sẽ có hiệu lực, theo Công văn số 1315 của Thủ tướng Chính phủ.

Những địa điểm cấm nhả khói bao gồm trường, lớp học, thư viện, cơ sở y tế, nhà hát, nhà văn hóa, khu vực sản xuất, nơi làm việc trong nhà, nơi có nguy cơ cháy nổ cao, trên các phương tiện giao thông công cộng. Còn cá nhân mỗi người, đặc biệt là các bạn trẻ phải luôn nhớ không thử thuốc lá dù chỉ một lần, trong mọi trường hợp phải nói không với thuốc lá. Người đã nghiện dù cai thuốc rất khó khăn nhưng nếu có quyết tâm và nghị lực vẫn bỏ được thuốc lá.

Cái vòng luẩn quẩn nghèo đói – thiếu hiểu biết – hút thuốc – bệnh tật, nghèo đói… sẽ không bao giờ kết thúc nếu thuốc lá chưa được loại trừ ra khỏi cuộc sống người dân. Với việc tham gia Công ước khung về kiêm soát thuốc lá, Việt Nam đang cố gắng tiến dần tới mục tiêu này. Còn chúng ta cũng cùng chung tay vì một thế giới không khói thuốc. Có như thế mới mong loại bỏ được thuốc lá ra khỏi cuộc sống.

Bài làm mẫu 2

Hiện nay, trên toàn bộ bao bì của thuốc lá đều có in cảnh báo “Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe” hoặc “Hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi”. Vậy hút thuốc lá có thực sự ảnh hưởng tới sức khỏe con người chúng ta, và nếu như ảnh hưởng sẽ ảnh hưởng như thế nào, liệu việc hút thuốc lá sẽ chỉ gây tác hại đối với người hút hay còn cả mọi người xung quanh? Đó là những điều chúng ta cần làm rõ để cho mọi người trong xã hội nhìn nhận thấu đáo tác hại nghiêm trọng của tội phạm “thuốc lá” đối với đời sống cũng như sức khỏe cộng đồng.

Trước tiên, nói về thuốc lá, đây là một sản phẩm được chế biến từ lá cây thuốc lá, thái sợi, phơi khô, sấy và cuộn thành từng điếu. Điếu thuốc lá được cấu tạo đốt cháy một đầu tạo ra khói còn một đầu có đầu lọc để người hút hít khói đó vào cơ thể. Ngày nay, các loại thuốc lá ngày càng đa dạng và phong phú với nhiều loại khác nhau, sự phát triển của ngành sản xuất và tiêu thụ thuốc lá chính nhờ lượng lớn người sử dụng thuốc lá trên thế giới.

Theo số liệu thống kê trên toàn thế giới, tính đến tháng 3 năm 2018, ngành công nghiệp thuốc lá đã sản xuất hàng năm khoảng 5,5 nghìn tỷ điếu thuốc lá và khoảng 1,1 tỉ người đã tiêu thụ số lượng thuốc lá đó. Đó là những con số rất đáng lo ngại, nó cho thấy rằng lượng người sử dụng loại thuốc có hại này là không hề nhỏ với lượng không hề ít, trung bình 1 người hút hết 5000 điếu thuốc lá trong một năm.

Việc sử dụng thuốc lá đã dẫn đến cái chết mỗi năm hơn 7 triệu người và kéo theo 900.000 người chết do thụ động hít phải khói thuốc. Đối với Việt Nam ta, những con số về thuốc lá cũng rất đáng báo động, nước ta là 1 trong 15 nước có tỉ lệ hút thuốc lá cao nhất thế giới, trung bình mỗi năm có khoảng 40.000 người đã tử vong vì các bệnh có liên quan đến thuốc lá, với tình trạng này đến năm 2030 con số này có thể lên đến 70.000.

Số lượng người hút khoảng 15 triệu người nhưng số người bị ảnh hưởng khói thuốc lại gấp đôi lên đến 33 triệu người. Liệu trong thuốc lá có gì “bổ béo” mà lại hấp dẫn nhiều người sử dụng đến vậy? Thực tế trong thuốc lá không hề có chất gì có ích đối với cơ thể con người, ngược lại còn rất có hại cho sức khỏe.

Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp khói thuốc lá vào nhóm các chất gây ung thư loại 1, chúng hoàn toàn có hại cho người hút và người hít phải dù chỉ một lượng nhỏ. Trong khói thuốc chứa hơn 7000 chất hóa học mà trong đó có hơn 60 chất gây ung thư, đặc biệt phải kể đến một số chất như nicotin, monoxit cacbon, hắc ín, cacbon, asen, benzen,… tác động trực tiếp đến mạch máu, hệ thần kinh và nội tiết.

Đối với người trực tiếp hút thuốc lá, ở mức độ nhẹ sẽ là viêm họng, viêm thanh quản, viêm phổi, nặng thì khó có thể tránh khỏi dẫn đến ung thư vòm họng, ung thư thực quản, ung thư thanh quản, ung thư phổi, ung thư thận,… đặc biệt thuốc lá là nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh tắc nghẽn phổi mãn tính. Ngoài ra việc hút thuốc còn ảnh hưởng đến sức khỏe sinh lí ở cả nam và nữ, nó gây giảm khả năng sinh dục và tăng nguy cơ vô sinh.

Ở lứa tuổi vị thành niên và trẻ nhỏ, khi học đòi và bắt chước người lớn hút thuốc, sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, ngoài ra còn dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội khác (trộm cắp, lừa gạt). Bởi việc hút thuốc cũng tiêu tốn một số tiền không nhỏ, hàng ngày người hút thuốc vẫn phải bỏ tiền ra để mua những chất độc hại vào người, khi trẻ em chưa tự kiếm ra tiền chúng sẽ nảy sinh ý định trộm tiền, của cải để có tiền hút thuốc.

Tác hại của thuốc lá không chỉ dừng lại ở những người chủ động hút mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới những người thụ động khác. Họ là những người thường xuyên hít phải khói thuốc lá ở nơi công cộng, nơi làm việc hay chính trong ngôi nhà của mình. Đa số những đối tượng này lại rất nhạy cảm với tác hại thuốc lá, trẻ em và phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ có thai.

Phụ nữ có thai khi hít phải khói thuốc sẽ dẫn đến sảy thai, thai nhi bị dị tật, sinh non, thiếu cân hoặc thậm chí là chết lưu. Với trẻ em, cơ thể chúng còn quá non nớt và mỏng manh, khói thuốc sẽ tăng cao khả năng mắc các bệnh về đường hô hấp, hen suyễn, suy giảm trí tuệ. Những người hút thuốc lá thụ động nói chung sẽ có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn những người không hít phải khói thuốc.

Có thể nói, việc sử dụng thuốc lá gây thiệt hại kinh tế rất lớn, vừa tốn tiền mua thuốc hút lại tốn tiền chữa các bệnh do thuốc lá gây nên, không chỉ tiêu tốn của cá nhân người hút chủ động mà còn cả những người hút thụ động, gây ra chi phí khổng lồ cho y tế và tổn thất lực lượng lao động xã hội, nói rộng hơn, thuốc lá chính là một gánh nặng của xã hội.

Tác hại của thuốc lá là rất rõ ràng và nghiêm trọng, đối với cả sức khỏe, kinh tế và xã hội của chúng ta dù không trực tiếp cũng gián tiếp. Chúng ta phải quyết tâm nói không với thuốc lá, trước hết là vì sức khỏe của chính chúng ta, gia đình chúng ta và sau đó là bảo vệ một môi trường lành mạnh không khói thuốc cho những người xung quanh. Mỗi cá nhân phải tự ý thức được trách nhiệm của mình trong việc ngăn chặn khói thuốc, hãy cùng chung tay bảo vệ bầu không khí trong sạch, lành mạnh, một xã hội văn minh và nền kinh tế phát triển của đất nước.

Bài làm mẫu 3

Ba vấn nạn nguy hiểm nhất đối với con người chính là: ma túy, rượu bia và không thể không kể đến thuốc lá. Ngày nay thuốc lá ngày càng được sử dụng phổ biến, nó gây những tác hại hết sức nguy hại đến người sử dụng và những người xung quanh.

Thuốc lá là loại sản phẩm dùng lá của cây thuốc lá đã được thái thành từng sợi nhỏ, phơi khô và cuốn vào giấy, phía đầu có sử dụng đầu lọc, dùng để hút. Thuốc lá thường được nam giới sử dụng nhiều hơn là nữ giới, nhưng tỉ lệ này ngày càng có xu hướng cân bằng với nhau, điều đó cho thấy tỉ lệ người hút thuốc là ngày một tăng cao.

Tác hại của thuốc lá ai ai cũng biết rõ, và ngay cả trên bao bì sản phẩm cũng luôn đề rõ chữ : Thuốc lá có hại cho sức khỏe, vậy mà vẫn nhiều người lao vào hút bất chấp cảnh báo và những tác hại thuốc lá gây ra cho cơ thể. Trong khói thuốc lá có chứa hơn 4000 loại hóa chất khác nhau, trong đó có hơn 200 loại gây hại cho sức khỏe người dùng như: nicotin, monoxit, cacbon, hắc in, benzen, asen,…

Hút thuốc lá gia tăng nguy cơ mắc ung thư phổi. Theo số liệu thống kê, trong vòng sáu mươi năm qua, lượng người mắc ung thư phổi tăng lên nhanh chóng, điều này cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết với sự gia tăng lượng người hút thuốc. Hút thuốc là là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư phổi.

Những người hút thuốc lá có nguy cơ mắc ung thư phổi cao hơn gấp 10 lần so với những người không hút thuốc. Những người không hút thuốc kết hôn với người hút thuốc tỉ lệ chết về ung thư phổi tăng 20% so với những người không kết hôn với người hút thuốc.

Ngoài ra hút thuốc còn gây ra những bệnh ung thư khác ở như ung thư thực quản, thanh quản, ung thư miệng, vùng mũi, ung thư thận, bàng quang,… Chỉ một điếu thuốc nhỏ bé nhưng dẫn con người đến cửa nghĩa địa nhanh hơn bất cứ căn bệnh nào. Theo như thống kê của Sở Y tế Hà Nội, mỗi năm có đến hơn 40.000 ca tử vong do những bệnh liên quan đến sử dụng thuốc lá, số người chết này gấp ba lần so với người bị tai nạn giao thông. Số liệu trên đã cho thấy sức mạnh tàn phá khủng khiếp đến mức nào của thuốc lá đến sức khỏe con người.

Hút thuốc nhiều còn gây ra những căn bệnh về tim mạch, mỗi ngày sử dụng một vài điếu thuốc đã khiến tỉ lệ mắc tim mạch tăng cao hơn so với những người khác. Những người hút thuốc lá có nồng độ các sản phẩm oxy hóa cao hơn bình thường, chúng làm giảm nồng độ cholesterol HDL – một yếu tố bảo vệ tim của cơ thể. Lâu dần sẽ dẫn đến tổn thương nội mạch, làm giảm lượng oxi trong máu, khiến cơ tim tăng nhanh, đồng thời còn tăng nguy cơ co thắt mạch vành. Đây là những chứng bệnh hết sức nguy hiểm, có thể ảnh hưởng đến tính mạng của người dùng bất cứ lúc nào.

Đối với phụ nữ mang thai, khi hút thuốc sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi. Những phụ nữ hút nhiều thuốc lá, hoặc hút thuốc thụ động (hít phải khói thuốc ở xung quanh) dẫn đến nguy cơ thai nhi chết lưu, hoặc thai nhi chậm phát triển. Tỉ lệ sinh thành công thấp và con thường nhỏ, còi hơn so với những bé khác.

Không chỉ vậy, thuốc lá còn tăng tỉ lệ dị tật bẩm sinh cho thai nhi, thai phụ hút mỗi ngày trên một bao sẽ khiến con bị dị tật bẩm sinh cao gấp 2,3 lần so với những người không hút thuốc. Nguy hại hơn, khói thuốc lá còn làm ảnh hưởng đến trí tuệ của thế hệ sau. Những đứa trẻ được sinh ra khi có cha, mẹ sử dụng nhiều thuốc lá thường có biểu hiện khó khăn trong nhận thức, rối loạn hành vi, khả năng tập trung và học tập kém. Như vậy thuốc lá không chỉ ảnh hưởng đến người dùng mà còn ảnh hưởng xấu đến mầm non tương lai của đất nước.

Không chỉ gây ra các căn bệnh nghiêm trọng, hút thuốc lá còn làm sụt giảm tài chính cá nhân. Nếu mỗi ngày hút một bao thuốc lá trị giá 15.000 đồng thì mỗi năm chúng ta có thể tiết kiệm hơn 10.000.000 triệu đồng, một số tiền không hề nhỏ. Và nếu tính trong cả cuộc đời bạn thì con số ấy lớn đến mức nào. Như vậy, thuốc lá đã tiêu tốn một số tiền lớn của người hút mà họ không hề hay biết.

Không chỉ ảnh hưởng đến người hút, mà thuốc lá còn ảnh hưởng đến cả những người không sử dụng thuốc lá – những người hút thụ động (ngửi khói thuốc lá từ xung quanh). Mặc dù không trực tiếp hút nhưng những người hít phải khói thuốc là cũng có nguy cơ mắc các chứng bệnh của người hút thuốc trực tiếp như: viêm phế quản, ung thư phổi, nhồi máu cơ tim, rối loạn thai nghén, con bị dị tật,… Đối với trẻ em khi hít khói thuốc lá trong một thời gian dài có thể dẫn đến hội chứng đột tử, triệu chứng hen, viêm đường hô hấp cấp,…

Thuốc lá có tác động, tác hại rất lớn đối với cơ thể con người. Vậy mỗi cá nhân cần phải tìm ra những phương pháp để từ bỏ, cai nghiện thuốc lá. Đối với những người đang hút cần phải có ý chí, quyết tâm bỏ. Mỗi ngày một chút, chắc chắn bạn sẽ bỏ được. Hoặc có thể sử dụng các loại thuốc hỗ trợ để cải thiện, làm cho quá trình cai thuốc lá trở nên dễ chịu hơn. Bản thân mỗi người cần hiểu rõ tác hại mà thuốc lá gây ra với cơ thể con người và tránh xa vấn nạn nguy hiểm này.

Hút thuốc lá chưa bao giờ là có lợi cho cơ thể, nó không chỉ gây một loạt các căn bệnh nguy hiểm dẫn đến tử vong, ảnh hưởng tới tài chính mà còn gây tác hại đối với những người xung quanh. Bởi vậy chúng ta cần phải chung tay để đẩy lùi tệ nạn hút thuốc lá, bảo vệ sức khỏe bản thân và sức khỏe thế hệ tương lai.

Bài làm mẫu 4

Bạn có biết Việt Nam của chúng ta thuộc top 15 nước có số người hút thuốc lá nhiều nhất trên thế giới? Bạn có biết ở nước ta mỗi ngày có khoảng 15 triệu người hút thuốc lá và con số này ngày càng gia tăng và có xu hướng trẻ hóa? Bạn có biết ở nước ta gần 50% nam giới hút thuốc lá, trong đó chủ yếu có độ tuổi từ 25 đến 45?

Bạn có biết ở nước ta mỗi giờ có khoảng 5 ca tử vong và mỗi năm có khoảng 40.000 người chết vì các bệnh liên quan vì tác hại của thuốc lá?… Những con số trên là hậu quả đáng báo động của vấn nạn hút thuốc lá đang diễn ra hằng ngày. Bởi vậy, thuốc lá chính là chất độc hại được xếp vào bậc nhất đang tồn tại trong môi trường sống của chúng ta hiện nay.

Vậy trong thuốc lá có gì mà lại gây nguy hại đến vậy? Ước tính trong một điếu thuốc lá có khoảng 7000 chất độc, thì có đến 60 chất gây ung thư. Trong đó, đáng sợ nhất là chất nicotin, một loại chất lỏng có mùi, vị đắng, dễ xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng, hô hấp, thậm chí cả qua da. Bên cạnh đó, trong khói thuốc lá có rất nhiều chất kích thích các khối u, người hút không bị ảnh hưởng ngay mà lâu dần sẽ ngấm vào cơ thể.

Với những thành phần như vậy, thuốc lá chính là bản án tử thần của cuộc sống con người. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 5 triệu người chết vì thuốc lá, cao hơn số tử vong do tai nạn, mắc bệnh lao và AIDS cộng lại. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, chỉ cần 30 năm nữa, con số ấy sẽ tăng lên là 10 triệu ca.

Người hút thuốc lá cũng có trung bình tuổi thọ thấp hơn người không hút là từ 5 đến 8 năm. Như vậy cứ hút một điếu thuốc là ta đã tự đánh mất đi 5,5 phút của cuộc sống. Hậu quả cuối cùng là vậy nhưng điều đáng nói là nó không đến ngay, nên những người hút thuốc lá hay nạn nhân của vấn nạn này không quá sợ hãi, đề phòng.

Vậy thuốc lá từ từ hủy hoại sức khỏe của con người như thế nào? Đầu tiên, khói thuốc được đưa vào phổi, đây là cơ quan ảnh hưởng đầu tiên. Người ta nghĩ ngay đến ung thư phổi từ thuốc lá. Nhưng đó là hậu quả nặng nề nhất mà phổi chịu tác động của thuốc lá. Còn bình thường, khói thuốc sẽ làm cho người hút dễ bị viêm phế quản, viêm phổi, nhưng đáng ngại nhất là bệnh phối nghẽn mãn tính.

Do khói thuốc sẽ làm kích thích đường thở, làm viêm nhiễm, tiết nhiều đờm, các lông rung có nhiệm vụ bài tiết chất bẩn ra khỏi phổi bị tê liệt, bị phá hủy dẫn đến viêm phổi. Nếu tình trạng viêm kéo dài dẫn đến mãn tính thì hậu quả của nó rất lớn. Đó là người bệnh chỉ cần vận động nhẹ sẽ cảm thấy khó thở, nghẹt thở, rồi lâu dần ngay cả khi không làm gì cũng bị vậy. Biến chứng của nó có thể dẫn đến suy hô hấp.

Điều này gây ra rất nhiều phiền toái. Khi đó người mắc chứng này sẽ không lao động được, không tự phục vụ được, chất lượng cuộc sống giảm sút nhiều và dẫn đến nguy cơ tử vong cao.

Nhưng đó mới chỉ là phổi, hút thuốc lá còn là nguyên nhân dẫn đến các căn bệnh khác nữa. Trong đó có những căn bệnh dễ gây tử vong hàng đầu trên thế giới, điển hình là các bệnh ung thư, tim mạch, giảm trí nhớ. Ít ai nghĩ rằng thuốc lá cũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng sinh sản.

Đàn ông hút thuốc thường xuyên có thể làm giảm 75% lượng tinh trùng, giảm khả năng thụ thai. Phụ nữ, nhất là phụ nữ có thai sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi, nguy cơ sảy thai cao hoặc trẻ được sinh ra dễ sinh non, nhẹ cân, dị tật, nặng hơn có thể bị các chứng về tim, hô hấp bẩm sinh.

Bên cạnh đó, người hút thuốc lá còn khiến cho răng vàng, miệng hôi và ngay cả mồ hôi tiết ra cũng gây mùi khó chịu. Da họ dễ xỉn, nhăn nheo hơn. Trong khi đó còn chưa kể việc hút thuốc rất dễ bị đánh giá về phẩm chất. Chẳng hạn một người có mặt ở những nơi công cộng, công sở, sử dụng thuốc lá bị coi là mất lịch sự. Trên xe bus, trong phòng họp, siêu thị, công viên, đặc biệt những nơi có nhiều trẻ em sẽ bị coi là thiếu tôn trọng người khác và kém hiểu biết.

Một tình trạng đáng báo động hiện nay là một bộ phận học sinh, nhất là nam sử dụng thuốc lá nhiều, thậm chí rất thành thục. Nếu đi ngoài đường nhìn thấy một bạn mặc áo đồng phục mà phì phèo điếu thuốc chắc chắn gây phản cảm. Hoặc nếu vào trường thì giấu giếm, chủ yếu tụ tập hút ở các nhà vệ sinh. Không chỉ làm hỏng mĩ quan trường học mà việc hút thuốc đó càng gia tăng thêm tác hại của nó.

Tuy nhiên điều đáng nói, hút thuốc lá không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến người hút mà còn gây tác hại nghiêm trọng đối với hít phải khói thuốc, hay còn gọi là “hút thuốc lá thụ động”. Theo con số thống kê của Bộ Y tế năm 2015, tỉ lệ bị phơi nhiễm với khói thuốc lá ở nhà chiếm 67,6%, tại nơi làm việc là 49%. Đặc biệt là tỉ lệ phơi nhiễm với khói thuốc lá ở nhà của phụ nữ là 70%, còn với trẻ em là gần 50%.

Thuốc lá đang là một trong những tác nhân gây nguy hại đến môi trường trầm trọng. Khói thuốc có thể tồn tại trong không khí hơn hai giờ đồng hồ, ngay cả khi không nhìn thấy hoặc ngửi thấy. Người thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá phải chịu tác động bằng hút 5 điếu thuốc mỗi ngày. Các chuyên gia y tế đã từng nhiều lần cảnh báo về mức độ nguy hại đối với trẻ em khi trong nhà có người lớn hút thuốc.

Trẻ sống trong môi trường này tăng nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp, viêm tai giữa, làm suy yếu chức năng của phổi. Người lớn sống trong môi trường này cũng có nguy cơ mắc ung thư cao hơn 20 – 30%. Theo Tổ chức Y tế thế giới, hằng năm có 600.000 người tử vong do ảnh hưởng của hút thuốc lá thụ động. Và con số này sẽ tiếp tục tăng nếu không có các biện pháp can thiệp ngăn chặn sự lan tỏa của khói thuốc ra môi trường sống.

Hiện nay trên hầu hết bao bì của các vỏ hộp thuốc lá đều có ghi những tác hại của việc hút thuốc lá, như: Hút thuốc lá gây ung thư phổi, Hút thuốc lá gây ung thư vòm họng, thanh quản, Hút thuốc lá gây bệnh tim mạch, Hút thuốc lá dẫn đến cái chết từ từ và đau đớn…

Vậy câu hỏi đặt ra tại sao việc sản xuất và bán thuốc lá chưa bị cấm? Phải chăng nguồn lợi kinh tế nó đem lại vẫn rất lớn? Hãy thử nhìn nhận về lợi ích kinh tế khi hút thuốc lá qua so sánh sau đây. Chi tiêu cho việc hút thuốc lá ở nước ta, cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo, gần gấp đôi chi cho khám chữa bệnh. Thật đáng ngạc nhiên khi thuốc lá vẫn được sản xuất, vẫn được bày bán, thậm chí còn dẫn đến tình trạng buôn lậu thuốc lá hoành hành ở các cửa khẩu biên giới.

Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, hiện nay đa số người hút thuốc lá là ở các nước đang phát triển. Với những mức độ nguy hại trầm trọng về sức khỏe, kinh tế mà nó để lại trên, rõ ràng việc hút thuốc lá đang trở thành bạn đồng hành của bệnh tật và nghèo đói. Các nước đang phát triển vì thế càng khó mà vững mạnh, thuốc lá cũng là một nguyên nhân gây cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Hãy đừng để mình chết, đất nước mình “không lớn” vì thiếu hiểu biết.

Bài làm mẫu 5

Thuyết minh tác hại của thuốc lá – Mẫu 2
Thuốc lá gây hại cho con người, không chỉ với người hút thuốc mà còn ảnh hưởng đến cả những người xung quanh. Vì vậy chúng ta cần phải biết được tác hại của chúng, biết để không hút và giúp người thân của bạn từ bỏ thuốc lá.

Chúng ta có thể viết ra được không biết bao nhiêu là trang giấy để nói về tác hại thuốc lá. Mỗi năm, thế giới có 5 triệu người chết vì thuốc lá, nhiều hơn số tử vong do tai nạn, bị lao và AIDS cộng lại. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, sau 25 năm nữa, con số này sẽ là 10 triệu ca; 2/3 trong số đó thuộc các nước đang phát triển. Thuốc lá được tạo nên từ những gì mà lại gây hại đến vậy?

Trong khói thuốc lá có hơn 4000 hóa chất trong đó có hơn 200 loại có hại cho sức khỏe, bao gồm chất gây nghiện, các chất gây độc và 43 được biết là nguyên nhân gây ung thư. Hút thuốc làm tăng tỷ lệ tử vong từ 30 đến 80%, chủ yếu là do các bệnh ung thư (ung thư phổi), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, các bệnh tim gây suy thoái giống nòi do làm giảm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ. ….

Ngoài ra, hút thuốc còn làm giảm khả năng lưu thông của máu trong cơ thể, tăng nhịp tim và làm suy giảm sức khỏe của bạn, dẫn đến nhiều bệnh ung thư khác như ung từ miệng, đại tràng, vòm họng, thực quản, gan, thận…Các nhà khoa học đã khảo sát và tìm ra đc rằng tuổi thọ trung bình của người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút thuốc từ 05 đến 08 năm, tức là khi hút 1 điếu thuốc tự ta đã làm mất đi 5,5 phút cuộc sống. Thế thì có phải chỉ có người hút mới chịu những tác hại xấu do thuốc lá ?

Ngoài con đường hút thuốc trực tiếp, thuốc lá còn có thể gây hại qua việc ta hít phải khói thuốc của người khác. Trẻ em và người lớn, những người không hút thuốc nhưng sống trong khói thuốc của những người khác chịu rủi ro cao hơn hoặc bị mắc các bệnh kinh niên và cấp tính về họng, tai và trí tuệ cũng như sức khỏe thể chất bị ảnh hưởng. Phụ nữ có mang mà hút thuốc sẽ chịu rủi ro bị sảy thai cao hơn, sinh con nhẹ cân, hoặc con bị ốm, tử vong. Trẻ sơ sinh của những người cha hút thuốc trong những tháng trước và trong thời gian mang thai của người mẹ có nguy cơ gấp đôi bị hở hàm ếch, bạch cầu và chịu mức rủi ro bị ung thư não cao hơn tới 40% so với những trẻ có cha không bao giờ hút thuốc. Đó là những ảnh hưởng không nhỏ tí nào.

Không chỉ gây bệnh, thuốc lá còn gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho xã hội. Mỗi năm, một người có hút thuốc ở Việt Nam chi gần 700. 000 đồng cho thuốc lá. Với 12 triệu người hút, một năm chúng ta tốn hơn 8. 200 tỷ đồng cho mặt hàng này. Trong khi số tiền đó đủ để mua lương thực nuôi sống 10,6 triệu người. Thêm nữa, một khảo sát gần đây cho thấy, chi tiêu cho thuốc lá ở nước ta cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo và gần gấp đôi mức chi cho khám chữa bệnh.

Mặt khác, bệnh tật mà thuốc lá đem lại đã tăng thêm gánh nặng kinh tế cho mỗi gia đình và làm mất đi lực lượng lao động. Vì thuốc lá, những người nghèo ngày càng trở nên kiệt quệ. Trong thực tế, đối với nhiều gia đình thì chi phí cho hậu quả của việc hút gây ra còn tốn kém hơn nhiều so với chi phí để mua thuốc. Khi một thanh niên trong gia đình bị ốm do thuốc lá thì gia đình này phải chịu những chi phí điều trị chăm sóc, tốn kém thời gian. Thế là từ chuyện hút thuốc nảy sinh ra nhiều vấn đề khác.

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc lá mang nhãn mác phương Tây, nhiều người cứ nghĩ rằng người phương Tây hút thuốc nhiều. Thực ra không phải như vậy. Tại Hoa Kỳ và Canada, tỷ lệ người hút thuốc lá đang giảm một cách nhanh chóng. Ở nhiều nước phương Tây, giờ đây việc hút thuốc lá ở những nơi công cộng như nhà hàng, bệnh viện và trường học là phạm pháp. Vì thuốc lá đang bị tẩy chay tại những nước này, các công ty thuốc lá đã để mắt tới những nước đang phát triển như đất nước chúng ta chẳng hạn. Các công ty thuốc lá muốn chúng ta tin rằng hút thuốc là “cao sang”.

Thực ra hút thuốc là một thói quen của người nghèo. Người nghèo dễ dẫn tới hút thuốc nhất và cũng là người có ít khả năng tiền bạc để mua thuốc nhất. Số tiền mà người ta dùng để mua thuốc lá thay vì mua những đồ vật cần thiết cho cuộc sống là mối hiểm hoạ nghiêm trọng tới tài sản của mình và gia đình. Tiền tiêu tốn vào thuốc lá thay vì những thứ cần thiết cơ bản khác cho cuộc sống như thực phẩm, đồ dùng gia đình …Và còn nhiều nghịch cảnh khác ko kể ra hết được.

Đã biết được những điều trên, chúng ta – những người đã nghiện thuốc lá và những người chưa cần phải làm gì? Trước hết, đối với những người chưa hút, đừng hút thuốc và hãy động viên bạn bè mình không dùng thuốc lá! Áp lực phụ cũng có thể tích cực! Tiếp đó bạn có thể động viên họ hàng và bạn bè cai thuốc và giúp đỡ họ trong quá trình này.

Còn với những người đã nghiện hút, phải tìm được nguyên nhân vì sao mình lại hút thuốc, để từ đó tìm cách làm sao cho mình bỏ được. Và quan trọng nhất, ta phải quyết tâm cai thuốc: trước khi cai thuốc, ta phải quyết định thật sự mình muốn gì chứ không phải chỉ gia đình, bạn bè của mình muốn gì. Hãy lên kế hoạch cho tương lai, đưa ra các mục tiêu cho mình và lập kế hoạch để thực hiện và hãy tập trung vào các mục tiêu đó hút thuốc có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện mục tiêu. Một trong những cách hữu hiệu nhất là nhai kẹo cao su mỗi khi muốn hút thuốc. Tập dần thói quen này dần sẽ thay thế hẳn luôn việc nghiện thuốc lá. Và sau khi ta đã bỏ được, đôi khi những cơn “ghiền” vẫn quay lại. Hãy sẵn sàng để đối phó nếu tình huống đó xảy ra. Cai thuốc không phải là việc dễ dàng nhưng nhiều người vẫn làm được.

Nói tóm lại, thuốc lá gây ra nhiều tác hại ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe của cá nhân và của cộng đồng. Cái vòng luẩn quẩn nghèo đói – thiếu hiểu biết – hút thuốc – bệnh tật, nghèo đói… sẽ không bao giờ kết thúc nếu thuốc lá chưa được loại trừ ra khỏi cuộc sống người dân. Vì vậy, chúng ta phải quyết tâm nói “không” với thuốc lá, vì một xã hội văn minh, phát triển, vì một tương lai tươi sáng cho loài người nói chung và đất nước Việt Nam nói riêng.

]]>
https://quatangtiny.com/thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-39618 https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-39618#respond Fri, 23 Oct 2020 14:21:23 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-39618

Related posts:

  1. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận (Dàn ý + 12 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của

Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bạn học sinh tài liệu Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi được chúng tôi tổng hợp những bài văn mẫu hay nhất của các bạn học sinh lớp 10.

Hy vọng đây là tài liệu bổ ích giúp các bạn ôn tập, củng cố lại kiến thức và đạt được kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo và tải bài văn mẫu tại đây.

Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Cảnh ngày hè

1. Mở bài:

– Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi là bài số 43 trong trùm thơ bảo kính cảnh giới của Quốc âm thi tập.

– Bài thơ cho ta thấy vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và tấm lòng yêu nước thương dân của tác giả.

2. Thân bài:

– Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên là cuộc sống ngày hè:

+ Cây hòe màu xanh lục có tán lá giương cao che rợp.

+ Cây thạch lựu bên hiên nhà đang tràn trề sắc đỏ.

+ Hoa sen màu hồng đang tỏa ngát hương thơm.

→ Qua những chi tiết trên ta thấy cảnh vật tươi tắn, rực rỡ.

+ Vơi động từ : rợp, phun, tiễn ta thấy cảnh vật ngày hè sinh sôi nảy nở.

+ Cùng với từ lấy: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi đã tô thêm bức tranh ngày hè sôi động náo nhiệt.

+ Tác giả đã sử dụng đảo ngữ: lao xao chợ cá, dắng dỏi cầm ve cho ta thấy cuộc sống yên bình, hạnh phúc, ấm no.

+ Nhà tha đã cảm nhận bức tranh ngày hè bằng thị giác nhìn thấy cây hòe màu xanh lục, thạch lựu màu đỏ, hoa sen màu hồng, những chú ve, người dân làng chài

+ Ngoài ra nhà thơ đã nghe thấy âm thanh những người dân làng chài cười nói và tiếng ve râm ran trong chiều ta như tiếng đàn dội lên.

+ Nhà thơ còn ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt của hoa sen

→ Qua những hình ảnh trên, ta thấy Nguyễn Trãi là người yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống.

– Ta thấy được tác giả ung dung dạo chơi ngắm cảnh qua câu “ rồi hóng mát thuở ngày trường”.

– Tác giả luôn nghĩ về dân về nước.

– Tác giả mong ước có cay đàn của vua ngu thuấn để hát ca ngợi cuộc sống thái bình.

– Lúc nào, Nguyễn Trãi cũng khao khát mang lại cuộc sống hạnh phúc ấm no cho dân.

– Nhà thơ là người yêu nước thương dân.

3. Kết bài:

Bài làm mẫu mở bài các câu sau nhớ làm giùm tôi có vị ngữ chủ ngữ, thêm từ ngữ cũng đc ví dụ : Tác giả cho ta thấy…

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi – Mẫu 01

Nguyễn Trãi – một bậc thi ca của văn học Việt Nam, cuộc đời ông sống giao cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên và con người. Cảnh quan trường làm cho ông nghẹt thở bởi những toan tính chèn ép vậy nên ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn mình thanh tịnh. Trong thời gian ấy ông làm thơ về thiên nhiên nhưng trong những vần thơ thiên nhiên ấy lại có những tâm sự về sự lo lắng cho nhân dân đất nước. bài thơ Cảnh ngày hè là một bài thơ như thế. Trong thiên nhiên mùa hè và cảnh sống sinh hoạt của nhân dân Nguyễn Trãi vẫn thể hiện tình yêu nhân dân đất nước của mình.

Trước hết là câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, nhưng ngày về cáo quan ở ẩn:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Chúng ta thấy rõ được chữ “rồi” ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ ở quê. Nó không có sự bon chen đố kị, chèn ép của những ninh thần. Tại sao nhà thơ không nói là rỗi mà lại là “rồi”. Có thể nói chữ rỗi và chữ rồi đều nói lên cùng một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ “rồi” nghe có vị xưa cũ hơn. Bởi vì từ rỗi là sau này mới có, nó mang tính chất hiện đại hơn. Nhà thơ cáo quan về với thiên nhiên làng cảnh Việt nam và nhà thơ không những được thanh lọc về tâm hồn mà còn rảnh rỗi hóng mát suốt cả ngày. Nói như thế không phải là nhà thơ không phải làm gì để ăn mà là để chỉ cái cuộc sống thanh bình an nhàn không mệt đầu mệt óc ở nơi thôn quê hẻo lánh với những con người nông dân hiền lành chất phác lương thiên này.

Những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè vô cùng rực rỡ. Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người nữa.

Trước tiên là bức tranh thiên cảnh ngày hè nơi thôn quê. Có thể nói Nguyễn Trãi giống như một nhà họa sĩ dùng ngôn từ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ấy:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
hạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. ”

Cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát khắp đầu tường. Tiếp đó nhà thơ vẽ thêm những bông hoa thạch lựu trước hiên nhà có màu đỏ rực rỡ như ánh nắng chói chang của mùa hạ kia vậy. Nhắc đến quê hương người ta không thể nào quên được hình ảnh những bông hoa sen hồng với hương sắc tuyệt vời. Nhà thơ không nói hẳn là hoa sen mà nhà thơ dùng hai chứ “Hồng Liên” thể hiện sự trang trọng cổ kính của bông hoa sen ấy. Trong bức tranh ấy ta không chỉ thấy màu sắc mùi hương mà ta còn thấy được cả sự sinh trưởng của chúng. Cây hoa hòe “đùn đùn”, cây thạch lựu “phun”, hoa sen “tiễn” mùi hương. Mùa hạ quả đúng là mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Sức sống ấy mạnh mẽ như các động từ mạnh kia vậy. Hương thơm của hoa sen cũng như bay xa hơn thoảng vào không gian nhiều hơn qua từ “tiễn” ấy. Chữ tiễn ấy không phải là tiễn biệt chia ly mà chứ tiễn như thể hiện cái sự bay xa của hương sen trong cơn gió kia làm cho không gian làng quê ngát hương.

Bức tranh ấy còn có cả những cuộc sống sinh hoạt của con người làng quê. Thật vậy tranh thiên nhiên đã đẹp nhưng nó còn đẹp hơn khi xuất hiện hoạt động sự sống của con người:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Từ láy “lao xao” như thể hiện được hết cái vui tươi của con người lao động trong những buổi chợ. Chợ có đông thì mới có niềm vui như thế, có tiếng động như thế. Cái âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Chợ cá kia dường như có rất nhiều đồ khiến cho người dân nơi đây náo nức, mua bán Có thê nói rằng đó chỉ là cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận ở đây ta lại thấy nó đẹp đến thế. Có khi nào cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không?. Thế rồi âm thanh của những con ve gọi hè. Tiếng ve như dắng dỏi tạo nên thành một dàn đồng ca mùa hạ ngân nga ngày đêm không biết mệt.

Trước những thiên nhiên và con người nhà thơ như thể hiện những ước nguyện của mình. Nhà thơ thật thà thể hiện tấm lòng của mình:

“Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng đàn của vua Ngu thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình.

Như vậy qua đây ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, tất cả nhưng màu sắc đều thể hiện đặc trưng của mùa hè. Có thể nói chắc hẳn nhà thơ phải là một người yêu thiên nhiên nhiều lắm thì mới có thể cảm nhận được cả những bước sinh trưởng của cây côi mùa hè như thế. Đồng thời ta cũng thấy được một tâm hồn trung nghĩa với nhân dân. Mặc dù xa rời quan trường nhưng ông không lúc nao không lo cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.

……….

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-39618/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10 bài viết số 4 (Đề 1 đến đề 3) https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-bai-viet-so-4-39741 https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-bai-viet-so-4-39741#respond Fri, 23 Oct 2020 14:16:24 +0000 https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-bai-viet-so-4-39741

Related posts:

  1. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
  3. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10 bài viết số 4 (Đề 1 đến đề 3), Bài văn mẫu lớp 10 bài viết số 4 (Đề 1 đến đề 3) là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm

Bài văn mẫu lớp 10 bài viết số 4 (Đề 1 đến đề 3) gồm 3 đề bài khác nhau. Mời các bạn học sinh cùng tham khảo tuyển tập những bài tập làm văn số 4 lớp 10 dưới đây.

Những bài văn mẫu lớp 10 số 4 này sẽ hỗ trợ cho việc dạy và học hiệu quả môn Ngữ văn lớp 10 của các thầy cô giáo đồng thời giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay cho bài viết số 4 của mình. Sau đây, mời các em cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.

Bài viết số 4 Lớp 10 – Đề 1: Hãy viết một bài văn để thuyết minh về vai trò của cây cối trong việc bảo vệ môi trường sống.

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

Trong cuộc sống con người tồn tại, làm việc và giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là “rừng”.

– Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống, một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.

2. Thân bài

– Rừng là gì?

– Ảnh hưởng của rừng: Thành phần chính của rừng là cây xanh nên cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển.

– Rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm.

– Trong rừng còn có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu, … rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng, ….

– Rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.

– Lên án những người chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết “đốt nương làm rẫy” khai phá rừng một cách vô ý thức.

– Hậu quả để lại: Hạn hán, lũ lụt, sụt lở đất, … làm thiệt hại bao tiền của và tính mạng của những người dân vô tội.

– Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.

3. Kết bài

– Đảng và nhà nước ta cần phải có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng.

– Là học sinh, sinh viên chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ rừng góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống.

Bài văn mẫu – Mẫu 01

Con người sống, tồn tại, làm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là “rừng”.

Không phải dĩ nhiên mà trái đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống – một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.

Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người?

Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Hãy thử tưởng tượng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt.

Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ. Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở… ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng làm giảm 30 – 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, dèm cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa… Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh. Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người.

Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. ở mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim… đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng – thiên nhiên hoang dã.

Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,… rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng,….

Bên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.

Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ… hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào?

Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi – một điều kiện thiên nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết “đốt nương làm rẫy” khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiệm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được. Từng tự hào với cánh rừng U Minh rộng lớn, phong phú thì nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đồi trọc, những khu rừng thứ sinh. Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất… làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.

Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tàn phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh sách đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.

Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.

Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi “phủ xanh đồi trọc”.

Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bằng cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của việc khai thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng.

Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để trái đất của chúng ta mãi là “hành tinh xanh” “Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi”.

Bài văn mẫu – Mẫu 02

Xã hội ngày càng hiện đại, nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống sức khỏe của con người. Từ lâu, các nhà khoa học, các tổ chức bảo vệ môi trường đã không ngừng tìm kiếm những biện pháp tích cực để đi đến kết luận: trợ thủ đắc lực nhất giúp chúng ta bảo vệ môi trường trong sạch chính là cây xanh.

Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội,… Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố tự nhiên như vật lí, hóa học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít chịu nhiều tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi rừng biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước,… Môi trường tự nhiên cho ta không khí để ở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.

Trong môi trường sống tự nhiên đó của con người, cây xanh có vai trò cực kì quan trọng. Nó điều hòa không khí nhờ khả năng hấp thu năng lượng mặt trời, xả hơi nước mát vào không khí, hấp thu các khí độc hại trong môi trường, đồng thời nhả khí oxi vào môi trường.

Cây xanh là cái máy điều hòa tự nhiên tuyệt vời nhất: Nó hấp thu và phản xạ năng lượng mặt trời chiếu xuống đất làm giảm sức nóng của trái đất, hấp thu khí cacbonnic, gây hiệu ứng nhà kính. Cái máy điều hòa không khí nhân tạo chỉ có thể làm mát trong nhà và thải khí nóng vào môi trường. Mặt khác, chúng cần năng lượng để hoạt động nên nó càng làm cho môi trường nóng lên, chưa kể đến các khí chạy máy lạnh còn hủy hoại tầng ôzôn. Như vậy, máy lạnh chỉ là thiết bị làm mát tạm thời trong một phạm vi rất nhỏ mà thôi, trong khi cây xanh lại chính là caí máy điều hòa không khí vĩ đại của chúng ta. Những số liệu tin cậy của các nhà vệ sinh học kết luận rằng, ngồi dưới bóng cây bàng ta bớt được bốn lần cái nắng cháy da buổi trưa hè trên đường nhựa. Các tầng lá cây xanh có tác dụng cản 50% bụi đường, tính ra trong một vụ hè, một trăm cây xanh ở đường phố đã giữ lại 340 kg bụi để giũ xuống mặt đường sau mỗi trận mưa. Cây cối còn là hàng rào cách li tiếng động, hấp thụ và hắt lại những sóng âm thanh hỗn tạp để khỏi làm chấn động thần kinh. Người ta ví rất đúng: cây xanh là lá phổi của hành tinh chúng ta. Không có cây xanh thì chẳng mấy chốc muôn loài sẽ ngạt thở. Cây xanh ngăn cản và lọc khí độc trong không khí. Trong rừng thông, rừng bá thông không khí dường như vô trùng. Lượng vi trùng gây bệnh trong không khí ở nông thôn có nhiều cây xanh hay rừng ít hơn ở thành phố khoảng 10 lần. Cây xanh nhả ra các ion âm rất có lợi cho sức khỏe chúng ta qua đường hô hấp. Các ngôi nhà, đường sá, trường học được bao phủ cây xanh sẽ vô cùng có lợi cho sức khỏe con người. Tâm hồn chúng ta sẽ trở nên dịu lắng, thanh thoát, minh mẫn, sảng khoái. Ngược lại, thiếu cây xanh, không những bệnh tật dễ hoành hành , sức khỏe con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng mà tâm hồn con người cũng có nguy cơ bị chai cứng, dễ sinh các tổn thương về tinh thần. Đối với con người trên hành tinh chúng ta, cây xanh là một vị thần hòa giải tuyệt vời.

Cây xanh là nguồn nhiên liệu và năng lượng quý giá cho cuộc sống. Trồng, chăm sóc cà bảo vệ cây xanh chính là hành động thiết thực nhất nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ chính cuộc sống của chúng ta. Đó vừa là lời khuyến cáo của các nhà khoa học vừa là nguyện vọng thiết tha, chân thành của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay. Trồng một cây xanh cho mình, cho ngôi nhà của mình chẳng khó gì. Trồng một cây xanh cho hôm nay cũng là trồng một cây xanh cho thế hệ mai sau.

………….

Bài viết số 4 Lớp 10 – Đề 02: Hãy viết một bài văn để thuyết minh về tác hại của ma túy (hoặc của rượu, thuốc lá…) đối với đời sống của con người

Dàn ý chi tiết – Mẫu 1

a. Mở bài

– Giới thiệu khái quát: ma tuý là một hiểm hoạ của loài người.

b. Thân bài

– Lần lượt thuyết minh về các mặt tác hại của ma tuý đối với đời sống con người:

– Nguồn gốc phát sinh ma tuý

– Các chất được gọi là ma tuý.

– Những tác hại của ma tuý đối với cuộc sống con người:

– Ma tuý khiến người dùng nó mất khả năng làm chủ, thần kinh tê liệt…

– Ma tuý gây tổn hại về kinh tế, suy kiệt về nòi giống…

– Ma tuý là con đường chính dẫn tới lây nhiễm căn bệnh thế kỉ HIV.

– Tình hình nghiện ma tuý hiện này và những việc cần làm nhằm đẩy lùi tệ nạn này.

c. Kết bài

Nên suy nghĩa của bản thân trước tác hại của ma tuý và nhắc nhở mọi người hãy tránh xa.

Dàn ý chi tiết mẫu 2

1. Mở bài:

Xã hội càng ngày càng phát triển đời sống càng nâng cao song lại có nhiều tác nhân gây hại tới sức khỏe con người trong đó có hút thuốc lá.

2. Thân bài

Gọi tên: Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe con người, trên mỗi bao thuốc lá đều có dòng chữ ” hút thuốc lá có thể gây ung thư phổi” vậy mà bất chấp điều cảnh báo ấy ta vẫn hút thuốc lá.

– Biểu hiện:

+ Người hút thuốc lá có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, có hiện tượng răng vàng hoặc răng đen, ngón tay cầm thuốc chai lại, hơi thở khó chịu, mùi mồ hôi hôi thậm chí quần áo cũng bị ám mùi.

– Nguyên nhân:

+ Do con người thiếu ý thức phòng ngừa bênh tật

+ Chưa thấy hết tác hại của hút thuốc lá

+ Do thói quen giao tiếp hoặc di công việc quá căng thẳng, nặng nề, mệt mỏi, đòi hỏi có sự thư giãn

+ Do học đòi bắt chiếc, đua đòi với bạn bè

+ Do gia đình không quan tâm, không quản lý sâu sắc con cái

– Tác hại:

+ Ảnh hưởng đến sức khỏe của con người

+ Hút thuốc lá có thể hỏng hô hấp, dẫn đến hiện tượng đau ngực, tức ngực, khó + thở, gây rỗ phổi, ung thư phổi.

+ Hút thuốc lá làm cho sức khỏe giảm sút nghiêm trọng

+ Tiêu hao túi tiền của người sử dụng, có thể số tiền dành cho thuốc lá không nhiều nhưng nếu như không hút thuốc lá ta có thể dùng số tiền đó vào việc hữu ích hơn.

+ Hút thuốc lá không chỉ có hại cho người sử dụng mà còn ảnh hưởng đến mọi người xung quanh, đối với trẻ nhỏ việc học đòi bắt chiếc hút thuốc lá không những nguy hại cho sức khỏe mà còn làm thay đổi tâm tính, có thể trở nên trộm cắp vặt để có tiền hút thuốc lá.

– Biện pháp

+ Cần tuyên truyền nhiều hơn về tác hại của thuốc lá trên các phương tiện truyền thông đại chúng, coi việc hút thuốc lá là hành vi không đẹp, nó biểu hiện của việc nghiện ngập.

+ Cần phân tích cho người thân, bạn bè hiểu được nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến ngày hôm nay mà còn ảnh hưởng về sau.

+ Có lệnh cấm ở những nơi công cộng, xử phạt thật nghiêm khắc với những người vi phạm và hạn chế sản xuất thuốc lá.

+ Gia đình cần phải quan tâm tới con cái nhiều hơn và cần phải theo dõi sát xao mọi hành động của con cái, nếu như lỡ hút thì phải ngăn chặn kịp thời.

+ Học sinh chúng ta khi còn ngồi trên ghế nhà trường yếu tố quan trọng nhất là bản thân phải có ý thức cao, chủ động không hút thuốc lá để giữ gìn sức khỏe của bản thân và gia đình.

3. Kết bài:

+ Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe, tính mạng của con người, vì thế mà chúng ta hãy nói không với thuốc lá để cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bài văn mẫu 1

Trong những năm tháng thực dân Pháp xâm chiếm nước ta chúng đã mang đến cho nhân dân ta biết bao nhiêu điều xấu xa làm suy đồi đạo đức cũng như giống nòi để giờ đây trở thành tệ nạn xã hội, và đặc biệt thành một căn bệnh thế kỉ vẫn chưa có thuốc cứu chữa. Đó chính là thuốc phiện hay chính là ma túy. Vậy mà túy có tác hại như thế nào mà thực dân Pháp đã sử dụng nó để làm suy nòi giống của ta?

Trước hết chúng ta cần định nghĩa được ma túy là gì?. Ma túy là là tên gọi chung chỉ những chất kích thích khi dùng một lần có thể gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo. Những chất này khi đưa vào cơ thể sống sẽ làm thay đổi trạng thái nhận thức và sinh lý. Theo khoa học thì Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên bán tổng hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng hợp có tác dụng lên thần kinh trung ương gây cảm giác như giảm đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu. . . mà khi dùng nhiều lần thì sẽ phải sử dụng lại nó nếu không sẽ rất khó chịu.

Ma túy có rất nhiều loại và mỗi loại có những tác dụng khác nhau đến người bệnh. Nào là ma túy cần sa, thuốc phiện, heroin, ma túy đá. Mỗi loại có tác hại khác nhau những tựu chung lại thì đều có tác hại gây nghiện, khó chịu khi không có nó, gây ảo giác và khó có thể cai được. Đó là tác hại đầu tiên mà ta thấy được qua quan sát. Chúng ta có thể thấy rất rõ những người nghiện ma túy thường có những dấu hiệu bất thường so với người khác, họ nghiện rồi thì sẽ làm mọi cách để có thuốc nữa. Chính vì thế cho nên nó mới dẫn đến suy đồi đạo đức: ăn cắp, ăn trộm, đánh nhau, giết người…có nhiều người còn trở thành nguồn để đầu độc những người khác theo mình nữa. Có biết bao nhiêu vu án mạng của những bậc sinh thành bị chính ban tay của con mình sinh ra giết chết. Một trong những nguyên nhân có nguyên nhân do mà túy mà ra. Tóm lại ma túy không chỉ có hại cho chính bản thân người bênh mà còn có hại cho gia đình và toàn xã hội. Thử tưởng tượng nếu như thế hệ trẻ ai cũng thế thì biết làm thế nào?

Đó là tác hại trước mắt dễ thấy còn tác hại lâu dài chính là bệnh thế kỉ HIV. Căn bệnh ấy hiện nay vẫn không tìm ra phương thuốc để cứu chữa cho nên những người nghiện nặng hút nhiều thì sẽ mắc bệnh mà chết. Không những thế những người này còn có thể lây bệnh cho người khác qua đường tình dục đường máu hay truyền từ mẹ sang con. Khi hút thuốc những chất có trong thuốc sẽ có tác dụng kích thích dây thần kinh để làm cho ta có cảm giác sảng khoái thỏa mãn hơn. Dây thần kinh tiết ra nhiều chất để cho ta có cảm giác đó. Thế rồi một hai lần thì không gây nghiện nhưng khi bạn dùng quá nhiều nó sẽ làm mất khả năng tiết chất của dây thần kinh khiến cho phải có thuốc thì bạn mới thấy thoải mái. Vì thế cho nên bạn sẽ nghiện một cách nhanh chóng thôi. Về lâu về dài sẽ dẫn đến suy nhược cơ thể với căn bệnh thế kỉ mà qua đời.

Như vậy qua đây ta đã thấy được tác hại của ma túy, chúng không những có hại cho chính những người nghiện mà nó còn ảnh hưởng đến cuộc sống tâm tư tình cảm của những người đó. Gia đình họ và toàn xã hội cũng sẽ bị ảnh hưởng thêm. Chính vì thế mà mỗi chúng ta nên xây dựng một xã hội không có ma túy.

Bài văn mẫu 2

Chúng ta đang sống trong một đất nước không ngừng phát triển trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Để làm được điều đó,chúng ta phải vượt qua các trở ngại,khó khăn. Một trong số đó là các tệ nạn xã hội như: ma túy, cờ bạc, văn hóa phẩm đồi trụy. Nhưng đáng sợ nhất chính là ma tuý. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về tác hại to lớn của ma túy để phòng tránh cho bản thân, gia đình và xã hội.

Để phòng chống một tệ nạn thì chúng ta cần biết rõ về tệ nạn đó. Ma túy là một loại chất kích thích, gây nghiện có nguồn gốc từ cây túc anh hoặc nhựa cây thuốc phiện được trồng ở 12 tỉnh miền núi phía Bắc Việt nam hay từ lá, hoa, quả cây cần sa được trồng ở các tỉnh giáp ranh biên giới Việt Nam – Campuchia. Đặc biệt là ma túy có một ma lực dẫn dụ ghê gớm, khiến người bị dính vào không thể cưỡng lại được, chẵng khác gì “ma đưa lối, quỷ đưa đường”. Ma túy tồn tại ở nhiều dạng như tép, nước, bột, hồng phiến, bạch phiến, thuốc…và được sử dụng bằng nhiều hình thức hút, chích, hít…Nó được coi là tệ nạn đáng sợ nhất vì sức dẫn dụ con người không kể tuổi tác và khả năng gây nghiện nhanh chóng. Hơn thế nữa, ma túy còn là ngọn nguồn của những tệ nạn xã hội khác.

Chúng ta thường nghe nói ma túy rất có hại nhưng mấy ai hiểu được tác hại thật sự của nó! Trước tiên, nó gây hại trực tiếp đến người nghiện. Về sức khỏe, ma túy gây ra các bệnh khôn lường cho cơ thể. Người nghiện sẽ bị hư hại niêm mạc mũi nếu dùng ma túy theo dạng hít, có khả năng ngưng thở đột ngột, gây nguy hiểm tính mạng. Còn dùng theo dạng hút thì cơ quan chịu ảnh hưởng là phổi. Phổi sẽ bị tổn thương nghiêm trọng, gây ung thư phổi, viêm đường hô hấp, nhiễm trùng phổi…Và nguy hiểm nhất là dùng ma túy dạng chích, đây là con đường ngắn nhất dẫn đến AIDS. Người tiêm đâu có biết rằng trên mũi kim là hàng vạn quả cầu gai gây căn bệnh thế kỉ hiểm nghèo, cứ thế họ truyền tay nhau tiêm chúng, đưa virus vào máu của mình. Ở những tụ điểm tiêm chích, họ còn pha thêm các chất bẩn gây áp-phê, hậu quả là các con nghiện phải cưa cụt tay chân hay nhiễm trùng máu. Ấy là chưa kể đến tình trạng bị chết do sốc thuốc. Câu chuyện “cái chết trắng” của nhà tỉ phú trẻ Raphael, chết ngay bên đường do dùng bạch phiến quá liều. Những người nghiện lâu ngày rất dễ nhận ra, người gầy gò, da xám, tóc xơ xác. Hệ thần kinh bị tổn thương nặng do ảnh hưởng của thuốc, kém tập trung, suy nghĩ, chán nản và thiếu ý chí vươn lên nên việc cai nghiện cũng khó khăn. Đáng ghê sợ hơn, người mới nghiện heroin, khi “phê” thường gia tăng kích thích tình dục, dẫn đến hành vi tình dục không an toàn, có thể bị lây nhiễm HIV, nhưng nếu sử dụng lâu ngày sẽ làm suy yếu khả năng tình dục. Không chỉ dừng ở đó, tiêm chích ma túy còn hủy hoại con đường công danh, sự nghiệp của người nghiện. Đã có bao bài học, biết bao câu chuyện kể về những công nhân, kĩ sư… đã gục ngã trước ma túy, để rồi bị bạn bè, đồng nghiệp xa lánh, con đường tương lai tươi sáng bỗng vụt tắt, tối tăm. Và nhất là những bạn học sinh, tuổi đời còn quá dài mà chỉ vì một phút nông nỗi, bị bạn bè rủ rê đã đánh mất tương lai. Thật đáng thương!

Ma túy không những gây hại cho người dùng nó mà còn cho cả gia đình của họ, khiến họ trở mất dần khả năng lao động, trở thành gánh nặng cho gia đình. Những gia đình có người nghiện ma túy bầu không khí lúc nào cũng lãnh đạm, buồn khổ. Công việc làm ăn bị giảm sút do không được tín nhiệm. Nền kinh tế cũng theo đó mà suy sụp. Bởi những người một khi đã nghiện thì luôn có nhu cầu hơn nữa về ma túy, đồng nghĩa với việc họ phải có tiền, mà tiền thì lấy từ đâu? Từ chính gia đình của họ chứ không đâu xa. Rồi những người vợ, người mẹ sẽ ra sao khi thấy chồng, con mình vật vã khi thiếu thuốc, khi lìa bỏ cõi đời vì mặc cảm, vì bệnh tình đã tới giai đoạn cuối? Thật đau xót cho những gia đình bất hạnh có người nghiện ma túy.

Không dừng lại ở đó, ma túy còn như một con sâu đục khoét xã hội. Khiến cho an ninh, trật tử, quốc phòng bất ổn. Khi muốn thõa mãn cơn ghiền, con nghiện không từ một thủ đoạn, hành vi trộm cắp, giết người nào để có tiền mua heroin, hoặc nổi máu anh hùng xa lộ, đua xe, lạng lách. Những con nghiện mà không được gia đình chấp nhận sẽ đi lang thang làm mất vẻ mỹ quan,văn minh lịch sự của xã hội,vật vờ trên những con đường. Không chỉ thế, nhà nước, xã hội còn phải tốn tiền để tổ chức lực lượng phòng chống và giải quyết những thiệt hại do con nghiện gây ra. Mất tiền xây dựng các trại cải tạo, giáo dục, điều trị cho người nghiện. Một thiệt hại lớn mà ma túy gây ra cho nền kinh tế quốc gia là ngành du lịch bị giảm sút. Các bạn thử nghĩ xem, có ai dám đi du lịch sang một đất nước, một thành phố mà toàn người bị HIV/AIDS. Rồi họ sẽ nghĩ gì về nước ta, họ sẽ nhìn nước ta với ánh mắt khinh thường, chẳng ai dám đầu tư vào đây nữa. Quả là một mất mát, thiệt hại cho nước nhà!

Bài viết số 4 Lớp 10 – Đề 3: Hãy viết một bài văn để thuyết minh về một kinh nghiệm học văn hoặc làm văn

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài:

– Hiện nay, có hiện tượng HS ngại học văn vì cho rằng đây là môn học khó và khổ. Nguyên nhân là do các bạn chưa tự rút ra cho mình những kinh nghiệm cần thiết cho môn học.

– “Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại” là một kinh nghiệm giúp bạn có thể chiếm lĩnh được môn học và ngày càng yêu thích, say mê văn chương.

2. Thân bài:

– Mô tả lại quá trình trải nghiệm của bản thân để có được kinh nghiệm đó:

+ Mỗi nhà văn trong sáng tác đều tuân theo lí thuyết về đặc trưng thể loại. Có 3 phương thức sáng tác: tự sự, trữ tình, kịch. Mỗi phương thức có cách chiếm lĩnh đời sống và phương tiện nghệ thuật riêng biệt.

+ Khi học bài trên lớp hay trong quá trình dạy, giáo viên đều hướng dẫn HS tìm hiểu theo đặc trưng thể loại của tác phẩm. Ví dụ tìm hiểu tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, thầy cô sẽ hướng dẫn chúng ta tìm hiểu từ tình huống truyện, nhân vật, ngôn ngữ…

+ Việc soạn bài, tìm hiểu tác phẩm trước ở nhà cũng trên cơ sở các câu hỏi về đặc trưng thể loại đó. Khi soạn truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”, HS sẽ được hướng dẫn soạn từ kịch tính của màn kịch, từ nghệ thuật gây cười mà suy ra tính cách nhân vật.

– Phổ biến kinh nghiệm:

+ Quan niệm: nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại là dựa vào thể loại để tìm hiểu tác phẩm. Từ đó làm định hướng cho việc tìm ý và làm văn (thuyết minh, nghị luận, biểu cảm…).

+ Muốn vậy, trước hết ta phải nắm chắc kiến thức về thể loại tác phẩm. Khi học phần văn học dân gian ở học kì I, ta phải nắm được thế nào là sử thi, thế nào là ca dao, thế nào là truyện cười… Khi học phần văn học trung đại, phải nắm được thế nào là phú, thế nào là hịch, cáo, chiếu, biểu.

+ Sau đó, căn cứ vào đặc trưng thể loại, ta sẽ tìm hiểu nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Rồi từ đó vận dụng vào làm văn.

Ví dụ: khi tìm hiểu những đoạn trích trong sử thi “Đăm Săn”, ta phải nắm được đặc trưng của sử thi anh hùng. Về nội dung: Sử thi anh hùng chủ yếu ca ngợi những nhân vật anh hùng có nhiều chiến công trong lãnh đạo cộng đồng thị tộc làm ăn sản xuất hay chiến đấu chống kẻ xâm chiếm cộng đồng. Về nghệ thuật, sử thi anh hùng thường dùng nhiều so sánh, phóng đại, trùng điệp, ngôn ngữ giàu tính hình tượng… Căn cứ vào kiến thức về thể loại đó, khi học và tìm hiểu đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”, ta phải tìm hiểu hai nội dung trọng tâm: thứ nhất, đó là vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn trong trận giao chiến với Mtao Mxây (hành động, sức mạnh, lời nói, phẩm chất anh hùng); thứ hai, là sinh hoạt của cả cộng đồng trong lễ ăn mừng chiến thắng. Ngoài ra, còn phải chú trọng phân tích nghệ thuật so sánh, phóng đại, trùng điệp trong miêu tả.

+ Cuối cùng, mô hình hóa cách nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại thành đề cương ôn tập để làm tư liệu vận dụng ôn thi hay làm văn. Chẳng hạn, khi ôn tập, chúng ta sẽ phân loại tác phẩm theo thể loại (tự sự, trữ tình) để ôn. Ở các tác phẩm truyện, cần nắm được hình tượng thơ, tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu…

– Đánh giá, vận dụng:

+ Kinh nghiệm nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại sẽ giúp chúng ta phát huy được tính tích cực, chủ động của mình trong việc học.

+ Thúc đẩy quá trình tự học, tự lĩnh hội kiến thức và làm chủ kiến thức với chiếc chìa khóa hữu hiệu trong tay.

+ Vận dụng kinh nghiệm đó sẽ giúp HS chúng ta nắm được tác phẩm một cách dễ dàng và đặc biệt khi làm văn không lung túng, lạc đề.

3. Kết bài:

Môn Ngữ văn là bộ môn có tính nghệ thuật kết hợp với tính khoa học cao. Rút được kinh nghiệm học văn và làm văn tốt sẽ giúp cho chúng ta khám phá được những bí ẩn của văn chương. “Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại” là một trong những kinh nghiệm như thế.

Bài văn mẫu 1

Hiện nay, có hiện tượng học sinh ngại học môn Ngữ văn 10 vì cho rằng đây là môn học khó và khổ. Nguyên nhân là do các bạn chưa tự rút ra cho mình những kinh nghiệm cần thiết cho môn học.

“Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại” là một kinh nghiệm giúp bạn có thể chiếm lĩnh được môn học và ngày càng yêu thích, say mê văn chương.Mỗi nhà văn trong sáng tác đều tuân theo lí thuyết về đặc trưng thể loại. Có 3 phương thức sáng tác: tự sự, trữ tình, kịch. Mỗi phương thức có cách chiếm lĩnh đời sống và phương tiện nghệ thuật riêng biệt.

Khi học bài trên lớp hay trong quá trình dạy, giáo viên đều hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo đặc trưng thể loại của tác phẩm. Ví dụ tìm hiểu tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, thầy cô sẽ hướng dẫn chúng ta tìm hiểu từ tình huống truyện, nhân vật, ngôn ngữ…Việc soạn bài, tìm hiểu tác phẩm trước ở nhà cũng trên cơ sở các câu hỏi về đặc trưng thể loại đó. Khi soạn truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”, học sinh sẽ được hướng dẫn soạn từ kịch tính của màn kịch, từ nghệ thuật gây cười mà suy ra tính cách nhân vật. Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại là dựa vào thể loại để tìm hiểu tác phẩm. Từ đó làm định hướng cho việc tìm ý và làm văn (thuyết minh, nghị luận, biểu cảm…).

Muốn vậy, trước hết ta phải nắm chắc kiến thức về thể loại tác phẩm. Khi học phần văn học dân gian ở học kì I, ta phải nắm được thế nào là sử thi, thế nào là ca dao, thế nào là truyện cười… Khi học phần văn học trung đại, phải nắm được thế nào là phú, thế nào là hịch, cáo, chiếu, biểu. Sau đó, căn cứ vào đặc trưng thể loại, ta sẽ tìm hiểu nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Rồi từ đó vận dụng vào làm văn. Ví dụ: khi tìm hiểu những đoạn trích trong sử thi “Đăm Săn”, ta phải nắm được đặc trưng của sử thi anh hùng. Về nội dung: Sử thi anh hùng chủ yếu ca ngợi những nhân vật anh hùng có nhiều chiến công trong lãnh đạo cộng đồng thị tộc làm ăn sản xuất hay chiến đấu chống kẻ xâm chiếm cộng đồng. Về nghệ thuật, sử thi anh hùng thường dùng nhiều so sánh, phóng đại, trùng điệp, ngôn ngữ giàu tính hình tượng… Căn cứ vào kiến thức về thể loại đó, khi học và tìm hiểu đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”, ta phải tìm hiểu hai nội dung trọng tâm: thứ nhất, đó là vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn trong trận giao chiến với Mtao Mxây (hành động, sức mạnh, lời nói, phẩm chất anh hùng); thứ hai, là sinh hoạt của cả cộng đồng trong lễ ăn mừng chiến thắng. Ngoài ra, còn phải chú trọng phân tích nghệ thuật so sánh, phóng đại, trùng điệp trong miêu tả. Cuối cùng, mô hình hóa cách nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại thành đề cương ôn tập để làm tư liệu vận dụng ôn thi hay làm văn. Chẳng hạn, khi ôn tập, chúng ta sẽ phân loại tác phẩm theo thể loại (tự sự, trữ tình) để ôn. Ở các tác phẩm truyện, cần nắm được hình tượng thơ, tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu…

Kinh nghiệm nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại sẽ giúp chúng ta phát huy được tính tích cực, chủ động của mình trong việc học. Thúc đẩy quá trình tự học, tự lĩnh hội kiến thức và làm chủ kiến thức với chiếc chìa khóa hữu hiệu trong tay.

Vận dụng kinh nghiệm đó sẽ giúp học sinh chúng ta nắm được tác phẩm một cách dễ dàng và đặc biệt khi làm văn không lung túng, lạc đề.Môn Ngữ văn là bộ môn có tính nghệ thuật kết hợp với tính khoa học cao. Rút được kinh nghiệm học văn và làm văn tốt sẽ giúp cho chúng ta khám phá được những bí ẩn của văn chương. “Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại” là một trong những kinh nghiệm như thế.

Bài văn mẫu 2

Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa – thời kì mà con người như bị cuốn hút vào đồng tiền, cơn vũ bão của vật chất, văn chương, chữ nghĩa gần như trở thành một trang sức tầm thường, có cũng đc mà không có cũng chẳng sao. Hiếm người nhận thức được giá trí đích thực của việc học văn. Vậy thì, để nhận ra những giá trị của văn chương, cần có những phương pháp hiệu quả để tiếp cận, để học, để có những bài văn hay, thuyết phục những con người mù quáng đó.

Điều đầu tiên, chúng ta cần chọn thầy để học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Hiện nay, tài liệu tham khảo tràn ngập thị trường, để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề …

……….

Mời các bạn tải file tài liệu để xem nội dung chi tiết

]]>
https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-bai-viet-so-4-39741/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742 https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742#respond Fri, 23 Oct 2020 14:16:23 +0000 https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 9: Nghị luận xã hội về vấn đề hút thuốc lá hiện nay (Dàn ý + 8 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá, Để bổ sung kiến thức về Ngữ văn và nâng cao kỹ năng viết văn cho các em học sinh lớp 10, Download.comvn

Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn tài liệu Bài văn mẫu lớp 10: Thuyết minh về tác hại của thuốc lá được chúng tôi tổng hợp và đăng tải ngay sau đây. Mời các bạn cùng tham khảo.

Đây là tài liệu vô cùng bổ ích, bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 5 bài văn mẫu thuyết minh về tác hại của thuốc lá được chúng tôi tổng hợp từ những bài văn mẫu hay nhất của các bạn học sinh lớp 10 trên toàn quốc. Tài liệu được thể hiện chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn học sinh. Hi vọng qua tài liệu này các bạn đã có được những sự tham khảo hữu ích để làm văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công, học tập tốt.

Thuyết minh về tác hại của thuốc lá

Dàn ý thuyết minh về tác hại của thuốc lá

I. Mở bài: giới thiệu về thuốc lá và tác hại của thuốc lá

Khi chúng ta đến bệnh viện, công ty, hay bất kỳ một nơi công cộng cũng có một biển báo là “ cấm hút thuốc”. thế nào tình trạng hút thuốc lá vẫn diễn ra thản nhiên trước mặt chúng ta. Những người hút thuốc tuy vẫn biết tác hại của thuốc lá nhưng họ vẫn hút, mặc kệ sức khỏe của mình. chúng ta đang càng ngày chịu những tác hại của thuốc lá gây ra, ngay cả khi chúng ta không hút thuốc.

II. Thân bài: thuyết mình về tác hại của thuốc lá

1. Tình trạng hút thuốc lá hiện nay

– Ở Việt Nam, các bệnh liên quan đến thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam

– Mỗi năm có khoảng 40.000 ca tử vong mỗi năm gây ra – tức là hơn 100 người chết vì thuốc lá mỗi ngày.

– Theo như tình trạng hiện giờ thì ước tính số tử vong do các bệnh liên quan đến thuốc lá mỗi năm sẽ tăng lên thành 70.000 người vào năm 2030.

– Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nam giới hút thuốc lá cao nhất thế giới với 47,4%

– Trong tổng số 15 triệu người hút thuốc có 12,8 triệu (39,4% nam và 1.2% nữ) hút thuốc lá điếu. Hiện có 4,1 triệu người lớn hút thuốc lào (GATS 2010).

– 67% người không hút thuốc (khoảng 33 triệu người) nói họ bị tiếp xúc với khói thuốc thụ động tại nhà và 49% người lao động (khoảng 5 triệu người) cho biết họ bị ảnh hưởng bởi khói thuốc thụ động tại nơi làm việc (GATS 2010).

– Các nhà xã hội học thống kê, nếu số tiền mua thuốc hút được dùng để mua thực phẩm hoặc chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết khác của hộ gia đình, hơn hai triệu người Việt Nam có thể thoát nghèo.

2. Tác hại của thuốc lá:

– Hút thuốc lá là nguyên nhân gây nên nhiều loại ung thư như: Ung thư phổi, ung thư thực quản, ung thư thanh quản, ung thư miệng, ung thư thận và bàng quang, ung thư hậu môn trực tràng, ung thư bộ phận sinh dục,….

– Thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây nên bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

– Thuốc là làm giảm khả năng sinh dục và có khản năng tăng nguy cơ vô sinh ở cả nam và nữ.

– Hút thuốc làm rất có hại cho phụ nữ mang thai, có thể tăng nguy cơ sảy thai, thai chết lưu, trẻ đẻ non, trẻ đẻ thiếu cân, các dị tật bẩm sinh ở trẻ…

– Người hút thuốc thụ động có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn những người không hít phải khói thuốc.

– Trẻ em hít phải khói thuốc có nguy cơ mắc các bệnh đường hô hấp, viêm tai giữa, tăng nguy cơ lên cơn hen, làm giảm trí tuệ,….

III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về thuốc lá và tác hại của thuốc lá

– Thuốc lá rất có hại cho sức khỏe nên hãy bỏ thuốc ngay từ bây giờ

– Hãy bảo vệ chính bạn cũng là bảo vệ những người thân trong gia đình bạn

Hút thuốc lá chính là đang tự hủy hoại bản thân mình

Thuyết minh về tác hại của thuốc lá – Mẫu 01

Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng được quan tâm song vẫn có không ít những tác nhân làm nguy hại đến sức khoẻ của con người. Một trong số đó là thuốc lá!

Trên mỗi vỏ bao thuốc lá đều có dòng chữ “Thuốc lá có hại cho sức khoẻ” vậy mà bất chấp điều cảnh báo ấy,người ta vẫn hút thuốc. Hút đến vàng răng,vàng cả ngón tay cầm thuốc,hơi thở hôi đến khó chịu với những người xung quanh…Có một thời, thuốc lá trở thành vật không thể thiếu trên bàn tiếp khách. Người lớn hút, trẻ nhỏ cũng hút. Nguyên nhân nào dẫn đến thói quen tai hại ấy? Do thói quan giao tiếp cũng có,do sự học đòi bắt chước thích tỏ ra mình là người “sành điệu” cũng có.

Hầu hết những người hút thuốc lá đều biết tác hại của nó. Trong thuốc lá có chứa Nicotin là một chất gây nghiện. Hút thuốc lá nhiều có thể bị hỏng hệ hô hấp, dẫn đến ho, khó thở, tức ngực, thậm chí có thể gây rỗ phổi hoặc ung thư phổi. Như vậy, thuốc lá làm cho sức khoẻ và tuổi thọ bị suy giảm nghiêm trọng. Không những thế thuốc lá còn làm tiêu hao túi tiền của người sử dụng. Có thể số tiền dành cho thuốc lá không nhiều,nhưng nếu không hút thuốc lá, ta có thể dùng số tiền đó vào những việc khác hữu ích hơn. Đối với trẻ nhỏ việc học đòi, bắt chước hút thuốc lá vừa làm nguy hại đến sức khoẻ vừa làm cho tâm tính bị thay đổi dẫn đến dối trá, trộm cắp vặt để có tiền hút thuốc…

Thuốc lá không chỉ có hại đối với người trực tiếp sử dụng nó mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh vì khói thuốc lan trong không khí khiến họ cũng phải chịu ảnh hưởng nặng nề. Hiện nay, khi đến các nơi công cộng như bến xe, thậm chí cả trường học, trụ sở nhà nước, chúng ta vẫn bắt gặp nhiều người hút thuốc lá mà không hề quan tâm đến sức khoẻ của mình và cảm giác của những người xung quanh. Như vậy họ đã gián tiếp làm nguy hại đến sức khoẻ cộng đồng và vô tình làm cho môi trường bị suy thoái. Theo điều tra mới nhất của tổ chức y tế thế giới WHO, cứ theo đà hút thuốc hiện nay thì đến năm 2020 số người chết vì thuốc lá sẽ là 8 triệu người một năm. Tức là cao hơn số người chết vì HIV/AIDS, bệnh lao và tai nạn giao thông cộng lại. Dự báo ấy liệu có làm cho những con nghiện thuốc lá lưu tâm ?

Thuốc lá có hại như vậy. Làm thế nào để ngăn chặn việc hút thuốc lá ?Có lẽ cần tuyện truyền nhiều hơn về tác hại của nó trên các phương tiện thông tin đại chúng. Coi việc hút thuốc lá là hành vi không đẹp bởi nó là biểu hiện của nghiện ngập và của những con người dễ bị chi phối. Và yếu tố quan trọng nhất là tự bản thân phải ý thức cao, chủ động không tiếp cận với thuốc lá để giữ gìn,bảo vệ sức khoẻ của chính mình và những người thân trong gia đình mình.

Thuốc lá có hại. Thuốc lá nguy hiểm cho sức khoẻ. Bởi vậy thế hệ trẻ chúng ta hãy cùng nhau nói không với thuốc lá!

Thuyết minh về tác hại của thuốc lá – Mẫu 02

Thuốc lá gây hại cho con người, không chỉ với người hút thuốc mà còn ảnh hưởng đến cả những người xung quanh. Vì vậy chúng ta cần phải biết được tác hại của chúng, biết để không hút và giúp người thân của bạn từ bỏ thuốc lá.

Chúng ta có thể viết ra được không biết bao nhiêu là trang giấy để nói về tác hại thuốc lá. Mỗi năm, thế giới có 5 triệu người chết vì thuốc lá, nhiều hơn số tử vong do tai nạn, bị lao và AIDS cộng lại. Nếu không có biện pháp ngăn chặn, sau 25 năm nữa, con số này sẽ là 10 triệu ca; 2/3 trong số đó thuộc các nước đang phát triển. Thuốc lá được tạo nên từ những gì mà lại gây hại đến vậy?

Trong khói thuốc lá có hơn 4000 hóa chất trong đó có hơn 200 loại có hại cho sức khoẻ, bao gồm chất gây nghiện, các chất gây độc và 43 được biết là nguyên nhân gây ung thư. Hút thuốc làm tăng tỷ lệ tử vong từ 30 đến 80%, chủ yếu là do các bệnh ung thư (ung thư phổi), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, các bệnh tim gây suy thoái giống nòi do làm giảm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ. ….

Ngoài ra, hút thuốc còn làm giảm khả năng lưu thông của máu trong cơ thể, tăng nhịp tim và làm suy giảm sức khoẻ của bạn, dẫn đến nhiều bệnh ung thư khác như ung tư miệng, đại tràng, vòm họng, thực quản, gan, thận…Các nhà khoa học đã khảo sát và tìm ra đc rằng tuổi thọ trung bình của người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút thuốc từ 05 đến 08 năm, tức là khi hút 1 điếu thuốc tự ta đã làm mất đi 5,5 phút cuộc sống. Thế thì có phải chỉ có người hút mới chịu những tác hại xấu do thuốc lá ?

Ngoài con đường hút thuốc trực tiếp, thuốc lá còn có thể gây hại qua việc ta hít phải khói thuốc của người khác. Trẻ em và người lớn, những người không hút thuốc nhưng sống trong khói thuốc của những người khác chụi rủi ro cao hơn hoặc bị mắc các bệnh kinh niên và cấp tính về họng, tai và trí tuệ cũng như sức khoẻ thể chất bị ảnh hưởng. Phụ nữ có mang mà hút thuốc sẽ chịu rủi ro bị sẩy thai cao hơn, sinh con nhẹ cân, hoặc con bị ốm, tử vong. Trẻ sơ sinh của những người cha hút thuốc trong những tháng trước và trong thời gian mang thai của người mẹ có nguy cơ gấp đôi bị hở hàm ếch, bạch cầu và chịu mức rủi ro bị ung thư não cao hơn tới 40% so với những trẻ có cha không bao giờ hút thuốc. Đó là những ảnh hưởng không nhỏ tí nào.

Không chỉ gây bệnh, thuốc lá còn gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho xã hội. Mỗi năm, một người có hút thuốc ở Việt Nam chi gần 700. 000 đồng cho thuốc lá. Với 12 triệu người hút, một năm chúng ta tốn hơn 8. 200 tỷ đồng cho mặt hàng này. Trong khi số tiền đó đủ để mua lương thực nuôi sống 10,6 triệu người. Thêm nữa, một khảo sát gần đây cho thấy, chi tiêu cho thuốc lá ở nước ta cao gấp 3,6 lần phí tổn học hành, gấp 2,5 lần mức chi cho quần áo và gần gấp đôi mức chi cho khám chữa bệnh.

Mặt khác, bệnh tật mà thuốc lá đem lại đã tăng thêm gánh nặng kinh tế cho mỗi gia đình và làm mất đi lực lượng lao động. Vì thuốc lá, những người nghèo ngày càng trở nên kiệt quệ. Trong thực tế, đối với nhiều gia đình thì chi phí cho hậu quả của việc hút gây ra còn tốn kém hơn nhiều so với chi phí để mua thuốc. Khi một thanh niên trong gia đình bị ốm do thuốc lá thì gia đình này phải chịu những chi phí điều trị chăm sóc, tốn kém thời gian. Thế là từ chuyện hút thuốc nảy sinh ra nhiều vấn đề khác.

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại thuốc lá mang nhãn mác phương Tây, nhiều người cứ nghĩ rằng người phương Tây hút thuốc nhiều. Thực ra không phải như vậy. Tại Hoa Kỳ và Canada, tỷ lệ người hút thuốc lá đang giảm một cách nhanh chóng. Ở nhiều nước phương Tây, giờ đây việc hút thuốc lá ở những nơi công cộng như nhà hàng, bệnh viện và trường học là phạm pháp. Vì thuốc lá đang bị tẩy chay tại những nước này, các công ty thuốc lá đã để mắt tới những nước đang phát triển như đất nước chúng ta chẳng hạn. Các công ty thuốc lá muốn chúng ta tin rằng hút thuốc là “cao sang”.

Thực ra hút thuốc là một thói quen của người nghèo. Người nghèo dễ dẫn tới hút thuốc nhất và cũng là người có ít khả năng tiền bạc để mua thuốc nhất. Số tiền mà người ta dùng để mua thuốc lá thay vì mua những đồ vật cần thiết cho cuộc sống là mối hiểm hoạ nghiêm trọng tới tài sản của mình và gia đình. Tiền tiêu tốn vào thuốc lá thay vì những thứ cần thiết cơ bản khác cho cuộc sống như thực phẩm, đồ dùng gia đình …Và còn nhiều nghịch cảnh khác ko kể ra hết được.

Đã biết được những điều trên, chúng ta – những người đã nghiện thuốc lá và những người chưa cần phải làm gì? Trước hết, đối với những người chưa hút, đừng hút thuốc và hãy động viên bạn bè mình không dùng thuốc lá! Áp lực phụ cũng có thể tích cực! Tiếp đó bạn có thể động viên họ hàng và bạn bè cai thuốc và giúp đỡ họ trong quá trình này.

Còn với những người đã nghiện hút, phải tìm được nguyên nhân vì sao mình lại hút thuốc, để từ đó tìm cách làm sao cho mình bỏ được. Và quan trọng nhất, ta phải quyết tâm cai thuốc: trước khi cai thuốc, ta phải quyết định thật sự mình muốn gì chứ không phải chỉ gia đình, bạn bè của mình muốn gì. Hãy lên kế hoạch cho tương lai, đưa ra các mục tiêu cho mình và lập kế hoạch để thực hiện và hãy tập trung vào các mục tiêu đó hút thuốc có thể xuất hiện trong quá trình thực hiện mục tiêu. Một trong những cách hữu hiệu nhất là nhai kẹo cao su mỗi khi muốn hút thuốc. Tập dần thói quen này dần sẽ thay thế hẳn luôn việc nghiện thuốc lá. Và sau khi ta đã bỏ được, đôi khi những cơn “ghiền” vẫn quay lại. Hãy sẵn sàng để đối phó nếu tình huống đó xảy ra. Cai thuốc không phải là việc dễ dàng nhưng nhiều người vẫn làm được.

Nói tóm lại, thuốc lá gây ra nhiều tác hại ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe của cá nhân và của cộng đồng. Cái vòng luẩn quẩn nghèo đói – thiếu hiểu biết – hút thuốc – bệnh tật, nghèo đói… sẽ không bao giờ kết thúc nếu thuốc lá chưa được loại trừ ra khỏi cuộc sống người dân. Vì vậy, chúng ta phải quyết tâm nói “không” với thuốc lá, vì một xã hội văn minh, phát triển, vì một tương lai tươi sáng cho loài người nói chung và đất nước Việt Nam nói riêng.

……..

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

]]>
https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-thuyet-minh-ve-tac-hai-cua-thuoc-la-39742/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng https://quatangtiny.com/phan-tich-gia-tri-nghe-thuat-the-phu-trong-phu-song-bach-dang-20310 https://quatangtiny.com/phan-tich-gia-tri-nghe-thuat-the-phu-trong-phu-song-bach-dang-20310#respond Fri, 23 Oct 2020 13:58:26 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-gia-tri-nghe-thuat-the-phu-trong-phu-song-bach-dang-20310

Related posts:

  1. Phân tích tác phẩm Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu (Dàn ý + 10 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng, Để bổ sung kiến thức về Ngữ văn và nâng cao kỹ năng viết văn cho các em

Với mong muốn đem đến cho các bạn học sinh lớp 10 có thêm nhiều tài liệu ôn tập môn Ngữ văn, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn tài liệu: Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.

Hi vọng, những bài văn mẫu hay dưới đây sẽ giúp các em biết lập dàn ý khi làm văn, có nhiều ý tưởng mới để viết cho mình một bài văn hoàn chỉnh. Chúc các em học tốt.

Dàn ý chi tiết: Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng

I. Mở bài

– Giới thiệu khái quát về thể phú: Là thể văn cổ của Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam từ sớm, đến thời Trần trở nên phổ biến

– Khái quát vị trí của tác phẩm: Bạch Đằng Giang phú là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam

II. Thân bài

1. Đặc trưng nghệ thuật của thể phú.

– Là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi

– Dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời.

– Bố cục gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận, đoạn kết.

– Phú cổ thể: Không nhất thiết có đối, cuối bài được kết lại bằng thơ.

2. Sự thể hiện những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm “Bạch Đằng giang phú.

a. Cấu tứ, bố cục

– Về cấu tứ: Đơn giản, chặt chẽ theo lối kể chuyện chủ – khách tiêu biểu của thể loại phú.

+ Ban đầu là lời dẫn chuyện của tác giả để dẫn dắt ta đi theo hành trình ngao du của khách và cuối cùng dừng chân tại sông Bạch Đằng, khách nói về những điều mình quan sát, suy nghĩ về con sông.

+ Tại đây khách gặp các vị bô lão, được họ kể về những chiến công hiển hách trên dòng Bạch Đằng thuở xưa.

+ Hai bền cùng trò chuyện và bình luận về những chiến công.

– Bố cục mang đặc trưng tiêu biểu của bài phú cổ thể gồm 4 phần:

+ Mở đầu: Cảm xúc của nhân vật Khách trước sông Bạch Đằng

+ Giải thích: Những chiến công hiển hách trên sông Bạch Đằng qua lời kể của các bô lão.

+ Bình luận: Nhận xét, đánh giá của cha ông về những chiến công

+ Kết: Suy ngẫm về sự hưng vong của đất nước.

b. Hình thức câu văn.

– Có sự đan xen đa dạng, linh hoạt giữa lời văn của người dẫn chuyện, lời nói của Khách, lời kể của các bô lão. Khi thì luân phiên lượt lời uyển chuyển, lúc lại đan xen lời của các nhân vật.

– Sử dụng các câu văn xen lẫn văn vần và văn xuôi đa dạng, sinh động.

+ Các câu văn vần:

“Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt/Nơi có người đi đâu mà chẳng biết”

“Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều/Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều”….

+ Các câu văn xuôi: “Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã/Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Tháo”….

– Sử dụng các câu văn ngắn dài khác nhau

– Sử dụng lối văn biền ngẫu, tạo nên cách nói hình tượng hóa

“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu/Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”,…

– Kết thúc bài phú là một bài thơ, tiêu biểu cho đặc trưng thể phú.

c. Ngôn ngữ.

– Ngôn ngữ tự nhiên không khoa trương sáo rỗng mà rất sống động.

+ Khách miêu tả về con sông Bạch Đằng không bằng những ngôn ngữ sáo mòn mà bằng những hình ảnh cụ thể, sống động để nói về những nét vẽ cụ thể của dòng sông: hùng vĩ, thơ mộng nhưng đìu hiu, hoang lạnh

+ Các bô lão kể về những chiên công nhưng không bị gò vào những ngôn ngữ đao to búa lớn mà vẫn thể hiện được những chiến công hào hùng, oanh liệt

– Ngôn ngữ trang trọng, gợi sự trang nghiêm

d. Xây dựng các hình tượng nghệ thuật độc đáo.

– Hình tượng con sông Bạch Đằng vừa mang vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật vừa là chứng nhân của lịch sử.

– Hình tượng “khách”: Khách trong thể phú thường mang tính ước lệ khuôn thức, cứng nhắc, nhưng qua cách xây dựng của Trương Hán Siêu, hình tượng khách hiện lên đa dạng, sinh động vừa phóng khoáng, tự do, yêu vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của non sông, tiếc thương, xót xa cho cảnh hoang tàn, đổ nát, tự hào về những chiến công lịch sử, yêu thiên nhiên, yêu đất nước.

– Hình tượng các bô lão: Trọng tình, hiếu khách, yêu và tự hào sâu sắc về những chiến công của dân tộc, biết đánh giá và nhìn nhận đúng đắn về lịch sử

III. Kết bài

– Khái quát lại những giá trị nghệ thuật của thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng.

– Khẳng định vị trí của tác phẩm: Sau Phú sông Bạch Đằng cũng còn nhiều tác phẩm viết theo thể phú khác nhưng chưa có tác phẩm nào vượt qua được bài phú của Trương Hán Siêu.

Phân tích giá trị nghệ thuật thể phú qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng

Chế Lan Viên đã từng viết: Trăm con sông đều muốn hóa Bạch Đằng, để nhấn mạnh khẳng định ý nghĩa giá trị của sông Bạch Đằng với lịch sử dân tộc. Sông Bạch Đằng đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác của biết bao thế hệ thi sĩ như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân,… và không thể không nhắc đến Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú – bài phú mẫu mực về nghệ thuật của thể phú.

Nét nghệ thuật đặc sắc đầu tiên là Bài phú sông Bạch Đằng được làm theo lối cổ thể, kiểu phú này thường có lối kết cấu đối đáp: chủ – khách, khiến cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn, sinh động. Nhân vật khách có thể là sự phân thân của chính tác giả và nhân vật tập thể là các bô lão địa phương sống ở ven sông Bạch Đằng mà nhân vật khách gặp trên đường vãn cảnh, nhưng đây cũng có thể hiểu nhân vật bô lão chỉ mang tính chất hư cấu, là tâm tư tình cảm của tác giả thể hiện thành nhân vật trữ tình. Do vậy, dưới hình thức đối thoại giữa khách và các bô lão địa phương, bài phú đã thể hiện cảm xúc say sưa, những chiêm nghiệm, suy nghĩ về đất nước, về dân tộc.

Phần một nổi bật là hình tượng nhân vật khách với tư thế ung dung, phóng khoáng, mang trong mình hoài bão lớn lao :

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng trí bốn phương vẫn còn tha thiết.

Cái tráng trí bốn phương của tác giả chính là được đi ngao du sơn thủy bốn phương, bởi vậy, hàng loạt địa danh trong nước cũng như nước ngoài đã được tác giả liệt kê: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,… Đặc biệt khung cảnh sông Bạch Đằng đã khiến nhân vật khách ngậm ngùi, nuối tiếc, đứng lặng giờ lâu trong sự suy tưởng. Trong bối cảnh đó các vị bô lão xuất hiện bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách kể với nhân vật khách biết bao chiến tích oanh liệt, hào hùng trên sông Bạch Đằng: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã/ Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao, với khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta, trận chiến diễn ra hết sức cam go, quyết liệt nhưng cuối cùng chiến thắng đã thuộc về chính nghĩa, hung đồ hết lối, vết nhục còn mãi đến muôn đời: Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Tác phẩm kết thúc là lời khẳng định vai trò to lớn của con người đối với sự nghiệp dựng nước và giữa nước. Đặc biệt hai câu cuối của tác phẩm: Giặc tan muôn thuở thăng bình/ Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao, khách và các bị bô lão vừa biện luận, vừa khẳng định chân lí giữa địa linh và nhân kiệt thì yếu tố con người là quan trọng nhất. Câu ca kết thúc bài thơ đã nêu cao vai trò, vị trí của con người, vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với lối phú cổ thể, đối đáp khách và các vị bô lão, Trương Hán Siêu đã làm cho bài phú của mình thêm sinh động, hấp dẫn, khiến cho cái nhìn về dòng sông Bạch Đằng lịch sử được bao quát và khách quan hơn trong sự phản ánh của hai đối tượng chủ và khách.

Không chỉ vậy, từ ngữ, hình ảnh trong bài phú thường mang tính chất khoa trương, kì vĩ, diễm lệ. Vẻ đẹp kì vĩ đó trước hết được thể hiện trong vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng hết sức thơ mộng của dòng sông: Bát ngát sóng kình muôn dặm/ Thướt tha đuôi trĩ một màu/ Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu. Không gian vô cùng rộng lớn, những lớp sóng nối tiếp nhau xô vào bờ, nhưng không gian ấy cũng hết sức thơ mộng với nét uyển chuyển mềm mại của đuôi trĩ. Đuôi trĩ ở đây có thể hiểu: hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông như những cái đuôi của con trĩ thướt tha. Không gian rộng lớn, trời – nước – đất như hòa vào cùng một sắc màu, bởi thế mà nó càng trở nên thơ mộng, diễm lệ hơn. Ngoài ra, Trương Hán Siêu còn sử dụng những hình ảnh kì vĩ để gợi tả cuộc đại thủy chiến trên sông Bạch Đằng, tác giả sử dụng bút pháp khoa trương, dựng lên những hình ảnh lớn lao, hùng tráng: Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới/ Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói ; Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi, những hình ảnh thơ kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ. Hơn thế, các hình ảnh này còn được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt/ mờ, trời đất/ đổi, báo hiệu một trận chiến cam go, đầy quyết liệt, thử thách. Nhưng cuối cùng chính nghĩa đã dành dược chiến thắng vẻ vang, kẻ giặc phải chịu nỗi nhục muôn đời không rửa hết.

Ngoài ra cũng không thể không kể đến sự đóng góp của giọng điệu, tiết tấu đối với sự thành công tác phẩm. Bài phú sử dụng lối văn biền ngẫu với những câu văn dài ngắn, đan xen nhau vô cùng linh hoạt, điều này khiến cho bài văn trở nên giàu nhịp điệu, tiết tấu trở nên linh hoạt hơn. Trong phần mở đầu tác phẩm, nhịp điệu thơ nhanh, nhưng vẫn hết sức nhịp nhàng vừa diễn tả được cái hùng tâm tráng trí bốn phương của nhân vật khách khi đi ngao du sơn thủy bốn phương nhưng đồng thời cũng lại thấy được vẻ đẹp nên thơ của khung cảnh. Nhưng ngay đoạn sau đó giọng thơ trầm xuống, nhịp điệu chậm để đứng lặng giờ lâu trước khung cảnh: Sông chìm giáo gãy, gòn đầy xương khô/ Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu / Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá/ Tiếc thay dấu vết luống còn lưu. Với đoạn thuật lại chiến công của dân tộc lời thơ cô đọng, súc tích nhưng vẫn diễn tả đầy đủ không khí trận chiến sinh động: Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/ Bầu trời đất chừ sắp đổi. Ở đây lời văn không còn nhịp nhàng như đoạn thơ trên mà có sự đan xen những câu văn dài ngắn khác nhau, diễn tả được không khí hào hùng, căng thẳng của trận đấu, đồng thời thể hiện tâm trạng của tác giả. Đoạn văn kết bài giọng văn trở nên thâm trầm, sâu sắc nhận định về ba nguyên nhân làm nên chiến thắng của dân tộc : địa lợi – đất hiểm ; Nhân hòa – nhân tài giữa cuộc điện an ; thiên thời – được trời ủng hộ và nhấn mạnh vào yếu tố con người tạo nên sự thành công cho cuộc chiến.

Phú sông Bạch Đằng là bài thơ có kết cấu đơn giản mà vô cùng hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lối văn linh hoạt khi hào hùng, sảng khoái khi trầm lắng, tha thiết. Ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, hình ảnh kì vĩ, hào hùng, nhưng cũng vô cùng lắng đọng, gợi cảm. Những yếu tố nghệ thuật kết hợp với nội dung đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-gia-tri-nghe-thuat-the-phu-trong-phu-song-bach-dang-20310/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn https://quatangtiny.com/chung-minh-binh-ngo-dai-cao-la-ang-thien-co-hung-van-20311 https://quatangtiny.com/chung-minh-binh-ngo-dai-cao-la-ang-thien-co-hung-van-20311#respond Fri, 23 Oct 2020 13:58:25 +0000 https://quatangtiny.com/chung-minh-binh-ngo-dai-cao-la-ang-thien-co-hung-van-20311

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Bài thu hoạch chuyên đề giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
  3. Nghị luận về câu Biển học là mênh mông sách vở chỉ là vùng biển gần bờ (Dàn ý + 4 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, Bài văn mẫu lớp 10: Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn là tài liệu rất

Xin chào các bạn và các bậc phụ huynh cũng như các thầy cô giáo. Trong bài viết hôm nay, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu tới tất cả mọi người bài văn mẫu lớp 10: Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn.

Đây là một trong những đề bài mà các em thường gặp phải trong các bài tập làm văn lớp 10. Hi vọng với bài văn mẫu này sẽ giúp cho các bạn có thêm nhiều tài liệu ôn tập và tham khảo một cách tốt nhất. Chúc các bạn làm bài thật tốt và đạt kết quả cao nhất.

Dàn ý chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi: Là anh hùng dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất.

– Khái quát về tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời, nhận xét chung về bài cáo – là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

II. Thân bài

1. Giải thích thế nào là áng thiên cổ hùng văn

– Là áng văn hùng tráng được lưu truyền lại đến muôn đời

– Trước Bình Ngô đại cáo, đã có những áng văn chính luận xuất sắc như “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”, nhưng đến Bình Ngô đại cáo tính chất hùng tráng được thể hiện sâu sắc hơn cả bởi giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật mà nó thể hiện

2. Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn

a. Nhan đề.

– Đại cáo là thể văn chính luận được vua chúa, thủ lĩnh dùng để công bố, tuyên ngôn những sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết bằng những lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ.

– Bình Ngô: Dẹp yên giặc Minh

– Đại cáo bình Ngô là bài cáo có ý nghĩa trọng đại của quốc gia công bố rộng khắp về việc đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập, chủ quyền của dân tộc.

→Nhan đề tác phẩm gợi ý nghĩa trang trọng, thiêng liêng

b. Quy mô, dung lượng

– Đây là áng văn có quy mô lớn với dung lượng dài gồm 4 phần được phân chia rõ ràng, cụ thể.

– Mỗi phần lại mang những nội dung trọng tâm cụ thể: phần 1 – luận đề chính nghĩa, phần 2 – vạch rõ tội ác kẻ thù, phần 3 – quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 – tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa

→Trước Đại cáo bình Ngô chưa có một áng văn chính luận nào có quy mô lớn như thế.

c. Nội dung, tư tưởng.

– Tư tưởng lớn lao xuyên suốt chiều dài tác phẩm là tư tưởng “nhân nghĩa”. Tư tưởng vừa có sự kế thừa của Nho giáo, vừa có sự mở rộng và sáng tạo với hai nội dung “yên dân” và “trừ bạo”. Từ trước đến nay, chưa một ai phát hiện và phát biểu một cách hùng hồn và rõ ràng tư tưởng này như Nguyễn Trãi.

– Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép về độc lập, chủ quyền của dân tộc qua rất nhiều phương diện (nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt)

+ Gọi vua Đại Việt là “Đế’, đặt các triều đại của Đại Việt sánh ngang với các triều đại của Trung Hoa thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc

+ So với “Nam quốc sơn hà” bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, đại cáo bình Ngô vừa có sự kế thừa, vừa có sự mở rộng: kế thừa các yếu tố về phong vựa, lãnh thổ, cách gọi các vua nước Việt là “đế”, mở rộng, phát triển ở các yếu tố nền văn hiến, phong tục, lịch sử, hào kiệt và tất cả những yếu tố này không cần đến sự định đoạt của “thiên thư” mà do chính con người thiệt lập.

→Là bản tuyên ngôn hùng tráng và đầy đủ nhất về độc lập và chủ quyền dân tộc

– Thái độ căm phẫn trước những tội ác dã man của kẻ thù.

+ Chúng dùng luận điệu bịp bợm để cướp nước, khủng bố sát hại người dân vô tội, bóc lột thuế khóa vơ vét sản vật, phá hoại môi trường tiêu diệt sự sống, phá hoại sản xuất bóc lột sức lao động.

+ Nỗi đau đớn, xót xa, uất hận, căm tức của nhân dân trước những tội ác ấy

→Là bản cáo trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác kẻ thù.

– Tình yêu đất nước và một lòng chiến đấu chống giặc Minh của Lê Lợi, của nghĩa quân Lam Sơn và nhân dân

+ Lê Lợi là người anh hùng áo vải, có lí tưởng, hoài bão lớn lao và là linh hồn của cuộc chiến.

+ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầy gian khổ mà hào hùng, vẻ vang của dân tộc, khí thế như vũ bão và cách ứng xử đầy nhân văn của dân tộc.

+ Sự thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề của giặc

→Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc

d. Đặc sắc nghệ thuật

– Lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục: Đi từ cơ sở lí luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về độc lập chủ quyền soi chiếu vào thực tiễn sự bất nhân, tàn ác của giặc Minh và cuộc khởi nghĩa gian khổ mà hào hùng của dân tộc và cuối cùng đi đến kết luận địch phi nghĩa, ta chính nghĩa.

– Các lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục: Chứng minh về chủ quyền độc lập của dân tộc bằng những dẫn chứng thuyết phục (văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt), nói về tội ác của giặc (tội ác khủng bố, sát hai, hủy diệt môi trường, phá hoại sản xuất, bóc lột sức lao động,…),…

– Giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng.

– Sử dụng cách nói đầy hình ảnh: Nướng dân đen, vùi con đỏ, Trúc lam sơn không ghi hết tội, đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông,…

– Câu văn ngắn dài, biến hóa linh hoạt khi thì đanh thép luận tội lúc lại hào hùng ngợi ca, khẳng định dứt khoát, quyết liệt

– Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, phóng đại, đối lập để thể hiện những lập trường, quan điểm của tác giả.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vị trí của tác phẩm Đại cáo bình Ngô

– Thể hiện tầm vóc và vị trí của Nguyễn Trãi qua tác phẩm.

Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn – Mẫu 1

Nguyễn Trãi để lại sự nghiệp văn học đồ sộ, giàu giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Trong kho tàng tác phẩm ấy ta không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo vốn được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn. Tác phẩm không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn mang những đặc sắc về nghệ thuật.

Tác phẩm được viết bởi Nguyễn Trãi dưới sự chỉ đạo của chủ tướng Lê Lợi sau khi nhân dân ta giành thắng lợi, đánh tan quân Minh xâm lược. Văn bản được viết ra nhằm tuyên bố với toàn dân về việc kết thúc thắng lợi vẻ vang chống quân xâm lăng. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc sau Nam quốc sơn hà. Đồng thời tác phẩm cũng được đánh giá là áng thiên cổ hùng văn tức áng văn chương hùng tráng được lưu truyền đến cả muôn đời sau. Để trở thành một áng văn bất hủ muôn đời như vậy chắc chắn Bình Ngô đại cáo phải có nội dung xuất sắc, lại đồng thời phải có một bút pháp điêu luyện, tài ba. Chỉ khi hội tụ đầy đủ hai yếu tố ấy, thì mới xứng danh áng thiên cổ hùng văn.

Mở đầu tác phẩm, lời văn vô cùng đanh thép, dõng dạc, nêu lên luận đề nhân nghĩa, luận đề này cũng chính là yếu tố chi phối đến nội dung toàn bài :

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho giao, để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình yêu thương giữa con người với nhau. Ở đây Nguyễn Trãi không chỉ tiếp thu mà còn có sự phát triển đạo lý ấy, tình yêu thương phải được thực hiện bằng những hành động cụ thể: cốt ở yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn. Để thực hiện được điều đó cần phải trừng trị những kẻ tham tàn, bạo ngược, những thế lực hắc ám đã phá vỡ cuộc sống bình yên của dân chúng. Như vậy, với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa xuất phát từ nhân dân, vì yêu thương dân chúng, đồng thời nhân nghĩa còn gắn vời lòng yêu hòa bình, từ đó nhân nghĩa chính là lòng yêu nước. Đây chính là điểm mới mẻ, tiến bộ của Nguyễn Trãi.

Không dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn đầy tự tin, bản lĩnh khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, ông không chỉ khẳng định trên phương diện cương vực lãnh thổ, mà còn khẳng định ở những phương diện mang chiều sâu, thuộc về vốn văn hóa, truyền thống của mỗi dân tộc: Như nước Đại Việt ta từ trước/…/ Song hào kiệt đời nào cũng có. Ông sử dụng những từ ngữ hết sức chuẩn xác: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có lâu đời của chân lí. Ông là người đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây là một bước tiến không hề nhỏ so với bản tuyên ngôn độc lập trước đó.

Trên cơ sở khẳng định chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác cũng như âm mưu xâm lược của chúng. Ông đã thật tài tình khi sử dụng các từ nhân, thừa cơ để vạch trần luận điệu bịp bợm, xảo trá của chúng phù Trần diệt Hồ. Chúng lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực tế là để đàn áp, vơ vét tài sản, của cải của nhân dân ta. Chúng có những hành động vô cùng dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ; thu thuế nặng nề: Nặng thuế khóa sạch không đầm túi, chúng độc ác đến mức còn không tha cho cả những sự vật vô tri: Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,… Tội ác của chúng không chỉ khiến nhân dân căm hận mà trời đất cũng không tha thứ. Đọc từng câu thơ ta cũng thấy xót xa cho thân phận của người dân khi phải chịu đựng ách áp bức của giặc Minh. Bởi vậy, những anh hùng hào kiệt bấy giờ sao có thể khoanh tay đứng nhìn cảnh đồng bào ta phải đổ máu trước lũ giặc ngoại xâm. Người anh hùng Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa trong khi còn gặp vô vàn khó khăn, nhưng bằng sự kiên trì, óc phán đoán sáng suốt ông đã dũng cảm vượt qua mọi trở ngại ấy. Nghĩa quân anh hùng, dũng cảm tiến đánh những vị trí khác nhau khiến kẻ thù sức cùng lực kiệt. Giọng văn, nhịp điệu đoạn thơ trở nên dồn dập, hứng khởi hơn bao giờ hết: Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay; Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Quân ta đã dành chiến thắng vang dội, điểm sáng ở đây chính là chiến thắng dựa trên tư tưởng nhân nghĩa: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo. Ta giành chiến thắng, không tiêu diệt kẻ thù đến tận cùng, mà vẫn chừa ra cho họ con đường sống: Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức/ Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay. Vì nhân dân nên mới khởi nghĩa, trong cuộc khởi nghĩa nhân dân cũng chính là lực lượng nòng cốt. Đến khi tha cho kẻ thù cũng để nhân dân nghỉ sức. Nhắc đến nhân dân với vị trí quan trọng như vậy chỉ xuất hiện trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Nhân dân là cốt lõi trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.

Kết thúc bài đại cáo là lời ngợi ca, là tiếng lòng hoan hỉ tuyên bố chiến thắng và khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Tác phẩm không chỉ xuất sắc ở nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Tác phẩm được coi là áng văn chính luận mẫu mực, với bố cục chặt chẽ, lập luận sắc sảo. Để tạo tiền đề triển khai toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu luận đề nhân nghĩa ngay khi mở đầu bài cáo, tiếp đến là vạch trần tội ác của kẻ thù; buổi đầu kháng chiến gian lao và thắng lợi vẻ vang của ta; cuối cùng là lời tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Để làm nổi bật tội ác của giặc ông đã khéo léo sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản: Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng đối lập với Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Ngoài ra sử dụng những hình tượng giàu giá trị gợi tả, gợi cảm: Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Để vạch trần tội ác man rợ, tàn bạo của kẻ thù. Giọng văn thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân, lúc đanh thép, mạnh mẽ khi kết tội kẻ thù.

Với sự xuất sắc ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, Bình Ngô đại cáo xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” của muôn đời. Tác phẩm là áng văn bất hủ về sức mạnh tự lực, tự cường của dân tộc trong quá trình đấu tranh chống lại quân xâm lược, đem lại sự an yên, hạnh phúc cho nhân dân.

Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn – Mẫu 2

Nhắc tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, người ta nhớ ngay đến một văn kiện lịch sử, một khúc tráng ca khải hoàn của một đất nước đã trải qua những hai mươi năm khổ cực bởi ách đô hộ và chiến tranh chống giặc Minh. Tác phẩm là sự kết tinh của lòng yêu nước, ý chí đánh giặc quật cường của một dân tộc phải sống trong những ngày tháng đau thương, khổ nhục mà rất đỗi vinh quang. Thế nhưng bài cáo ấy đã được nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi viết bằng nghệ thuật chính luận đỉnh cao, bậc thầy mà ít tác phẩm cùng thể loại ở thời trung đại có được. Để rồi Bình Ngô đại cáo xứng đáng được gọi là áng “thiên cổ hùng văn”.

Áng “thiên cổ hùng văn” tức là áng văn hùng tráng được lưu truyền đến cả nghìn đời. Để có được danh xưng ấy, chắc chắn đòi hỏi ở đó phải là một tác phẩm văn chương xuất sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Đồng thời cũng kể phải đến những giá trị lịch sử, tư tưởng vĩ đại, có dấu ấn và ý nghĩa đến muôn đời. Nhưng có lẽ, một tác phẩm hay có thể lưu truyền đến được nghìn đời như vậy phải chạm đến được trái tim, cảm xúc của các thế hệ bao đời; phải có ý nghĩa tư tưởng lớn lao phù hợp với mọi thời đại… Bình Ngô đại cáo là một áng văn bất hủ như thế.

Đã trải qua bao nhiêu năm, nhưng chắc hẳn dân tộc ta vẫn luôn tự hào khi có một bản hùng văn tráng lệ như Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng hòa bình, ý chí bất khuất trên con đường đấu tranh bảo vệ đất nước. Biết bao nhiêu cảm xúc mà Nguyễn Trãi đã để tràn lên ngòi bút. Có sự kiên quyết, vững trãi trong lời mở màn đầu tiên:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, thể hiện cách hành xử tốt đẹp giữa người với người, chẳng hề xa lạ. Nhưng bốn chữ yên dân, trừ bạo Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc đến muôn đời. Đâu có phải ở ngay thời điểm ấy, giết giặc Minh để trừ bạo ngược mà bất cứ kẻ ngang tàng nào gây họa đều phải diệt trừ để nhân dân được sống yên ổn,, ấm no. Ấy là nhân nghĩa bắt nguồn từ “dân vi bản”. Cho nên, ngay ở khúc mở màn này mới thấy có cả niềm kiêu dũng, hiên ngang khi khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khí chất tự chủ được toát lên từ sự so sánh đầy mới mẻ mà tiền lệ chưa từng có. Nó có giá trị hiển nhiên ở bất cứ thời điểm nào, cho bất cứ dân tộc nào. Nhưng vào lúc ấy, cách khẳng định chủ quyền với cường quốc bắc phương như thế là một đòn giáng chí mạng vào những kẻ đang thừa cơ gây họa đối với dân tộc ta.

Và còn có cả nỗi căm hờn, uất nghẹn với tội ác tày trời của bè lũ cướp nước và bán nước. Làm sao chúng ta có thể quên những cảnh tượng đầy ám ảnh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Suốt hai mươi năm bại nhân nghĩa, nát cả đất trời, từ con người thậm chí đến loài côn trùng cây cỏ cũng đều bị tàn sát thương tâm. Tội ác ấy nước Đông Hải không rửa sạch mùi, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, muôn đời chứng cớ còn ghi. Mỗi cảnh người, cảnh nhà, cảnh đất nước đều tan hoang dưới lưỡi lê của loài khát máu… Làm sao chúng ta quên? Nguyễn Trãi như chạm vào nỗi đau nhức nhối đến tận tim gan, xương tủy, mà hiển nhiên nhận ra biết bao kẻ thù, đâu chỉ giặc Minh trong suốt chiều dài lịch sử giữ nước cũng đều mang chân tướng của những kẻ bạo tàn. Vì thế mà một nỗi đau như làm trỗi dậy nhiều nỗi đau để rồi không được quên sứ mệnh phải bảo vệ đất nước, đánh đuổi bè lũ kia.

Hơn thế, có cả sự trăn trở, lo âu cho vận mệnh đất nước với tấm lòng ái quốc, thương dân chứa chan. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Trãi dùng đến hơn hai mươi câu văn để nói về chủ tướng Lê Lợi. Một hình mẫu của bậc anh hùng bước ra từ đời sống của nhân dân. Từ xuất thân đến cách xưng hô đều rất gần gũi, Lê Lợi đau nỗi đau dân tộc như dân mình, căm thù và nung nấu quyết tâm trả thù giặc như dân mình, khát vọng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đánh giặc như dân mình. Từ thấu hiểu, thương yêu đến hành động, vị lãnh tụ ấy đã biến yếu thành mạnh, lấy ít địch nhiều, sáng tạo ra những cách đánh xuất kì, mai phục dần dần tiến đến những thắng lợi vẻ vang. Nhưng đọc Bình Ngô đại cáo chắc chắn ai cũng biết, quân ta thắng đâu chỉ bởi có những thuận lợi trên, mà còn bởi nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử và luôn nêu cao tinh thần:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo

Đại nghĩa, chí nhân – chẳng phải là kim chỉ nam, là ánh sáng soi rọi cho dân tộc ta lập những chiến công oai hùng sau đấy. Và muôn đời sau tư tưởng này vẫn mãi mãi trở thành ngọn đuốc cho tinh thần đấu tranh chính nghĩa của Đại Việt trước mọi kẻ thù.

Hay cả khí thế sục sôi, quyết liệt của những ngày tháng kháng chiến oai hùng. Có lẽ chất hùng văn của bản đại cáo được thể hiện rõ nhất ở đoạn tái hiện lại trang sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Liên tiếp những trận đánh, liên tiếp những đợt phản công của ta cũng là liên tiếp những lần thất bại của kẻ thù. Xuất phát từ xứ Nghệ, xứ Thanh rồi đến Đông Đô, Thăng Long, khung cảnh chiến trường đầy khốc liệt sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, máu chảy thành sông, thây chất đầy nội, sắc phong vân phải đổi, ánh nhật nguyệt phải mờ. Ta cứ thế mà thừa thắng xông lên bẻ gãy từng họng kìm, chặn đứng mọi ngả đường chi viện. Địch hiện lên hoàn toàn đối lập với lúc xưa. Trước đó thằng há miệng, đứa nhe rang, máu mỡ bấy no nê chưa chán vậy mà giờ nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, bêu đầu, bỏ mạng, bó tay để đợi bại vong, trí cùng lực kiệt, thất thế, cụt đầu, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn, lê gối dâng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hàng… Nguyễn Trãi đã tái hiện lại dường như không bỏ sót, chân tướng kẻ thù hiện lên thật nhục nhã, thảm hại. Tuy nhiên điều tâm phục, khẩu phục trong chiến thắng của ta chính là ở con đường hiếu sinh mở ra cho giặc. Một lần nữa tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời lại phát huy. Biết dừng đúng lúc, không dồn kẻ thù đến bước đường cùng, đó là đại nghĩa, chí nhân. Chiến thắng ấy mới trở thành bất tử, huyền thoại trong lịch sử nước nhà. Âm vang của một thuở oai hùng cũng vì thế mà vang vọng đến ngàn năm.

Cuối cùng cảm xúc vút lên thành lời ca đầy trang trọng, hào sảng, hạnh phúc, vui sướng vì đất nước hoàn toàn độc lập, tự do. Giấc mơ về hòa bình nay đã trở thành hiện thực. Hẳn là người viết phải xúc động biết chừng nào!

Xã tắc từ nay vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh,
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Quy luật của tồn vong, suy thịnh là như thế, nhưng vẫn phải xuất phát từ sự đồng sức, đồng lòng của nhân dân tướng sĩ, từ tài năng trác việt của những bậc anh hùng, từ nền tảng trọng nhân nghĩa, chuộng hòa bình. Điểm tựa ấy có từ hàng trăm năm trước và vẫn trở nên vững chắc cho hàng trăm năm về sau mà bài cáo như một lời nhắc nhở.

Đúng là Bình Ngô đại cáo, khúc khải hoàn ca, anh hùng ca sáng chói cả một thời đã hội tụ biết bao nhiêu cảm xúc vậy như thể tiếng chuông ngân vang, đồng vọng từ quá khứ dội về, hướng chúng ta ở thời đại nào cũng thấy tự hào, kiêu hãnh. Nguyễn Trãi đã biến một văn kiện lịch sử mang tính khô khan, cứng nhắc, đầy chất sắc lệnh, trở thành một áng hùng văn say mê, trong sáng và có giá trị đến nghìn đời.

Nhưng ý nghĩa “thiên cổ hùng văn” của tác phẩm còn thể hiện ở nghệ thuật viết văn chính luận tài tình, kiệt xuất của Nguyễn Trãi. Điều đáng nhớ của Đại cáo bình Ngô là đã đưa nghệ thuật viết văn chính luận trung đại đạt đến một trình độ mẫu mực, bậc thầy. Bản đại cáo hướng tới đối tượng là nhân dân bá tánh Đại Việt để tuyên bố về nền độc lập sau chiến thắng giặc Minh. Tuy nhiên, chiến tranh không còn nhưng tính luận chiến của nó vẫn sáng tỏ. Nhà văn vẫn hướng một mực tới kẻ thù, tới thế lực cực cường mà bao đời nay luôn nhòm ngó. Nền độc lập là quyền bất khả xâm phạm, không chỉ quân Lam Sơn đã bảo vệ thành công mà từ đời trước đến cả đời sau vẫn vậy. Nên bài cáo như một lần nữa chiến đấu trực diện với kẻ thù trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta có đầy đủ các yếu tố tương xứng để xác lập chủ quyền, đã kiên cường đứng lên chiến đấu để bảo vệ. Chiến thắng của ta là có thật, thất bại của kẻ thù không còn gì bàn cãi. Bản đại cáo vang lên như một lời phán xử cuối cùng tại tòa án nhân nghĩa. Lời phán xử ấy đanh thép, hùng hồn khắc sâu vào tâm khảm người dân đất Việt mãi ngàn năm.

Bên cạnh đó, bản đại cáo có một kết cấu vô cùng chặt chẽ. Xuất phát từ cơ sở lí luận nêu chân lý chính nghĩa muôn đời đến vạch trần tội ác trời không dung đất không tha của kẻ thù để nói lên thực tiễn cần phải đấu tranh để bảo vệ chân lý ấy. Nguyễn Trãi đã đặt nền móng vững chắc rồi dần dần xây những bức tường thành vững trãi về quá trình bảo vệ độc lập của nhân dân ta. Lối văn biền ngẫu được Nguyễn Trãi sử dụng rất tài tình. Sự đối xứng trong từng câu văn kết hợp với bút pháp tương phản, ước lệ đậm chất sử thi đã dựng nên một bức tranh tráng lệ, oai hùng một thuở. Lập luận trong bài cáo đầy sắc bén khi lấy tư tưởng nhân nghĩa làm gốc. Mọi nội dung triển khai đều dựa trên tư tưởng này. Vì vậy mới vạch trần được bộ mặt xảo trá, thâm độc của kẻ thù, mới thấy cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng của dân tộc là chính nghĩa. Cứ từ nhân nghĩa thì việc đất nước được hòa bình là điều tất yếu mà thôi. Ngôn ngữ của bài cáo cũng là một trong những yếu tố làm nên giá trị, vì giàu chất tạo hình, tạo nên đa dạng sắc thái giọng điệu mang tới nhiều cảm xúc. Tuy nhiên một trong những yếu tố nữa để bản đại cáo mãi trường tồn là phần văn bản dịch rất thành công, đã chuyển tải một cách nguyên vẹn cảm xúc từ văn bản gốc để các thế hệ sau cảm nhận được dễ dàng.

Xin được mượn lời của nhà thơ Xuân Diệu để thay cho lời kết: “Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn”.

]]>
https://quatangtiny.com/chung-minh-binh-ngo-dai-cao-la-ang-thien-co-hung-van-20311/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích ý nghĩa của hồi trống trong Hồi trống Cổ thành https://quatangtiny.com/phan-tich-y-nghia-cua-hoi-trong-trong-hoi-trong-co-thanh-40098 https://quatangtiny.com/phan-tich-y-nghia-cua-hoi-trong-trong-hoi-trong-co-thanh-40098#respond Fri, 23 Oct 2020 13:52:47 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-y-nghia-cua-hoi-trong-trong-hoi-trong-co-thanh-40098

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên
  3. Nghị luận về câu Biển học là mênh mông sách vở chỉ là vùng biển gần bờ (Dàn ý + 4 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích ý nghĩa của hồi trống trong Hồi trống Cổ thành, Tài Liệu Học Thi mời thầy cô cùng các bạn học sinh lớp 10 cùng tham khảo tài liệu: Phân

Hồi trống cổ thành thuộc hồi thứ 28 kể lại diễn biến Quan Công gặp lại Trương Phi với nội dung hết sức gay cấn, hấp dẫn. Đoạn trích không chỉ hấp dẫn ở nội dung giàu kịch tính mà còn hấp dẫn bởi những chi tiết giàu ý nghĩa mà trước hết chính là chi tiết hồi trống.

Sau đây, mời các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu: Phân tích ý nghĩa của hồi trống trong Hồi trống Cổ thành được chúng tôi tổng hợp chọn lọc những bài văn mẫu hay nhất của các bạn học sinh lớp 10 trên toàn quốc. Mời bạn đọc cùng tham khảo.

Dàn ý phân tích ý nghĩa của hồi trống trong Hồi trống Cổ thành

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả La Quán Trung và tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa”: La Quán Trung là người mở đường cho tiểu thuyết lịch sử thời Minh – Thanh. Tam Quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng với 120 chương.

– Giới thiệu về đoạn trích hồi trống cổ thành: vị trí, nội dung

– Giới thiệu chi tiết hồi trống cổ thành: Là chi tiết đặc sắc của truyện mang nhiều ý nghĩa.

II. Thân bài

1. Vị trí chi tiết

– Nằm ở cuối đoạn trích.

2. Nội dung chi tiết.

– Trương Phi nghi ngờ Quan Công đem quân đến để bắt mình, Trương Phi đùng đùng nổi giận múa bát xã mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.

– Quan hết lời giải thích, được Trương Phi cho một cơ hội để thể thể hiện tấm lòng: Sau ba hồi trống phải lấy được đầu tên tướng giặc.

– Trương Phi thẳng cách đánh trống, chưa dứt một hồi đầu Sái Dương đã lăn xuống đất.

– Quan Công bắt một tên lính và hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, Trương Phi hỏi kĩ việc ở Hứa Đô. Quan Công được minh oan.

3. Ý nghĩa chi tiết

– Nếu ra trận, những hồi trống khác là hồi trống thúc giục tiến lên, làm nức lòng ba quân tướng sĩ, thì hồi trống Cổ Thành đúng như La Quán Trung viết: “Chém Sái Dương, anh em hòa giải /Hồi Cổ Thành, tôi chúa đoàn viên”

– Hồi trống thách thức: Đây là hồi trống để thử thách lòng trung thành của Quan Công, thử thách tài năng của Quan Công. Hồi trống vang lên cũng có nghĩa là Quan Công phải lao vào một cuộc chiến đối mặt với kẻ thù, đối mặt với hiểm nguy và cái chết. Tiếng trống giục giã như hối thúc nhân vật hành động.

– Hồi trống minh oan: Quan Công đã không ngần ngại chấp nhận lời thách thức của Trương Phi để khẳng định lòng trung thành của mình. Bản thân sự dũng cảm đó đã thể hiện được tấm lòng Quan Công. Hơn thế nữa, ngay khi chưa dứt một hồi trống, đầu Sái Dương đã rơi xuống đất, và những tiếng trống tiếp theo đó chính là để minh oan cho Quan Công.

– Hồi trống đoàn tụ: Kết thúc ba hồi trống, Quan Công giết tướng giặc, mọi nghi ngờ được hóa giải, và đó là lúc mà các anh hùng đoàn tụ. Hồi trống còn có ý nghĩa như là sự ngợi ca tình nghĩa huynh đệ, ngợi ca tấm lòng trung nghĩa của các anh hùng. Tiếng trống lúc này không còn thúc giục, căng thẳng, vội vã mà tiếng trống như reo vui chúc mừng cuộc hội ngộ của ba anh em.

→ Hồi trống thể hiện không khí hào hùng của chiến trận, là hồi trống thúc giục tinh thần chiến đấu, ca ngợi tài đức của các anh hùng. Đó là hồi trống thể hiện niềm vui, khẳng định niềm tin và ngợi ca chiến thắng.

→ Hồi trống cổ thành cũng có ý nghĩa tháo nút cho câu chuyện, tạo nên một kết thúc tốt đẹp cho câu chuyện.

III. Kết bài

– Khái quát vị trí vai trò của chi tiết hồi trống.

– Thể hiện cảm nhận của bản thân: Là chi tiết đặc sắc, thú vị đầy gay cấn đem lại hứng thú cho người đọc.

Phân tích ý nghĩa của hồi trống trong Hồi trống Cổ thành – Mẫu 1

Hồi trống cổ thành thuộc hồi thứ 28 kể lại diễn biến Quan Công gặp lại Trương Phi với nội dung hết sức gay cấn, hấp dẫn. Đoạn trích không chỉ hấp dẫn ở nội dung giàu kịch tính mà còn hấp dẫn bởi những chi tiết giàu ý nghĩa mà trước hết chính là chi tiết hồi trống.

Sau khi ba anh em Lưu – Quan – Trương rời bỏ Tào Tháo và bị Tào Tháo đuổi đánh khiến ba anh em mỗi người một ngả: Lưu Bị chạy về với Viên Thiệu, Trương Phi ở Cổ Thành, còn Quan Công vì phải bảo vệ chị dâu (vợ Lưu Bị) nên phải ở lại chỗ Tào Tháo, nhưng Quan Công chỉ hàng Hán chứ không hàng Tào và đưa ra điều kiện khi nghe tin anh mình là Lưu Bị ở đâu lập tức sẽ đi tìm anh ngay. Quan Công lên đường tìm Lưu Bị và trong quá trình ấy đã gặp lại Trương Phi. Khi hai anh em gặp lại nhau đã có biết bao biến cố xảy ra.

Khi gặp lại Quan Công, ngay lập tức Trương Phi khẳng định Quan Công là kẻ phản bội bởi: Tôi trung không bao giờ thờ hai chủ (Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ). Bởi vậy, khi biết Quan Công ở doanh trại của Tào Tháo, Trương Phi đã có hành động vô cùng quyết liệt, dứt khoát: Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa bắc với mục đích đánh lại Quan Công. Dù nhận được lời khuyên từ hai phu nhân và Tôn Càn, Trương Phi vẫn nhất quyết không tin. Hơn nữa Trương Phi còn thấy một toán quân của Tào, cho đó là Trương Phi đem quân đến để bắt mình. Hai hiểu lầm công gộp với nhau khiến cho mâu thuẫn ngày càng lớn và cần giải quyết. Trương Phi đã lựa chọn hình thức thử thách cho Quan Công, đó là sau ba hồi trống Quan Công phải giết được tướng Tào để chứng minh sự trong sạch của mình. Bởi vậy hồi trống này có nhiều ý nghĩa.

Đối với Trương Phi đây là hồi trống có ý nghĩa thách thức Quan Công, đặt Quan Công vào thử thách buộc phải vượt qua để minh chứng cho sự trong sạch của bản thân. Cũng cần lưu ý số hồi trống mà Trương Phi đưa ra cho Quan Công là ba hồi, tại sao là ba hồi chứ không phải ít hơn hay nhiều hơn. Ta biết rằng, Trương phi là con người hết sức nóng nảy, bởi vậy nếu là năm hồi sẽ quá lâu và Trương Phi không thể kiên nhẫn chờ đợi. Còn nếu là một hồi thì lại quá ít khiến Quan Công bị đặt vào tình thế khó có thể chứng minh. Như vậy, ba hồi là hợp lí nhất, là thời gian vừa đủ để Quan Công minh chứng mình trong sạch, đồng thời ba hồi cũng thể hiện hi vọng, mong muốn của Trương Phi đối với Quan Công.

Còn đối với Quan Công đây là hồi trống minh oan. Khi nhận được yêu cầu của Trương Phi, Quan Công lập tức đồng ý ngay, bởi Quan Công hiểu rất rõ tính cách của Trương Phi, nếu không minh chứng được thì mãi mãi Trương Phi không công nhận sự trong sạch của Quan Công. Quan Công là người tự ra điều kiện để lấy lại lòng tin của Trương Phi, chém đầu Sái Dương, chấp nhận thêm điều kiện về thời gian của Trương Phi, nhanh chóng thực hiện. Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo. Dưới trướng Tào Tháo, Sái Dương là người duy nhất không phục Quan Công. Tần Kì – một người trong số 6 tướng bị Quan Công giết lại là cháu ngoại của Sái Dương. Khi Tào Tháo không đồng ý cho đi giết Quan Công thì Sái Dương vẫn nhất quyết đi. Bởi vậy lựa chọn giết Sái Dương là lựa chọn đúng đắn nhất. Ngoài ra, để tăng sức thuyết phục với Trương Phi, Quan Công còn bắt một tên lính Tào, kể lại đầu đuôi cho Trương Phi hiểu. Quan Công là người trung nghĩa, tài năng, khôn khéo, bình tĩnh, gỡ được tình thế khó khăn.

Sau những khó khăn, thử thách đó họ đã nhận ra nhau, bởi vậy hồi trống còn mang một ý nghĩa khác là hồi trống đoàn tụ. Sau khi nghe những lời chị dâu kể về vô vàn những khó khăn mà Quan Công phải trải qua để bảo vệ chị dâu bởi vậy Trương Phi đã quỳ xuống và khóc. Hành động đó đã cho thấy nỗi niềm thương anh sâu sắc cũng nhưng sự ân hận khi đã đối xử tệ bạc với anh, đồng thời hành động quỳ xuống cũng như là một lời tạ tội Trương Phi gửi đến Quan Công.

Với chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu ý nghĩa, hồi trống không chỉ cho thấy tình cảm sâu nặng mà Trương Phi dành cho Quan công mà còn cho thấy sự bình tĩnh, bản lĩnh tự tin của Quan Công để minh chứng sự trong sạch của mình. Đồng thời chi tiết này cũng cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của tác giả.

Phân tích ý nghĩa của hồi trống trong Hồi trống Cổ thành – Mẫu 2

Hồi trống Cổ Thành là tên do người biên soạn đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa hồi 28, có hai câu thơ làm tiêu đề:

Chém Sái Dương anh em hoà giải,
Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên.

Chữ hồi trong câu thơ này có nghĩa là trở về, chứ không phải là hồi trống như trong tên đoạn trích.

Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật, nhưng sinh động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành rất giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không bình phẩm. Linh hồn đoạn trích kết tụ trong hồi trống của Trương Phi. Đó là hồi trống ra quân, cũng là hồi trống thu quân, hồi trống thách thức giải oan và đoàn tụ. Nội dung đoạn trích toát lên hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt vời trung nghĩa của Trương Phi vá ý nghĩa sâu xa của hồi trống Cổ Thành.

Lúc mới dựng nghiệp, nhà Thục còn yếu. Trong khi đó quân Tào rất mạnh, vì thế nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Quan Công, Trương Phi bàn mưu kế chống lại Tào Tháo. Bị bại lộ, Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi kéo hai mươi vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người chạy một ngả. Lưu Bị chạy sang Nhữ Nam ở nhờ Viên Thiệu, Quan Công bị khốn ở Thổ Sơn, Trương Phi tá túc ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân sang ở nhờ Tào Tháo. Tạm hàng Tào Tháo nhưng Quan Công ra điều kiện rằng nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ đi tìm ngay.

Biết tin Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công đưa hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo vì muốn lưu giữ Quan Công để sử dụng sau này nên không cấp giấy qua ải, nhưng cũng không sai tướng đuổi bắt. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công qua ải nên ông phải mở đường máu mà đi. Quan Công đã phải chém sáu tướng Tào để vượt qua năm cửa ải: Qua ải Đổng Lĩnh chém Khổng Tú. Đến ải Lạc Dương chém Hán Phúc và Mạnh Thẩn. Qua Nghi Thuỷ giết Biện Hỷ. Vượt ải Huỳnh Dương chém Vương Thực. Đến bờ Hoàng Hà giết Tân Kỷ.

Đoạn trích kể về cuộc “đụng độ” đặc biệt do sự hiểu lầm giữa hai anh em kết nghĩa là Quan Công và Trương Phi ở Cổ Thành. Trên đường sang Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến Cổ Thành, Quan Công hỏi thăm được biết Trương Phi đang ở đấy nên xiết bao vui mừng. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công ăn ở hai lòng nên đã lầm tưởng là Quan Công lừa mình để bắt nộp cho Tào Tháo; vì thế giận dữ không thèm tiếp, lớn tiếng sỉ mắng và dọa đánh. Ngẫu nhiên, lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân ầm ầm kéo đến khiến Trương Phi càng khẳng định thêm nghi ngờ của mình là đúng. Thanh minh không được, Quan Công hứa sẽ chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng Tào thì mới tin. Nhưng Trương Phi vừa đánh dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi tạm nguôi giận nhưng chỉ sau khi nghe tên lính hầu của Sái Dương cũng bị Quan Công bắt, kể đầu đuôi mọi chuyện thì chàng mới tin, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường. Quan Công vào được Cổ Thành, “cửa ải thứ sáu” và cũng là cửa ải thử thách ghê gớm nhất đối với lòng trung nghĩa.

Trương Phi là con người thẳng như là tên bắn, sáng như tấm gương soi, không chấp nhận sự quanh co, lắt léo. Đối với Trương Phi, đen trắng phải rõ ràng; với kẻ thù thì chỉ có thể nói chuyện bằng gươm giáo. Tính cách Trương Phi vốn dĩ nóng nảy; bộc trực và đơn giản, song để xác định Quan Công trung thành hay phản bội, Trương Phi lại không đơn giản chút nào. Khi nghe tin Quan Công đến, Trương Phi giận dữ mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.

Câu hỏi của Quan Công: Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào, càng làm cho Trương Phi bừng bừng nổi giận. Ý của Quan Công là muốn nhắc lại việc ba anh em kết nghĩa vườn đào để uốn nắn thái độ quá khích của Trương Phi, không ngờ lại như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Trương Phi thêm phẫn nộ. Theo Trương Phi, Quan Công đã ở chung với Tào Tháo một thời gian, lại nhận tước vị Tào Tháo phong cho là phản bội. Đã phản bội mà còn dám động đến chuyện anh em kết nghĩa vườn đào thì lại càng đáng căm thù và phỉ nhổ. Quan Công phản bội thì phải xử đúng như lời thề trước đây: Nếu ai bội nghĩa quên ơn thì trời người cũng giết. Những lời thanh minh giúp cho Quan Công của hai chị dâu và Tôn Càn không làm dịu bớt cơn thịnh nộ của Trương Phi.

– Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ. Chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!

Mi phu nhân cũng nói:

– Chú Hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.

Phi nói:

– Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ ?

Quan Công nói:

– Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng quá!

Tôn Càn nói:

– Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.

Trương Phi mắng:

– Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó!

Tôn Càn bênh vực Quan Công không được mà Cam phu nhân, Mi phu nhân thanh minh hộ cũng vô hiệu. Với Trương Phi, dẫu có “trăm nghe” cũng không bằng “một thấy”. Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi đã hết sức cẩn trọng. Quan Công thanh minh: Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quản mã chứ? Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói: Không phải quân mã là gì kia ? Sự hiểu lầm đã lên tới điểm đỉnh vì một chi tiết ngẫu nhiên: Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy đuổi Quan Công đang tới gần. Để xoá bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ có cách là chém đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém rơi đầu tướng của Tào Tháo. Dứt lời, Trương Phi lập tức đánh trống. Bao nhiêu uất ức, căm giận của Trương Phi như dồn cả vào cánh tay thúc trống.

Chỉ sau một hồi, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất. Tưởng thế là mọi việc đã rõ và câu chuyện nhanh chóng đi đến kết thúc, song thực tế lại diễn ra không đơn giản. Mãi đến khi nghe một tên lính bị bắt kể về lí do Sái Dương đến Cổ Thành là để truy đuổi và trị tội Quan Công vì đã giết cháu ngoại hắn; rồi Trương Phi còn hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, bấy giờ Phi mới tin anh là thực. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội biểu lộ rõ thái độ ngay lúc ấy mà cho tới lúc đã vào Cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những việc Quan Công đã trải qua thì Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường.

Nóng nảy, thô lỗ và tinh tế, biết điều là hai nét tính cách đối lập song ở đoạn trích này, chúng lại xuất hiện trong cùng một nhân vật Trương Phi. Trương Phi đã từng dùng mưu mẹo tinh vi để bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo và bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không hề làm hao tổn một binh sĩ. Thô trung hữu tế (trong cái thô có cái tinh tế) là biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và tinh tế ở đây đều là biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình huống ở Cổ Thành, việc hạ thủ Quan Công có lẽ còn dễ hơn, đơn giản hơn là kiểm nghiệm lòng trung thành của Quan Công. Cái khéo léo của tác giả là đã tạo ra những tình huống để cho cả hai nét trái ngược trong tính cách Trương Phi cùng bộc lộ vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn.

Trong đoạn trích Hồi trống Cổ Thành, Quan Công tỏ ra rất độ lượng và từ tốn, thể hiện qua các chi tiết nổi bật như: ngạc nhiên và hốt hoảng trước cách xử sự của Trương Phi, thái độ nhún mình thanh minh trước người em nóng nảy, cầu cứu hai chị dâu, chấp nhận điều kiện khắc nghiệt để minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là nỗi oan đặc biệt: làm công việc vì chủ tướng nhưng lại trái với khí phách của kẻ anh hùng, phải tự minh oan bằng tài nghệ và lòng dũng cảm, phi thường.

Để đến được Cổ Thành, Quan Công đã phải vượt qua bao thử thách (năm cửa ải). Những kẻ cản dường trong hành trình gay go này là các tướng địch. Còn tại Cổ Thành, oái oăm thay, kẻ cản đường quyết liệt lại là anh em kết nghĩa! Với tài nghệ xuất sắc chém rơi đầu Sái Dương trong nháy mắt, vấn đề trung thành hay phản bội của Quan Công đã được làm sáng tỏ.

Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong quan hệ đối sánh với Trương Phi. Người đời khen Quan Công “tuyệt nghĩa”. Nhưng chữ “nghĩa” cũng có hai mặt trung nghĩa và tín nghĩa. Trung nghĩa là lòng trung thành với vua, với lí tưởng phò nhà Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín nghĩa là lòng tin trong quan hệ giữa bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng. Đoạn trích có hai nhân vật, nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền để tính cách của Trương Phi nổi bật.

Cái tên Hồi trống Cổ Thành rất hay vì trước hết, nó gợi lên không khí chiến trận, ở đây không chi có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công mà còn là mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy đó chỉ là mâu thuẫn thứ yếu song nó cũng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chủ yếu thêm quyết liệt.

Ba hồi trống là điều kiện, hơn thế, là vị quan toà nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung thành hay phản bội. Điều kiện ba hồi trống Trương Phi đặt ra là vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chém được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương là tướng giỏi của Tào Tháo đã từng công khai biểu thị thái độ không phục Quan Công, giờ lại mang quyết tâm trả thù rất cao cho cháu, đó cũng là thách thức to lớn với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã làm tăng sức mạnh và tài nghệ của Quan Công, cho nên Quan Công đã làm được một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chém rơi đầu Sái Dương trong nháy mắt.

Bởi vậy, Hồi trống Cổ Thành dù mang đậm không khí trận mạc song rất khác tiếng trống trận thông thường. Nó đã trở thành một biểu tượng cho lòng trung nghĩa, tinh thần dũng cảm và thái độ công minh chính trực.

Có thể coi Cổ Thành là cửa ải thử sáu nhưng đó là cửa ải tinh thần, cửa ải khảo nghiệm lòng trung nghĩa. Với tài nghệ của Quan Công, vượt qua năm cửa ải kia còn dễ hơn nhiều. Trong cái thế “tình ngay lí gian” thì việc biện bạch, giải quyết thông suốt những mắc mớ trong tư tưởng, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi quả là cực khó.

Sự hiểu lầm của Trương Phi đối với Quan Công có lí do cụ thể và đã được tháo gỡ. Song điều đáng quý là qua sự cố hiểu lầm ấy, tác giả đã triển khai một xung đột có tính chất nguyên tắc: đó là không thể nào dung hoà giữa ý chí bất khuất và sự đầu hàng, giữa lòng trung thành và sự phản bội.

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh như một vở kịch đầy kịch tính. Đây là một đặc điểm trong nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết cổ điển mà mỗi chương hồi thường là một câu chuyện có mở đầu và kết thúc. Phần trình bày giới thiệu nhân vật, sự việc, hoàn cảnh. Phần mở mối ở đây là từ sự hiểu lầm dẫn đến mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Phần phát triển là sự xuất hiện đột ngột của Sái Dương, đánh dấu đỉnh điểm mâu thuẫn. Việc Quan Công chém rơi đầu Sái Dương là điểm mở nút khiến cho mâu thuẫn được giải quyết. Sau khi tác giả giới thiệu nhân vật và sự việc thì mở ra mâu thuẫn, rồi mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm và được giải quyết bằng một hành động quyết liệt.

Chỉ qua một đoạn trích ngắn là Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được tác giả khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp sáng ngời về lòng tin nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc diễn nghĩa đã để lại rất nhiều bài học về đạo lí, về lối sống, lối ứng xử của người quân tử phương Đông, lấy quy chuẩn luân lí nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho giáo làm mực thước.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-y-nghia-cua-hoi-trong-trong-hoi-trong-co-thanh-40098/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Cảm nghĩ khi xa nhà https://quatangtiny.com/cam-nghi-khi-xa-nha-41046 https://quatangtiny.com/cam-nghi-khi-xa-nha-41046#respond Fri, 23 Oct 2020 13:00:06 +0000 https://quatangtiny.com/cam-nghi-khi-xa-nha-41046

Related posts:

  1. Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 4)
  2. Bài viết số 1 lớp 8: Đề 1 đến Đề 3 (Dàn ý + 27 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Cảm nghĩ khi xa nhà, Cảm nghĩ khi xa nhà là những cảm xúc thật nhất, chân thành nhất của những ai đã và đang sống xa gia đình, xa nơi mình sinh

Cảm nghĩ khi xa nhà là những cảm xúc thật nhất, chân thành nhất của những ai đã và đang sống xa gia đình, xa nơi mình sinh ra. Hãy cùng Tài Liệu Học Thi tham khảo bài văn mẫu Cảm nghĩ khi xa nhà được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.

Tài liệu được thể hiện chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn học sinh lớp 10. Hi vọng qua tài liệu này các bạn đã có được những sự tham khảo để làm văn tốt hơn. Chúc các bạn thành công, học tập tốt.

Cảm nghĩ khi xa nhà – Mẫu 1

Mưa! Lại mùa mưa. Tôi lặng lẽ đứng ngoài lan can phòng học buồn bã nhìn những cơn mưa ồn ào đổ xuống… Vậy là tôi đã xa quê thật rồi!

Trường mới, bạn bè mới,, cuộc sống mới… càng làm cho những hình ảnh tuổi thơ lại hiện về trong tôi da diết. Sân trường kia đâu có những hàng cây nở hoa vàng rực rỡ, đâu có những trò chơi dân dã của quê tôi. Chỉ có hàng phượng già và những cây bằng lăng hết mùa hoa nở, xanh nhẫn nại trong chiều. Tất cả lạ lẫm trước tôi, làm cho tôi lẻ loi, lạc lõng. Thầy có cùng khác, giọng giảng bài nghe lạ quá! Tiếng thầy vẫn ấm, nhưng không xua tan được những bỡ ngỡ ban đầu trong tôi. Tôi chỉ thấy nhớ nhà, nhớ lớp, nhớ quê… Tất cả cứ hiện về trong tôi ập ào và da diết!

Tôi nhớ lớp nhớ lũ bạn, cùng bạn thường rủ nhau hái hoa dại ép, màu tím thủy chung của loài hoa trinh nữ khô giòn trong trang sách, có hôm tranh nhau làm từng bông vỡ vụn, tiếc ngẩn ngơ rồi lại cười giòn tan! Nhớ những ngày dong đuổi đạp xe, con đường tới trường thơm mùi cỏ ướt, tôi thường hít và thích thú trước ánh mắt tròn xoe của bọn bạn. Hình như chỉ mình tôi cảm nhận được cái mùi của ban mai ấy. Giờ con đường tôi đi, chỉ toàn bê tông vững chắc đâu còn chỗ cho cỏ nữa đâu. Bạn bè tôi chắc giờ đang nhớ tôi nhiều lắm, có khi còn khóc nữa; chúng nó ép hộ hoa cho tôi không? Có chờ tôi trở về để đi tiếp con đường tuổi nhỏ, để dệt những buổi chiều chăn trâu, cắt cỏ, cỏ may cứa vào chân ran rát. Tan chiều, thường ngồi lại gỡ cỏ cho nhau, rồi chọc nhau cười vang cả đồng quê. Tôi nhớ dòng sông nhỏ cạnh nhà tôi, nơi tôi và em gái thường thả thuyền tre, và tin thuyền sẽ trôi ra biển. Xa tôi rồi, em tôi có còn thả nữa, hay sẽ viết thư vào lá, thả xuống dòng nước trong: Lá thư cầu nguyện! Em cầu nguyện cho tôi bình yên nơi phố phường xa lạ, để sớm trở về thăm em và chơi cùng kể cho em nghe về vùng đất mới, về bạn mới, trường mới…

Những bờ hoa dại trắng nơi tôi và em thường dắt nhau ra hái bây giờ có nờ nữa không? Bây giờ chĩ mình em ngồi bên bàn học, chẳng có ai la rầy em nữa, chẳng có ai giúp em giải những bài tập khó, em có buồn không! Ôi, những buổi chiều, được cùng em mang diều chạy trên bờ đê lộng gió. Sao vui đến thế? Bây giờ ai giúp em thả vầng trăng xanh ấy mỗi chiều? Em có tự làm không?

Bạn bè tôi giờ ra sao? Tôi nhớ tiếng cười, nhớ giọng nói, ánh mắt của từng đứa. Nhớ cả những giờ phút chia tay, bạn bè chúc nhau thi đậu. Vậy mà nay không còn đi chung trên con đường tới lớp, không được học chung dưới một mái trường. Mười lăm tuổi đầu, tôi khăn gói lên đường, xa tất cả để đến một Thành phố lạ. Đã bắt đầu một cuộc sống phải lo toan. Chiều tan học, tôi một mình lang thang đạp xe trên phố. Mưa tầm tã suốt những ngày qua, tiếng ồn ào không đủ làm cho thành phố bớt ưu tư, lòng tôi trĩu nặng. Mưa hắt vào mặt ran rát, buồn đến phát khóc. Nhớ bố mẹ, nhớ bà, và nhớ em quá đỗi! Chiều nay, không có Mai, có Hồng đạp xe bên tôi nữa, không được bỏ áo mưa ra để tắm trọn một đường mưa. Bây giờ, lỡ xe tôi hư hỏng, ai sẽ vác giùm tôi như Hồng? Lỡ tôi khóc, ai dỗ tôi như Mai? Không ai cả, chi mình tôi đi trong chiều giá lạnh. Tôi cũng không được xà vào bếp với bà, để được bà xoa dầu âu yếm, không được mẹ vồn vã, lo lắng đưa cho chiếc khăn lau những giọt nước mưa đọng trên mặt, không được tắm nồi nước lá thơm bà nấu nữa, bữa cơm chiều cũng vắng tôi, cả nhà sẽ nhắc tôi thật nhiều hay mẹ lại khóc? Em chẳng còn ai tranh ti vi nữa, mẹ cũng không phải làm trọng tài phân xử. Tôi đi rồi, mọi thứ cũng đổi thay…

Chiều nay tôi không được trốn mẹ ra bờ sông đứng nhìn cánh đồng quê lênh láng nước; nhưng tôi vẫn biết, lúa quê mình đã chìm dưới biển nước mất rồi. Thương những bác nông dân cần cù, chăm chỉ để đến ngày này lũ lụt ùa về mất trắng một mùa vui. Chiều nay, nước lên đến ngõ nhà tôi chưa? Mẹ có ngồi bần thần bên cửa nữa? Mất mùa rồi… lại tháng ba ám ảnh. Mắt bố đầy âu lo.

Mưa ơi! Chiều nay không được trùm chăn chờ bố đi giăng lưới về nữa. Những con cá vẫn quẫy một vùng ký ức của tôi, ký ức có tiếng cười của bố lẫn vào mưa, có dáng bà lưng còng bên bếp lửa, khói chiều nghiêng trên mái bếp bình yên. Không được hái cho bà những lá trầu vàng rộm nữa, vườn trầu mưa này có run rẩy tàn đi? Thành phố ơi, sao lạ nhiều đến vậy, mưa thật nhiều và chỉ có mình tôi.

Con đường tôi đi, xe cộ tấp nập qua, hối hả quá, và cũng vô tình quá! Tôi chạnh lòng thấy bác xe ôm, lặng lẽ đứng chờ khách dưới mưa. Giờ này ai cũng được trở về sum họp với gia đình, mà bác như cây cột đến nhẫn nại bám trụ các ngả đường dù nắng, dù mưa, dù ngày hay tối. Tôi lại nhớ bố, nhớ những đêm bố đi gác, căn nhà như trống trải hơn, tôi thường nằm thấp thỏm, chỉ chờ tiếng bước chân nặng nề quen thuộc bước vào nhà, tôi mới bình yên chìm vào giấc ngủ. Giờ này, các cô, các bác bán hàng rong cũng vội vã đi về trên những vỉa hè. Nhìn đế dép mòn vẹt tôi tự hỏi những bàn chân này đã đi không biết bao nhiêu nẻo đường, qua bao nhiêu con phố, qua bao nhiêu ngày đòn gánh trên vai? Tôi lại nhớ bờ vai của mẹ, của bà, cái bờ vai suốt một đời gồng gánh, giờ đã thành chai. Bờ vai ấy đã cho tôi những giấc ngủ bình yên, cho tôi sự chở che lúc vui, buồn trẻ dại. Tôi thấy lòng nhẹ hơn, khi bên mình không có người thân bè bạn, nhưng vẫn có những con người tôi rất đỗi tin yêu. Tôi thấy được hình ảnh bố mẹ tôi trong hình dáng những con người lao động nơi này; thấy như được đồng cảm, sẻ chia. Xa nhà rồi, không còn được bà, bố mẹ cưng chiều chăm bẫm mới hiểu được tình yêu thương vô hạn mà mình được đón nhận, mới thấm thìa nỗi vất vả, khó khăn của gia đình. Mới thấy mình còn bé nhỏ biết bao nhiêu.

Mải miên man trong suy nghĩ, chợt thấy tiếng cười quen quen của ai đó cất lên. Tôi giật, mình ngoái lại, các bạn trường tôi đang cười nói vui vẻ, hồn nhiên, tiếng cười sao thân thương quá! Tôi bỗng thèm khát sự vô tư kia, thèm được nô đùa, thèm được cùng nhau đi dạo dưới sân trường, chia sẻ cho nhau nỗi nhớ quê nhà. Tôi nhớ lại lớp mới của tôi, chỉ vẻn vẹn ba mươi đứa con gái, nhiều khi nhìn nhau còn lúng túng. Nhưng có những nhóm bạn đã hòa nhập thân quen, trò chuyện rôm rả làm rộn lớp học buổi chiều. Sao tôi lại chưa làm điều đó, tất cả cũng đều như tôi mới từ giã mái trường cấp hai quê nhà đầy kỉ niệm, sao không cười với nhau và hỏi thăm nhau, tâm sự cùng nhau? Tôi muốn ùa nhanh vào lớp, để hỏi thăm từng bạn, kết thân và góp một tiếng cười vào không khí lớp. Nhưng chiều sắp tàn rồi, tôi phải về, chú dì đang chờ tôi, phố núi đang chờ tôi. Nhất định ngày mai tôi sẽ trò chuyện cùng các bạn, không đứng ngoài lan can một mình nữa! Tôi thấy bà, bố mẹ hình như đang cười với tôi:… xa nhà nhưng tôi vẫn thấy như lúc nào mọi người cũng ở bên tôi, ai cũng muốn tôi vui, tôi hòa nhập nhanh vào cuộc sống mới.

Ùa nhanh ra sân, những giọt mưa vẫn còn nặng, bong bóng vỡ đều trên nền xi măng trắng xóa. Bà ơi, bố mẹ ơi con sẽ tập trưởng thành.

Cảm nghĩ khi xa nhà – Mẫu 2

Những ngày này, đất trời Hà Nội như ngập trong biển nước. Bầu trời xám xịt. Trời mưa! Mưa kéo dài! Mưa như xối xả, như trút nước. Tôi một mình co ro trong chiếc chăn mỏng, thu mình lại trong góc nhà. Trời không lạnh mà lòng tái tê. Căn phòng trống vắng. Cô đơn lạnh lẽo và trong tôi bỗng ùa về hình ảnh cha mẹ, các em. Nhớ gia đình da diết. Lòng thắt lại. Ánh mắt vô định với những ước ao. Ước ao được nghe một tiếng cười, tiếng nói của cha mẹ, của em thơ để lòng vơi đi nỗi nhớ, nỗi cô đơn, để căn phòng bớt lạnh lẽo. Nhưng sao xa vời! Và tiếng khóc nấc lên từng hồi xen lẫn tiếng mưa nhạt nhòa.

Tuổi mười sáu, lần đầu tiên sống xa gia đình, xa cha mẹ và các em, xa quê hương. để nhập học một trường cấp ba ở Hà Nội. Trước ngày nhập học, háo hức về một cuộc sống mới, về một cuộc sống tràn đầy màu hồng với sự tự do, tự lập ở đất Hà Nội nhưng khi đặt chân đến đây mới thấu hết mọi khó khăn vất vả của cuộc sống trọ khi học xa nhà.

Con còn nhớ như in buổi sáng hôm ấy, ngày cùng cha ra Hà Nội làm thủ tục nhập học. Lần đầu tiên đặt chân lên đất Hà thành, bầu trời xám xịt và mưa y như hôm nay. Sau khi cha lo lắng hết các thủ tục nhập học, phòng trọ cho đứa con nhỏ, cha vội vã về vì còn nhiều công việc đang dở dang ở quê nhà. Giây phút cha bước lên xe bus, tôi chỉ cắn chặt môi mà sao vẫn khóc lên thành tiếng. Lúc cha quệt ngang dòng nước mắt nhìn con với bao sự kỳ vọng mà lòng chợt thắt lại. Khi bóng cha dần khuất, tôi chẳng biết mình đã mười tám tuổi, cứ khóc òa như thuở còn bé thơ.

Những ngày sống một mình mới cảm nếm được tình yêu gia đình. Có những buổi trưa tan học trở về nhà, mở cửa phòng ra, tự an ủi bản thân rằng mẹ luôn kề bên, tôi khẽ cất tiếng gọi âu yếm, nũng nịu “Mẹ ơi”. Nhưng đáp trả chỉ là sự im lặng của bốn bức tường trắng xóa. Tôi phải tập chấp nhận rằng chỉ mỗi một mình tôi thôi. Một mình thôi! Lòng chùng xuống và sự trống trải bỗng chốc xâm chiếm cả căn phòng.

Nhớ lúc còn ở quê nhà, khi tôi đi học về “đã sẵn cơm mẹ nấu”, chỉ việc tranh giành với em. Còn bây giờ đi học về tôi không muốn đi chợ, nấu nướng. Không phải vì tôi không biết làm nhưng tôi sợ sự cô đơn và cần lắm những bữa cơm gia đình, sự quan tâm của cha mẹ, tiếng nói cười của em thơ. Có khi vừa ăn cơm, trong lòng vừa thổn thức suy nghĩ: “Lúc mình ở nhà, giờ này cha mẹ và em đang đợi mình về ăn cơm”. Nụ cười của mẹ, giọng nói của cha và cảnh tượng gia đình quây quần bên nhau cứ hiện lên trong tâm trí. Mỗi khi nhớ gia đình quá, tôi gọi điện về cho mẹ để được nghe giọng nói, những lời an ủi, động viên và giọng mẹ đầy quan tâm: “trưa nay con ăn gì, cả nhà đang ăn cơm, thiếu mình con, em không phải tranh giành với ai nữa cả”. Mẹ vừa cúp máy tôi lại ngồi khóc thút thít.

Nỗi nhớ cứ thế cùng những giờ học miệt mài, những bữa cơm, những giấc ngủ với tiếng nấc xen lẫn giọt lệ lăn dài. Và tôi thấy mình như một con chim non lần đầu tập bay, yếu ớt và khập , cảm thấy cuộc sống sao mà khó khăn quá! Vừa thiếu thốn tình cảm vừa khó hòa nhập.

Tôi cảm thấy ngày xưa được thầy cô bạn bè quý mến thương yêu thì giờ đây chỉ thấy sự thờ ơ, không ai biết mình và mình cũng chẳng biết ai. Không còn được thầy cô kèm cặp, bạn bè cùng tỉ tê với nhau. Vì vậy nên tôi như thu mình lại, chỉ một mình đến lớp, nghe giảng rồi lại một mình thui thủi về phòng. Luôn là cái cảm giác thiếu tình người, lạc lõng và tẻ nhạt.

Một năm qua rất nhanh, mới đó thôi nhưng giờ tôi gần được nghỉ hè. Một năm đầy thử thách cùng với bao tâm trạng cảm xúc mà cứ ngỡ như mới hôm qua. Giờ đây, tôi đã trưởng thành hơn rất nhiều, thấm thía cuộc sống hơn và rút ra được nhiều kinh nghiệm cho bản thân hơn. Tôi cũng quen được nhiều bạn mới, những người bạn đích thực, tìm được những tình cảm khác cũng quý trọng và thân thương như tình cảm gia đình.

Cảm nghĩ khi xa nhà – Mẫu 3

Tôi, một cô học sinh mới 16 tuổi, nếu như người ta đi học đại học, học nghề, học cao đẳng phải xa nhà cũng đã chạm ngưỡng 19 – 20 tuổi và cũng đã trưởng thành, chững chạc còn tôi chỉ là chuyển trường cấp ba đã phải đi học xa nhà, còn non nớt và ít va chạm cuộc sống. Tôi không hối hận về lựa chọn và quyết định của mình khi cố gắng thi vào trường cấp ba trên thành phố để có cơ hội học tập, phát triển tốt hơn. Nhưng khi đã bước chân trên lựa chọn ấy, sống tại nơi đất khách quê người tôi mới thấu nhiều điều, biết bao cảm xúc, bao nỗi nhớ cứ quẩn quanh bên tôi.

Suốt những năm tháng trước đây, tôi chưa từng nghĩ đến sẽ có ngày mình sẽ sống tự lập, rời xa gia đình và sống một mình ở một nơi xa lạ, nhưng ngày ấy đã đến và tôi đang sống trong những ngày tháng ấy. Lần đầu sống xa nhà, xa gia đình, xa xóm làng quen thuộc, xa bạn bè thân thương, tôi xa tất cả mọi thứ vốn gắn bó và gần gũi với tôi, buộc phải hòa nhập, làm quen với nơi ở mới, môi trường mới, gặp những con người mới và tập một cuộc sống mới. Tuy còn nhiều bỡ ngỡ nhưng tôi tin rằng tất cả những gì mới lạ lâu rồi cũng thành quen thôi, mới đầu có thể sẽ rất khó khăn nhưng tôi tự nhủ bản thân mình phải mạnh mẽ vượt qua mọi thứ, chủ động và tự lập hơn vì giờ đây chỉ còn mình tôi đương đầu với đoạn đường sinh hoạt và học tập sắp tới. Ngày bố đưa tôi đi tìm phòng trọ, hai bố con cũng tất bật sắm sửa rồi bố cũng chẳng dặn dò được gì nhiều, nhưng trước đó bố mẹ cũng đã ủng hộ quyết định của tôi nên luôn động viên và tiếp thêm sức mạnh cho tôi, tôi lấy đó làm điểm tựa để mình phấn đấu học tập.

Bước vào cuộc sống ở nơi xa lạ, những ngày đầu tôi mới nhớ về quê nhà làm sao, ở thành phố chật chội đông đúc chỉ toàn phố xá, hàng quán ăn sẵn thì đầy rẫy nhưng chợ bán rau tôi phải tìm mãi mới ra. Chẳng giống ở quê, làm gì có quán cơm, quán phở, đâu đâu cũng thấy chợ mua bán rau, đã sạch lại còn rẻ, đâu như trên thành phố trông non xanh mơn mởn nhưng chẳng biết có thuốc sâu hay hóa chất gì không. Người ta nói dân thành phố nhiều tiền quả không sai, cái gì ở đây cũng đắt đỏ, tôi tự nấu cho mình một bữa cơm giản dị cũng bằng hai bữa ở nhà. Mà chợt nhắc đến bữa cơm tôi lại thấy nao nao lòng, tôi sực nhận ra từ giờ chẳng còn bữa cơm mẹ nấu, món thịt mẹ kho hay món cá chép om dưa mà tôi thích nhất. Từ giờ tôi phải tự túc mọi thứ, chỉ chờ đến ngày được về thăm nhà, may ra mới lại được ăn cơm với gia đình, lặng lẽ ăn bữa cơm một mình tuy chẳng ngon miệng được nhưng vẫn phải cố gắng làm quen, bởi tôi biết cảnh này còn tiếp diễn dài dài. Nhớ hồi ở nhà, mỗi khi đi học về dọc theo con xóm nhỏ, gặp ai cũng chào hỏi rồi mọi người lại hỏi han, trêu đùa, thi thoảng còn vẫy vào cho hoa quả cây nhà lá vườn. Mọi người thân thương và trìu mến như vậy nhưng ở nơi đây tôi không thể có được điều đó, toàn người xa lạ, mọi người cũng từ khắp nẻo về chốn phồn hoa làm ăn kiếm sống.

Gia đình tôi chỉ có mỗi một mình tôi, nên tôi vốn chẳng có anh chị em nào cả, nhưng với tôi bạn bè chính là anh chị em của tôi. Tôi nhớ về những người bạn hàng xóm chiều nào cũng rủ nhau đi cắt cỏ, vớt bèo, nhớ những người bạn cùng đi học mỗi ngày. Con đường đi học ngày ấy chỉ là con đường đất đỏ, bụi và toàn ổ gà nhưng lại tràn ngập niềm vui, cùng nhau đạp xe và kể chuyện cho nhau nghe. Giờ đây, tôi đi học bằng xe bus vì chỗ trọ cách trường khá xa, cứ lủi thủi một mình đi ra điểm bus rồi lên xe ngồi vào ghế cứ thế nhìn ra ngoài cửa kính nhìn dòng người đi lại, chẳng nói chuyện với ai cũng chẳng ai muốn nói chuyện. Tôi biết dần dần rồi tôi cũng sẽ có bạn, có người cùng sẻ chia vui buồn nơi đây nhưng có lẽ sẽ không bao giờ được như ở nhà nữa. Có những lần tôi ốm, lúc đó tôi mới thèm được ở nhà làm sao, khi ốm mà ở một mình là lúc người ta tủi thân và cô đơn nhất, nhớ ngày còn ở nhà chỉ mới chớm ốm mẹ đã sốt sắng lo thuốc thang rồi lo ăn uống đầy đủ, còn bây giờ ốm phải tự nấu ăn, tự mua thuốc và tự đi học.

Càng nhớ nhà, nhớ bố mẹ bao nhiêu tôi càng lao đầu vào học hành miệt mài, bởi nếu cứ để thời gian chết đi trong những nỗi nhớ thì tôi có thể ngồi khóc suốt ngày, cũng không thể lãng phí thời gian của tương lai được. Tôi nhắc nhở bản thân phải cố gắng hòa nhập và học tập cho thật tốt, làm quen và bắt nhịp với cuộc sống xa nhà một mình. Phải làm cho bố mẹ yên tâm không lo lắng cho mình, phải cố gắng rèn luyện và trau dồi kiến thức, kỹ năng để đạt thành tích tốt nhất, không phụ lòng mong mỏi và kỳ vọng của bố mẹ.

Thời gian cứ thấm thoát trôi qua, mới đây cũng đã được một năm tôi xa nhà học ở ngôi trường mới, một năm tuy không là nhiều nhưng cũng không phải ít đối với sự bỡ ngỡ lần đầu của tôi. Đây có lẽ là khoảng thời gian ý nghĩa nhất đối với tôi, tôi đã được trải nghiệm một cuộc sống tự lập, được trưởng thành và có cho mình nhiều kinh nghiệm cuộc sống.

]]>
https://quatangtiny.com/cam-nghi-khi-xa-nha-41046/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ https://quatangtiny.com/phan-tich-doan-trich-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-41052 https://quatangtiny.com/phan-tich-doan-trich-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-41052#respond Fri, 23 Oct 2020 12:55:50 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-doan-trich-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-41052

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Tình cảnh

Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bạn học sinh Bài văn mẫu: Phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được chúng tôi tổng hợp những bài văn mẫu hay nhất của các bạn học sinh lớp 10.

Hy vọng đây là tài liệu bổ ích giúp các bạn ôn tập, củng cố lại kiến thức và đạt được kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo và tải bài văn mẫu tại đây.

Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn thị Điểm: tên tuổi, con người, sự nghiệp văn chương

– Giới thiệu tác phẩm Chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung đoạn trích).

II. Thân bài

1. 16 câu đầu: Tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.

a. Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.

– “Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.

– “Rủ thác đòi phen”: Vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm

→ Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ

– Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ

b. Thao thức ngóng trông tin chồng

– Ban ngày:

+ Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.

+ Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.

– Ban đêm:

+ Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san xẻ nỗi lòng cùng nàng.

+ Thực tế: “Đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ.

+ So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người.

– Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”.

+ “Hoa đèn” đầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.

+ Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc bóng năm canh:

“Người về chiếc bóng năm canh/Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”

c. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.

– “Gà gáy”, “sương”, “hòe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả

– Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.

→ Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.

d. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.

– “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.

– Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm “dằng dặc, đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, mỗi phút mỗi giờ ngắn ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.

→ Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ

e. Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.

– Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ

– Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:

+ Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành

+ Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.

+ Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

⇒ Tiểu kết:

– Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.

– Nghệ thuật:

+ Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng

+ Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội tâm

+ Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.

2. Nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.

a. Ước muốn của người chinh phụ.

– “Gió đông”: Gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống

– “Non Yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi

– “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)

→ Với các hình ảnh ẩn dụ và điển tích đã cho thấy ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.

b. Nỗi nhớ của người chinh phụ

– Thủ pháp điệp liên hoàn “Non yên – non yên, trời – trời”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp, đồng thời cực tả nỗi nhớ vời vợi , đau đáu trong lòng người chinh phụ

– Từ láy “thăm thẳm, đau đáu”: Cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu.

→ Câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.

→ Sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.

c. Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.

– “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau

– Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.

→ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.

⇒ Tiểu kết.

– Nội dung: Khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với số phận và phẩm hạnh người phụ nữ

– Nghệ thuật:

+ Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy

+ Thủ pháp tả cảnh ngụ tình

+ Giọng điệu da diết, buồn thương

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

– Liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa: Vũ Nương. Qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi hạnh phúc người phụ nữ.

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 1

Chinh phụ ngâm được tác giả Đặng Trần Côn sáng tác bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên hết Lê – Mạc đánh nhau đến Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nấu da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Có nhiều người dịch tác phẩm này sang chữ Nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm được đánh giá là hoàn hảo hơn cả bởi nó thể hiện gần như trọn vẹn giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn chồng mình sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng phải sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thía nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang trôi qua vùn vụt và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng trở nên xa vời. Vì vậy mà nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu khổ triền miên. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng ấy.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của tâm trạng cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ trẻ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

Đoạn một (từ câu 1 đến câu 16): Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.

Đoạn hai (từ câu 17 đến câu 28): Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa; cảnh ảm đạm khiến lòng chinh phụ càng thêm sầu thảm.

Đoạn 3 (từ câu 29 đến hết): Khung cảnh thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.

Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa, nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có lời đáp. Tâm trạng băn khoăn, day dứt của người chinh phụ được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.

Trong phần đầu, hành động và tâm trạng của người chinh phụ đã được ngòi bút sắc sảo của tác giả khắc hoạ rõ nét:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết ?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

Nàng lặng lẽ “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước” trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.

Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.

Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng lạnh… Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.

Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Tiếng gà gáy báo sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Những cây hòe phất phơ rủ bóng gợi cảm giác buồn bã, u sầu. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khoả nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. Khi “hương gượng đốt” thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc “gương gượng soi” thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia ra đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành : Dây uyên kinh đứt, phim loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.

Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia lìa đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ chồng trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo ngọn gió:

Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chân thành mà cũng rất nên thơ: nhờ ngọn gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ:

Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại:

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? Biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi:

Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý thơ đi từ tình đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể hiện rõ tình cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ một mình một bóng mà thôi!

Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:

Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

Hình như người chinh phụ đã thấm thía sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: “Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi” thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.

Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,|
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

Ý thơ đi từ tình đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gì… người chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi!

Từ thốc rất mạnh trong câu “một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên” báo hiệu chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đối. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt, đặc biệt là các tính từ là từ láy làm nổi bật tính chất của sự vật : eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… Về nhạc điệu, tác giả đã khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm bổng, du dương của thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt sóng dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng lại trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng… trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 2

“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”

Văn học Việt Nam đã từng chứng kiến biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong, và có cả những khao khát hạnh phúc của người chinh phụ.

Nhà văn Tô Hoài đã từng khẳng định: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Thời đại của Đặng Trần Côn là thời kì mà chiến tranh các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc. Khi thời đại đưa cho ông một đề tài quen thuộc “hiện thực chiến tranh”, bằng cảm hứng nhân đạo của mình, Đặng Trần Côn đã chiếu ngòi bút của mình xuống những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa, tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua khúc tự tình trường thiên “Chinh phụ ngâm”. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, qua nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tác giả đã đã để cho người đọc cảm nhận nỗi đau thương trong chiến tranh của cả hai phía người ra trân và người ở lại. Nếu ở nơi chiến địa, chinh phu đang từng ngày từng giờ đối mặt với cái chết thì chinh phụ nơi quê nhà cũng đang mòn mỏi chờ đợi trong vô vọng, và chìm đắm trong muộn phiền. Ba sáu câu thơ trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như tích tụ nỗi đau, nỗi nhớ thương và niềm khao khát hạnh phúc lứa ở tầng sâu nhất của tác phẩm.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. Nàng đi đi lại lại, những bước chân của nàng không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc của nàng Kiều mà những bước chân ấy gieo xuống từng bước như gieo vào lòng người đọc những thanh âm của sự lẻ loi cô độc. Nàng hết buông rèm rồi lại kéo rèm để hướng ra ngoài, hướng về nơi biên ải xa xôi kia để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hiệu hồi đáp lại. Nhịp thơ chậm, kéo dài như ngưng tụ cả không gian và thời gian. Dường như hành động nàng đang lặp đi lặp lại một cách vô thức bởi tâm trí nàng giờ đây đang dành trọn cho người chồng nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Những thao tác trữ tình ấy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, nàng mong ngóng một một người có thể sẻ chia những tâm tư nhưng tất cả chỉ có một ngọn đèn khuya leo lét:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Ngọn đèn vừa chứng kiến vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. Khi đối diện với ngọn đèn là người phụ nữ đáng thương ấy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi chải nỗi đau của chính mình. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Nàng thấy mình chỉ như kiếp hoa đèn kia mỏng manh và dang dở, thấy sự tàn lụi ở ngay trước mắt mình. Nếu ngọn đèn không tắt đồng hành với người phụ nữ trong ca dao thắp lên nỗi nhớ thương:

“Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”

Ngọn đèn trong đêm với Thúy Kiều đã trở thành nhân chứng của nỗi đau của người con gái tài sắc:

“Một mình một ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”

Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đên héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi “bi thiết” không thể nói lên lời, là nỗi “buồn rầu” đến não nề, đến thương cảm. Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc suốt” đêm thâu như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. “Eo óc” đó là âm thanh thưa thớt trong một không gian rộng lớn, hiu quạnh có cảm giác tang tóc, tang thương đã bộc lộ sâu sắc nỗi chán chường của chủ thể trong đêm thâu. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế dáng điệu võ vàng của người chinh phụ, tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của người chồng. Tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:

“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”
Câu thơ theo đúng nguyên tác của Đặng Trần Côn:
“Sầu tựa hải
Khắc như niên”

Chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy. Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình. Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều những nỗi lo sợ, lo lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa được nỗi niềm bản thân mà còn như chìm sâu hơn vào nỗi bi thương xót xa. Nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đã đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hanh cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh. Sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.

Sống trong không gian cô đơn ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên ải xa xôi kia với một tấm lòng thủy chung, sắt son:

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

Người chinh phụ đã gom hết những yêu nhớ, thương xót và cả lòng thủy chung của mình vào gió đông, nhờ cơn gió mùa xuân ấm áp gửi tâm tư thầm kín của mình đến non Yên. Những hình ảnh có tính tượng trưng ước lệ như “gió đông”, “non Yên”, “trời thăm thẳm” vừa gợi ra không gian rộng lớn vô tận nói lên khoảng cách xa xôi giữa chinh phu và chinh phụ vừa biểu đạt được tấm lòng chân thành, nỗi nhớ nhung vô hạn của người vợ nơi quê nhà. Phải chăng ngọn gió đông đánh thức tâm hồn chinh phụ cũng chính là ngọn gió xuân đánh thức giấc mộng ái ân khuê phòng trong “xuân tứ” của nhà thơ Lí Bạch:

“Cỏ non xanh biếc vùng Yên
Cành dâu xanh ngà ở bên đất Tần
Lòng em đau đớn muôn phần
Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà
Gió xuân có biết chi mà
Cớ chi lọt bức màn là tới ai”

Nhưng nỗi thương nhớ của người chinh phụ người ta còn thấy được cả dư vị của nỗi đau, sự ngậm ngùi, xót xa:

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Hai từ láy “thăm thẳm” và “đau đáu” đã biểu đạt trực tiếp sắc thái củ nỗi nhớ thương ấy của người chinh phụ. Nếu hai từ “thăm thẳm” gợi nên trường độ của nỗi nhớ nhung trải dài dằng dặc, triền miên trong không gian thì độ sâu của nỗi nhớ được thể hiện qua từ “đau đáu”. Hình ảnh đường lên trời mù mịt, xa xăm cũng giống như bi kịch nỗi nhớ mong của nàng chẳng biết đâu là bến bờ, chẳng biết đến khi nào người chồng trở về để kết thúc cái bi kịch ấy.

“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Cảnh vật xung quanh chính là tâm cảnh bởi nó đã được nhìn bởi đôi mắt đẫm lệ, đã nhuốm màu tâm trạng của chủ thể trữ tình. Ý thơ đã đúc kết qui luật cảm xúc và có sự gặp gỡ với ý thơ của Nguyễn Du trong kiệt tác “Truyện Kiều”:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Câu thơ như một tấm bản lề khép lại nỗi nhớ nhung sầu muộn dẫn người đọc đến với nỗi sầu muộn của người chinh phụ trong câu thơ sau. Trong bức tranh mùa đông được gợi mở, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh bất ngờ để cực tả nỗi sầu muộn và cảm giác lạnh lẽo trong lòng người phụ nữ:

“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”

Nỗi đau đớn sầu muộn ấy khi thì nặng nề như búa bổ, khi thì nặng nề như cưa xẻ còn “gốc liễu” “cảnh ngô ấy phải chăng chính là hiện thân của người phụ nữ đang mòn mỏi chờ chồng. Cả dung nhan và tâm hồn nàng dường như đang bị tàn phá không phải chỉ bởi cái lạnh lẽo của sương tuyết mà còn là cái lạnh lẽo, cô đơn đang bủa quanh. Mùa đông của thiên nhiên nhiên giờ đây đã hóa thành mùa đông của cuộc đời người chinh phụ.

“Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi”

Tiếng chim gù trong bụi cây sương phủ, tiếng côn trùng nỉ non não nề trong đêm sương phải chăng nhà thơ muốn bật lên tiếng lòng tê buốt lạnh giá của người chinh phụ? Phải chăng không chỉ là tiếng sâu tường bên cạnh “vẳng” ra, tiếng chuông chùa từ xa “nện” lại mà đó còn là những cơn sóng dữ dội, tha thiết và nhức nhối đang cuộn lên trong lòng người phụ nữ ấy? Tất cả những âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ. Với sự thành công của biện pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của thi ca cổ điển nhà thơ không chỉ tô đậm ấn tượng lạnh lẽo của bức tranh mùa đông mà còn đang phơi bày thế giới nội tâm lạnh giá của người chinh phụ. Nếu không phải là một ngòi bút khắc họa tâm lí sắc sảo chắc chắn sẽ không thể miêu tả tâm trạng của người chinh phụ sâu sắc và tinh tế đến thế.

Tưởng chừng như người chinh phụ sẽ mãi chìm đắm trong nỗi sầu muộn ấy, nhưng trong giây lát nàng đã đến với những khao khát của hạnh phúc lứa đôi qua bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy của thiên nhiên

“Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay động gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiêt đâu”

Bức tranh hoa nguyệt lộng lẫy ấy đã được nhà thơ khắc họa bằng thủ pháp trùng điệp liên hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớp hình ảnh giao hòa. Hoa phô bày vẻ đẹp dưới ánh trăng vàng và vầng trăng tỏa sáng lại phản chiếu bóng hình hoa trên mặt đất. Sắc hoa ngời lên dưới nguyệt và cuối cùng kết tinh lại ở hình ảnh đẹp nhất, một biểu tượng ý nghĩa nhất: nguyệt và hoa giao hòa quấn quýt lẫn nhau. Phải chăng chính sự giao hòa của thiên nhiên, tạo vật đã đánh thức niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi thầm kín trong lòng chinh phụ bấy lâu? Nhưng phải chăng cũng bởi thế mà nỗi đau về sự lẻ loi lại quay lại với nàng mà còn như khơi sâu thêm hơn nữa? Đến thiên nhiên vô tri vô giác còn có cảm giác hạnh phúc lứa đôi, còn nàng, nàng chỉ có một mình với một tấm lòng thủy chung chờ đợi chồng nơi khuê phòng này, chờ những hạnh phúc ái ân sẽ trở về. Cùng với hình ảnh, âm điệu của lời thơ cũng trở nên tha thiết, nồng nàn như những con sóng của niềm khao khát đang dâng lên trong lòng người chinh phụ. Đến đây, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện. Nếu ở đoạn thơ trên tác giả đã gửi tình vào cảnh thì ở đoạn sau tác giả đã để cho cảnh gợi tình. Những hình ảnh mĩ lệ của hoa lồng nguyệt và nguyệt lồng hoa hết sức mĩ lệ đã thể hiện hết sức tế nhị những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.

Bên cạnh tài năng miêu tả tâm lí nhuần bằng nhiều bút pháp được thể hiện qua thể thơ song thất lục bát mềm mại của tác giả, dịch giả Hồng Hà Nữ Sĩ còn thành công khi sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt một cách tinh tế và thanh nhã .Chính sự kết hợp của ngôn ngữ giàu về “thể chất” của Nguyễn Gia Thiều với cái linh hồn ngôn ngữ của Đoàn Thị Điểm đã làm cho ngôn ngữ bài thơ truyền tải được mọi cung bậc cảm xúc tinh tế nhất trong diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Tác phẩm đã góp phần vào tiếng nói đấu tranh, tố cáo chiến tranh phong kiến chia rẽ hạnh phúc lứa đôi đồng thời khẳng định quyền sống, quyền hạnh phúc nhân bản nhất của con người. Đó cũng là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc nhất của tác phẩm.
Những vần thơ khép lại nhưng dường như nỗi đau của người chinh phụ vẫn còn đó. Niềm khao khát về một hạnh phúc từ đây mà trở thành niềm khao khát của cả một thời đại và thúc giục con người hành động để đạt dành được hạnh phúc mà mình đáng có.

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 3

Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, Chinh Phụ Ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọi tầng lớp quần chúng. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay, Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào của xứ sở vốn “nổi tiếng thi thư”. Trong đó, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng – Đoàn, với nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận mà không rõ tin tức:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Như trong Kiều, Nguyễn Du đã từng để Kiều nói câu ‘phận gái chữ tòng’, hay như trong Tân Hôn Biệt có câu ‘Thệ dục tùy quân khứ’, đã là phận vợ, dù đến chân trời góc bể cũng muốn theo chồng. Nhưng ‘Hình thế phản thương hoàng)’, mà ‘Phụ nhân tại quân trung/ Binh khí khủng bất dương’, người vợ có chồng đi lính lại chỉ có thể ở lại nhà. Có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng quân nay đi rồi, nàng đành ‘dạo hiên’. Nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. ‘Có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ’(trích ở hai đầu nỗi nhớ) Hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. Kéo rèm xuống, nàng như nhác thấy bóng chồng khuất đi, vội kéo rèm lên, hóa ra chỉ là tình cảm và ánh nước trong mắt lùa dối nàng. Nhưng khi nàng hạ rèm xuống, nàng lại vẫn thấy mọi chuyện diễn ra như cũ, và rồi nàng cứ vô thức lặp đi lặp lại một hành động ấy… Người đời hận:

Quân sinh ta chưa sinh
Ta sinh quân đã lão
Quân hận ta sinh trì
Ta hận quân sinh tảo

Nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng được gần nhau như thế mới biết được nỗi sợ của việc không được cùng kẻ kết duyên ‘thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền” (ĐỖ phủ)Hiên vắng không phải vì không có người, mà vì người quan trọng nhất không ở bên nàng.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết giường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

Giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘gia thư để vạn kim’, họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận? Người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì ‘Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?’. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến cả loài chim – loài có đôi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một người phòng khuê như nàng lại có thể biết tin? Dù cho ‘Hoàng điểu tọa tương bi’, ‘Biệt li chim cũng vì người xót xa’, nhưng nàng vẫn chẳng có người đồng cảm, tựa như Bá Nha mất đi Tử Kì, Trang Tử mất đi Huệ Thi. ‘Lệ rơi khêu ngọn đèn’, nàng chong đèn suốt đêm, không ngủ được mà cũng chẳng dám ngủ – có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng không muốn chậm trễ đón chàng. Nhưng gà gáy canh năm, trời sáng rồi, mà bóng chàng vẫn cứ biệt tăm. ‘Cành liễu ai người vin?’, chỉ có hòe phất phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến. Ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là nguồn sống? Nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng như nước lũ mà phá ra.

Kinh Thi có câu ‘Nhất nhật bất kiến như tam thu hề’, Nguyễn Du gói gọn lại thành ‘Ba thu dọn lại một ngày dài ghê’, đối với người chinh phụ, ‘khắc giờ’ thì ‘đằng đẵng như niên’, mà ‘mối sầu’ thì ‘dằng dặc tựa miền biển xa’. Hay cho một câu cảnh còn người mất! Mùi hương vẫn còn đó, vấn vít giống như ngày chàng còn tại ‘Hương diệc cánh bất diệc’, nhưng chỉ tiếc ‘Nhân diệc cánh bất lai’. Gương đồng vẫn sáng, nàng vẫn soi gương, điểm trang mỗi ngày, nhưng chỉ là ‘gượng’. Chồng đi lính nàng không còn tâm trí nào nghĩ tới bản thân nữa. Nhớ chồng, giọt nước mắt rơi lúc nào không hay. Nỗi nhớ luôn đau đáu trong lòng nàng. lệ lại châu chan, nàng đã khóc biết bao ngày. Nàng đánh đàn, nhưng tiếng đàn đứt đoạn, bởi nàng lo dây uyên sẽ đứt, phím loan sẽ chùng, gợi nên sự không may mắn cho đôi lứa yêu nhau:

“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. ”

Mười sáu câu đầu là phần điệp khúc bằng tiếng tỳ bà chậm rãi, day dứt – bởi sự khắc khoải trong nỗi nhớ, bởi sự triền miên và vô tận – tiếng đàn ngân mãi, tựa như tiếng khóc kiềm nén của người chinh phụ trong màn đêm. Ấy không chỉ là màn đêm của bóng tối – mà còn là màn đêm của những lo lắng, sợ hãi; là màn đêm của những cô đơn, lẻ loi bị che khuất dưới ánh mặt trời ban ngày.

Nếu mười sáu câu đầu là đoạn điệp khúc khi mà nỗi nhớ thương và tâm trạng đau thương được đẩy lên đến cùng cực, thì tám câu sau này lại như một đoạn nhạc dạo trước cao trào. Tấm lòng hướng về phương xa nơi chồng đang chinh chiến chậm rãi biến nỗi cô đơn thành một nỗi đau, một nỗi đau không gì sánh được. Như một chữ ‘thiết tha’, nó mài, nó cắt vào ruột gan người đọc hệt như cách nó làm đau đớn lòng người chinh phụ. Trước hết là một ước mong cháy bỏng đêm ngày:

“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”

“Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ “Trài mấy thu đi tin nhạn lại-Tới xuân này, tin hãy vắng không”. Gió đông là gió xuân. Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin, nhắn tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Non yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc. Hỏi gió, nhờ gió nhưng”có tiện”hay không như lời nhún mình, năn nỉ ngọn gió. Nhưng đó là mong ước phi thực tế, hi vọng loé lên rồi vụt tắt ngay. Chỉ có nỗi nhớ là hiện thực. :

“Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”.

“Nhớ đằng đẵng” nghĩa là nhớ mãi, nhớ nhiều, nhớ lâu, nhớ không bao giờ nguôi. Trong truyện Kiều cũng có câu tương tự để diễn tả nỗi nhớ nhung: “Một ngày đằng đẵng xem bằng ba thu”. Câu thơ “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” là một câu thơ tuyệt bút, vừa diễn tả một nỗi nhớ thương đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian đêm ngày năm tháng (đằng đẵng) không bao giờ nguôi, vừa được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian(đường lên bằng trời). khi giải thích nghĩa câu thơ này, Nguyễn Thạch Giang đã viết :”Lòng nhớ chồng thăm thẳm dài dằng dặc vẫn có thể đến được dù có như đường lên trời”. Có thể nói, dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên cảu vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn-điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận
Sau khi hỏi “gió đông”để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng “đằng đẵng”, nàng chinh phụ lại hỏi trời để rồi tủi thân, than trách :

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. ”

Trời ở cao xa, không chỉ là cao mà là thăm thẳm, không chỉ là xa mà trở nên xa vời, nên không thấu, không hiểu sao cho “nỗi nhớ chàng”của người vợ trẻ. Nỗi nhớ càng trở nên đau đáu trong lòng. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ láy:”đằng đẵng” và “đau đáu”, dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn, lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể, tinh tế, sống động. Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương.

Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh;nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cực kì điêu luyện. Tính hình tượng kết hợp với tính truyền cảm tạo nên sắc điệu trữ tình sâu lắng thiết tha:

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. ”

Nỗi thương nhớ, lúc thì “đằng đãng”, lúc thì “đau đáu”, triền miên suốt ngày đêm. Đêm nối đêm như dài thêm. Càng cô đơn thì càng thao thức. Nhìn cành cây ướt dẫm sương đêm mà thâm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng “mưa phùn” mà thâm buồn nhớ. Âm thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, cô đơn biết bao thương nhớ, lo lắng, buồn rầu. Lòng đau đớn như bị cắt xứa, chà xát. Có thể nói hai câu thơ”Chinh phụ ngâm khúc” này rất gần gũi với hai câu “Kiều” nổi tiếng:

“Cảnh nào cảnh chằng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”.

Có người nói: “Hạnh phúc hay bất cứ thứ gì, thường chỉ đến lúc mất đi người ta mới biết nó từng tồn tại”. Với Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, chúng ta được đưa vào một không gian nhỏ hẹp – một không gian đong đầy nỗi nhớ và sự khắc khoải, sự bất bình và bối rối giữa các mối quan hệ của Nho học, sự cổ hủ và bất công của chế độ phong kiến – nơi mà những ‘dân đen thấp cổ bé họng’ không có quyền, mà chỉ có nghĩa vụ. Những người như vậy, họ đã không được hưởng hạnh phúc một giây phút nào – mà họa có đi chăng nữa – ấy cũng chỉ là phút giây ngắn ngủi tựa như khoảnh khắc tàn canh. Chúng ta bị đặt vào vị thế của những người như thế, và xúc động trước khát vọng tột cùng của họ – được sống bình đẳng, hạnh phúc và không phải chịu chia li.

Qua thể thơ song thất lục bát, cách dung từ, hình ảnh ước lệ, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phục lứa đôi. Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thong sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ. Cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-doan-trich-tinh-canh-le-loi-cua-nguoi-chinh-phu-41052/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí https://quatangtiny.com/phuong-phap-lien-khuc-trong-doc-tieu-thanh-ki-41410 https://quatangtiny.com/phuong-phap-lien-khuc-trong-doc-tieu-thanh-ki-41410#respond Fri, 23 Oct 2020 12:31:07 +0000 https://quatangtiny.com/phuong-phap-lien-khuc-trong-doc-tieu-thanh-ki-41410

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến (Dàn ý + 11 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí, Bài văn mẫu lớp 10: Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí là tài liệu hữu ích mà hôm nay

Bài văn mẫu lớp 10: Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí là tài liệu mà Tài Liệu Học Thi muốn gửi đến quý thầy cô cùng các em học sinh lớp 10 cùng tham khảo.

Hy vọng đây là tài liệu bổ ích giúp mang lại cho các em học sinh tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về người thân đang làm việc và có thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo và tải bài văn mẫu tại đây.

Dàn ý Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Nguyễn Du – một đại thi hào dân tộc với tài năng kiệt xuất của mình ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị to lớn có sức ảnh hưởng đến muôn đời sau.

– Truyện Kiều là một kiệt tác bất hủ đi cùng với tên tuổi Nguyễn Du

– Độc tiểu thanh ký là một trong những viên ngọc sáng được Nguyễn Du đặt hết tâm huyết và trái tim của mình đồng cảm nói về thân phận người phụ nữ bất hạnh xưa.

2. Thân bài

– Giới thiệu vài nét về nàng Tiểu Thanh: Người con gái có tài sắc vẹn toàn nhưng chịu số phận bất hạnh hẩm hiu nàng phải đành chịu kiếp làm vợ lẽ cô đơn lẻ bóng. Cuộc đời nàng Tiểu Thanh côi cút chốn Côn Sơn cạnh Tây Hồ.

* Hai câu đề:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

– Nguyễn Du mượn sự thay đổi của cảnh sắc để nói lên được sự thay đổi của cuộc sống.

– Nhìn hiện tại mà nhớ về quá khứ Tây Hồ nơi cảnh đẹp hút hồn người nay đã hóa gò hoang.

– Tâm trạng nỗi niềm của chính tác giả người đang ngậm ngùi xót thương thân phận của một người con gái đẹp đã không còn, chỉ còn lại đây với những mảnh giấy tàn.

-> Sự đồng cảm của tác giả.

*Hai câu thực:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

– Nhà thơ mượn hình ảnh “son” “phấn” để diễn tả sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Tiểu Thanh.

– Mượn vật để nói người nhà thơ đã bày tỏ được đau đớn dày vò về cả thể xác lẫn tinh thần của nàng Tiểu Thanh, cuộc đời nàng được gửi gắm qua vần thơ bởi lẽ thú vui duy nhất trong không gian ấy giúp nàng bớt thấy tủi cực chỉ có thơ ca, nhạc họa.

– Lối nhân cách hóa thể hiện rõ cảm xúc xót thương của Nguyễn Du về những bất hạnh của kiếp người qua số phận của Tiểu Thanh. Kết cục bi thảm của tiểu Thanh xuất phát từ sự ghen tuông, lòng đố kỵ tài năng của người đờ, đúng là “ hồng nhan bạc mệnh”.

*Hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

– Nỗi oan khuất của thân phận người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến đầy bất công.

– Sự đồng cảm, khóc người để thương mình, cảm xúc đồng điệu đã làm thành câu thơ bất hủ “phong vận kỳ oan ngã tự cư” -> Tác giả hóa thân vào nhân vật.

– Nói lên tâm sự của số phận con người ai oan, cái oán khó giải trên đời không chỉ riêng Nguyễn Du mà còn là nỗi niềm của các nhà thơ thời bấy giờ.

* Hai câu kết:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)

– Tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh nay đã có tác giả thấu hiểu và giải oan cho nàng.

– Tác giả nghĩ đến mình thương cho số phận cô độc lẻ loi trng hiện tại. Câu hỏi tự đặt ra cho mình liệu răng có ai đồng cảm khóc Tố Như chăng. -> Khao khát tìm gặp được tấm lòng tri kỉ giữa cuộc đời.

3. Kết bài

– Bài thơ thay cho tiếng khóc đồng tâm, đồng cảm cho những số phận người phụ sống trong xã hội phong kiến xưa.

– Khẳng định cái tài của Nguyễn Du, lòng thương mình, thương người.

Phương pháp liên khúc trong Độc Tiểu Thanh kí – Mẫu 1

Tiểu Thanh là người con gái nhan sắc có tài văn thơ sống ở đời Minh. Tiểu Thanh là vợ lẽ của một người họ Phùng, bị vợ cả ghen ghét hành hạ nên chết yểu. Tiểu Thanh có một tập thơ để lại cũng bị vợ cả đốt chỉ còn sót lại một phần nhỏ. cần lưu ý cụm từ “song tiền” (trước cửa sổ) đứng trước làm định ngữ cho cụm từ “nhất chỉ thư” (một tờ sách) đế làm rõ vị trí tờ sách rời.

Chữ “lụy” trong bài thơ là động từ tứ sứ, có nghĩa là làm vấn vương, xao xuyến. Chữ “cư” có nghĩa là gánh vác trong cụm từ “ngã tự cư ” có nghĩa tự chuốc lấy vào thân.

Trong câu kết bài thơ có phần trạng ngữ “tam bách dư niên hậu”. Nguyên văn cả hai câu kết là: “Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tô’ Như?” có nghĩa là không biết sau hơn ba trăm năm, người nào sẽ khóc Tô’ Như đây? Câu thơ đã làm rõ ý tứ người khóc là có, duy chỉ không biết là người nào cụ thể. Làm sao biết được việc và người chưa xảy ra nên tác giả dùng từ phủ định “bất tri”.

Nguyễn Du lấy tên tự Tố Như là có ý cho mình cũng là một trong số người tài hoa nhưng tủi phận.

Điểm qua vài nét về xuất xứ. Câu chữ cần được hiếu và ngay cả hàm ý trong tên tự Tô’ Như để thấy tính chất tượng trưng của những hình ảnh cụ thể trong Đọc Tiểu Thanh kí. Khi đọc bài thơ cần phải biết khái quát hóa ý nghĩa biểu tượng của những hình ảnh cụ thể trong câu thơ sẽ nhận ra ý tưởng thơ gợi tả một quy luật phố biến mà khắc nghiệt con người phải gánh chịu. Đó là “sự tương đô’ giữa sắc và mệnh”. Trong sắc đẹp của Tiểu Thanh còn có cả tài thơ nên luận đề của bài thơ cũng được hiểu liên khúc với “tài mệnh tương đố”, một chủ đề gần gũi sẽ được tô đậm hơn trong kiệt tác Truyện Kiều.

Định hướng phân tích Đọc Tiểu Thanh kí theo suy nghĩ như vậy sẽ thấy rõ hơn chiều sâu tâm trạng trữ tình trong bài thơ. Chúng tôi gọi cách phân tích để hiểu bài thơ này là “phương pháp liên khúc”.

Liên khúc chủ yếu tìm ra môi liên hệ nội tại trong cấu trúc nghệ thuật của bài thơ, đồng thời phải thấy tính chất tương liên, đồng cảm giữa nhà thơ Nguyễn Du với nhân vật Tiểu Thanh để làm nổi bật chủ đề “tài mệnh tương đố” như một biểu hiện của định mệnh làm khôn khổ bao nhiêu thê’ hệ con người.

Đọc Tiểu Thanh kí được Nguyễn Du viết bằng chữ Hán theo thể Đường luật. Khi phân tích b?i thơ này nên làm thông mạch đề, thực, luận, kết của văn bản, vừa phải tìm ra ý tứ bỉ i thơ qua kết cấu ấy.

Vườn hoa (hoa uyển) đã hàm ý sắc màu rực rỡ, biểu trưng vẻ đẹp thắm tươi, đầy sức sống. Bãi hoang đặc tả cái chết khô kiệt hoàn toàn chẳng còn chút dấu vết sự sông ngày qua. Đó là sự thay đổi nhanh chóng, rất cụ thể, nhỡn tiền mà con người không tưởng tượng nổi. Câu thơ dựng lên hai cảnh trái ngược nhưng được nhìn trên cùng trục thời gian mô tả, khiến cho chúng cùng đồng hiện làm tăng thêm tính chất đối lập giữa sắc đẹp dồi dào và sự sống quá ngắn ngủi.

Câu thơ thứ hai là sự tiếp nối ý tứ đã gợi ra ở câu trên “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” nghĩa là một mình thương cho một tờ sách rơi vương trước cửa sổ. Cả cuốn sách đã mất mát gần hết chỉ còn lại một tờ và tồn tại lay lắt, vương vãi trong lãng quên. Rõ ra là cái phận sách chẳng ra gì! “Độc điếu” là một mình viếng thăm và thương cảm cho tờ sách chứa chan tình đời và tài năng của người đã tạo ra nó. Câu thơ biểu hiện sự thương cảm của một tấm lòng trước một tấm lòng. Chỉ riêng cụm từ “nhất chỉ thư ” (một tờ sách rơi) cũng đã tạo ra một cảnh đối lập giữa tài và mệnh, giữa tài cao và mệnh thấp.

Vào bài, câu thơ tả vật nhưng vật làm rõ mối liên thông bên trong giữa tài hoa với mệnh bạc. Mọi sáng tạo của con người bằng tài năng của mình đều là mầm mống dẫn tới phiền lụy giữa những đua tranh, ghen ghét ở đời.

Hai câu thực đã đi vào phân tích việc người, nói trực tiếp về tài sắc và mệnh bạc của con người. Cái phần ưu tú trội vượt lên của tài sắc là cái hiếm hoi không dễ có. Đó là cái thần khí của con người. Con người sinh ra từ cát bụi sẽ trở về cát bụi là lẽ thường tình. Nhưng chết đâu phải đã hết, cái thần thái tinh anh trong tài sắc là bất diệt. Người ta quý trọng nó nên càng thương xót khi nó bị vùi dập phũ phàng. Thái độ “biệt nhỡn liên tài” thật đáng trân trọng ở một tài danh như Nguyễn Du.

Hai câu thực đã khái quát số phận con người tài hoa mà bạc phận. Dường như đó là định mệnh vây hãm con người:

Rằng hồng nhan tự thuở xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

Những câu thơ tiếp theo vẫn là những liên khúc góp phần hoàn chỉnh tư tưởng chủ đề: Vãn chương vô mệnh (không mệnh sống) có gì phải đau lòng khi nó bị người đời hắt hủi? Vậy mà văn chương ở đây bị đốt chỉ còn sót lại một tờ vẫn làm đau xót lòng người. Hẳn phải là thứ văn chương “rỏ máu” để làm nên tuyệt bút. Tuyệt bút vì cái hồn người, tình đời được gửi vào văn chương ấy. Cả tài văn chương Tiểu Thanh và suy rộng ra tài hoa đã làm nảy sinh lòng đố’ kị, ghen ghét của người đời. Chính cái tài ấy là nguyên cớ của tai họa. Tài sắc là kết quả của bao nhiêu nỗ lực cá nhân nên “cậy tài” cũng là lẽ thông thường nhưng con người cũng lại phải biết:

Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Hai câu thực trong Đọc Tiểu Thanh kí mượn cuộc đời cụ thể để minh chứng cho hiện tượng “tài mệnh tương đố” và nguyên nhân dẫn tới tai họa ấy cũng do bởi chính con người tự chuốc vạ vào mình. Đây là việc của con người xuất phát từ lồng người, thói đời nên trời làm sao biết giúp cách nào! Con người phải tự trách mình, tự cứu mình trước đã.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư.

Có phải đó là điều người đời đã biết mà vẫn không tránh được chăng?

Hiện tượng “tài mệnh tương đổ” đã trở thành phổ biến, tất yếu. Vì vậy, Nguyễn Du đề cập tới nó trong những tác phẩm sau này như một hên khúc nhân sinh.

Tài hoa là của hiếm, thương cho thân phận tài hoa là một biểu hiện của thái độ nhân ái. Đời oan khổ là thế, vậy cứu vớt thế nào đây? Nguyễn Du hé mở cho mọi thời, mọi người lối thoát để “giải nạn”. Nỗi oan uổng của tài sắc không phải là tự ông trời và hoàn toàn do định mệnh. Trời không can dự vào việc người mãi được thì hỏi làm sao? Phủ nhận “định mệnh” là để nuôi dưỡng niềm tin cho con người tự vạch ra con đường sống. Phải có tấm lòng “biệt liên tài” hết mực mới đủ tâm trí nghĩ ra được lối thoát cho đời. Tài sắc do thiên phú nhưng bộc lộ tài sắc thế nào lại là chuyện của con người. Nguyễn Du nhắc nhở hậu thế về thói đời và cả những điểm yếu có trong con người tài sắc. Đó là những hướng mở để giải thoát “hận sự” và tự tu dưỡng mình. Nhà thơ không những thương yêu mà còn chỉ ra cách giải nạn cứu người. Đó mới là tình thương yêu bao la sâu sắc của con người có “con mắt nhìn thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” để nhấn mạnh vai trò nỗ lực chủ quan, định đoạt số phận mỗi người. Để tránh những điều oan khuất kia phải nhờ lương tâm trong sạch và đức tâm, tự trau dồi vẻ đẹp khiêm nhường, vị tha, bao dung và trân trọng tài năng người khác. Được thế cái đức cao cả hòa hợp với tài sắc trời cho sẽ tạo ra con người có vẻ đẹp hoàn thiện. Như vậy, lòng đố kị giữa con người sẽ giảm và sự ngưỡng mộ, trân trọng con người và những giá trị của con người sẽ tăng thêm.

Mơ ước điều tốt đẹp cho con người, nhưng Nguyễn Du vẫn tỉnh táo trước hiện thực đắng cay do “tài mệnh tương đố’’ gây nên và sẽ còn tồn tại như một hiện tượng chông lại con người. “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?”. Người như Tiểu Thanh, như Nguyễn Du trong thiên hạ không phải không có. Ông tin thế và biết rằng: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Sau hơn ba trăm năm sẽ có người nào đó lại khóc Tố Như như ông đã khóc Tiểu Thanh? Bức tranh liên khúc nhân sinh ấy sẽ đời kiếp tồn tại như một lời cảnh tỉnh con người. Từ cái đã qua được chứng kiến mà suy nghiệm ra cái sẽ xảy ra, cái sẽ tới, chứng tỏ Nguyễn Du chẳng những là kẻ đa tình mà con giàu trí tuệ và tri thức mới tạo ra được Đọc Tiểu Thanh kí. Nỗi đau khổ vì trí tuệ ấy đã thể hiện một phương diện tự soi sáng nhân tình rất tỉnh táo và hết sức bác học ở Nguyễn Du.

]]>
https://quatangtiny.com/phuong-phap-lien-khuc-trong-doc-tieu-thanh-ki-41410/feed 0