Văn mẫu lớp 10 – Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny https://quatangtiny.com Shop chia sẽ Tài Liệu Học tập Miễn Phí cho các bạn độc giả có cái nhìn hay và tổng quan về các tính năng sản phẩm độc đáo Fri, 20 Nov 2020 04:55:44 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.9.9 https://quatangtiny.com/wp-content/uploads/2020/10/cropped-icon-Qua-1-32x32.png Văn mẫu lớp 10 – Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny https://quatangtiny.com 32 32 Văn mẫu lớp 10: Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng https://quatangtiny.com/phan-tich-hao-khi-dong-a-trong-bai-to-long-47206 https://quatangtiny.com/phan-tich-hao-khi-dong-a-trong-bai-to-long-47206#respond Tue, 17 Nov 2020 04:42:23 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-hao-khi-dong-a-trong-bai-to-long-47206

Related posts:

  1. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  2. Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến (Dàn ý + 11 mẫu)
]]>
Văn mẫu lớp 10: Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng, Văn mẫu lớp 10: Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão gồm dàn ý, cùng 5 bài văn

Văn mẫu lớp 10: Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão gồm dàn ý, cùng 5 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 10 tham khảo, hiểu sâu sắc hơn để thấy được một thời rực rỡ đã qua và khiến ta phải suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của chính mình.

Dàn ý phân tích Hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả tác phẩm.

VD: Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Hiện thực cuộc sống là chất liệu thô sơ mà nhà văn làm mềm mại trên trang sách. “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão là trang thơ mang đậm tinh thần của thời đại mà nó ra đời như thế, thời đại quân dân nhà Trần kháng chiến chống quân Mông Nguyên, dội vang âm hưởng của hào khí Đông A.

II. Thân bài

1. Hào khí Đông A

+ Đông A là triết tự của chữ Trần trong tiếng hán, gồm bộ A và chữ Đông.

– Hào khí Đông A là khí thế chiến đấu hào hùng của một thời đại vàng son lịch sử, là thời kì bùng lên sức mạnh dân tộc tự lập tự cường, ý chí quyết thắng của quân và dân.

– Hào khí Đông A là sản phẩm của thời đại hào hùng của đất nước, là kết tinh sức mạnh toàn dân, là ngọn lửa vút cao ý chí dân tộc.

– Âm vang của hào khí Đông A có lẽ cũng là một nguồn cảm hứng cho sáng tác “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão.

2. Hào khí Đông A trong bài thơ “Thuật hoài”

a. Hào khí Đông A thể hiện ở sự ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh con người thời đại nhà Trần

+ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

+ “Giang sơn”: gợi không gian rộng lớn.

+ “Kháp kỉ thu”: thời gian dài dằng dặc.

– Vẻ đẹp của tư thế được đặt trong không gian rộng lớn giữa dòng thời gian vô tận, hình ảnh thơ mang tính ước lệ đã tô đậm tầm vóc lớn lao, kì vĩ của người tráng sĩ. Thời gian đã nhấn mạnh vào sự bền bỉ, tinh thần luôn sẵn sàng của người lính.

– Người tráng sĩ có tầm vóc sánh ngang với vũ trụ, khí thế như bao trùm trời đất.

– Thể hiện cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào của nhà thơ.

+ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

– Vẻ đẹp cá nhân đã phát triển thành vẻ đẹp cộng đồng.

– “Tam quân”: cách nói ước lệ, chỉ toàn thể quân đội nhà Trần.

– “Tì hổ”: so sánh ngầm quân nhà Trần có sức mạnh dũng mãnh như loài hổ báo.

– “Khi thôn ngưu”: khí thế trận đấu tiêu diệt giặc của quân đội nhà Trần. Đó có thể hiểu là khí thế của những con người trẻ tuổi có khí phách anh hùng, cũng có thể hiểu là khí thế ra trận dũng mãnh làm mờ cả sao Ngưu.

=> Cả hai cách hiểu trên đều làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế chiến đấu hào hùng của quân đội nhà Trần. Người lính ra trận với tư thế quyết chiến quyết thắng, đã chiến đấu là phải chiến thắng, lập nên kì tích lẫy lừng trong lịch sử, tạo thành sức mạnh dội vang cho thời đại.

=> Hai câu thơ đã thể hiện cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào về sức mạnh tự cường, ý thức tự tôn về dân tộc, làm bừng lên khí thế hào hùng, là thời đại cao đẹp với những con người cao đẹp.

b. Hào khí Đông A thể hiện qua nỗi băn khoăn, suy tư về khát vọng lập công danh của con người thời loạn

+ “Nam nhi vị liễu công danh trái”

Câu thơ nhắc đến chí hướng của nam nhi. Trong văn học trung đại, chữ “nam nhi” gắn liền với lí tưởng công danh; kẻ làm trai sinh ra ở đời phải biết lập công danh, tạo dựng sự nghiệp, để lại tiếng vang trong đời. Lí tưởng công danh đã khích lệ biết bao nam tử hán, để họ sẵn sàng rèn luyện, tu thân sao cho đủ phẩm chất để lập được công danh cho riêng mình.

Thời điểm viết bài thơ này, Phạm Ngũ Lão đã lập nên công danh kì tích, vẫn mà vẫn băn khoăn “Nam nhi vị liễu công danh trái” thể hiện ý chí vươn lên, không ngừng tu thân để hoàn thiện chính mình. Nó là biểu hiện của nhiệt tâm nhiệt huyết của một người chí sĩ muốn cống hiến cho đất nước dân tộc.

+ “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

– “Vũ Hầu”: nhiều mưu lược, vị quân sự nổi tiếng với tài dùng binh. Vũ Hầu từng giúp Lưu Bị lập nên Thục Hán, sau đã xả thân nơi trận mạc.

– Phạm Ngũ Lão lấy Vũ Hầu làm mẫu mực cho công danh sự nghiệp của mình, lấy làm thẹn khi chưa lập được công danh như Vũ Hầu.

– Câu thơ đã nâng cao nhân cách của Phạm Ngũ Lão, thể hiện lòng nung nấu khát vọng lập công, bày tỏ lòng tận trung với đất nước và khát vọng cống hiến cả đời cho dân tộc.

+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão mang tầm vóc lớn lao, là nỗi thẹn tu thân với ý chí lập công sắt đá.

Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, “Thuật hoài” có thể được coi là lời đáp của con cháu với “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, tạo nên truyền thống vẻ vang cha dũng con hùng.

3. Đánh giá

+ Hào khí Đông A đã góp phần tạo nên chiến thắng lẫy lừng, tạo nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh sử sách.

+ Hào khí Đông A không chỉ là tư tưởng chung của bài thơ mà còn là của cả thời đại nhà Trần, khiến cho thế hệ trẻ phải suy nghĩ mình sẽ làm gì để xứng đáng với cha ông.

+ Hào khí Đông A là dòng mạch chung của văn học cùng thời kì với bài thơ.

III. Kết bài

– Nêu cảm nhận chung của bản thân.

VD: Thời đại nào, văn thơ đó. “Thuật hoài” mang đậm sắc màu anh dũng hào hùng, mang theo mạch nguồn hào khí Đông A đi từ cuộc sống vào trang giấy. Bài thơ đã đưa người đọc sống lại một thời rực rỡ đã qua và khiến ta phải suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của chính mình.

Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng – Mẫu 1

Trong lịch sử nước nhà, thời đại nhà Trần là một trong những thời đại lịch sử phát triển nhất. Không thể phủ nhận những thành tựu mà quân dân nhà Trần làm cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự, kinh tế hay tôn giáo… Nhắc đến nhà Trần là nhắc đến hào khí Đông A. Đặc biệt hào khí ấy không chỉ được nhắc đến trong lịch sử mà nó còn được nhắc đến qua bài thơ Tỏ lòng của vị tướng quân tài ba Phạm Ngũ Lão. Đồng thời qua bài thơ này, nhà thơ cũng muốn thể hiện nỗi “thẹn” của mình.

Vậy hào khí Đông A là gì? Thông thường người ta hay biết đến hào khí Đông A nhưng lại chưa thực sự hiểu ý nghĩa của nó. Hào khí Đông A có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là đây là chiết tự của nhà Trần, chữ Đông và chữ A ghép lại để chỉ thời đại nhà Trần. Tuy nhiên nó còn một ý nghĩa sâu xa hơn, như chúng ta đã biết nhà Trần là một thời đại hợp lòng nhất từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ nhà vua đến dân chúng. Hào khí Đông A thể hiện rõ ý chí trăm lòng như một của vua dân nhà Trần. Với ý chí quyết tâm không khuất phục, họ đồng lòng đồng thuận với nhau trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Và họ đã làm nên chiến thắng ba lần với giặc Nguyên Mông.

Bài thơ Thuật hoài thể hiện rõ hào khí Đông A thời Trần. Hai câu thơ đầu là tiêu biểu cho sự thể hiện đó:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

Dịch thơ:

“Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

“Hoành sóc giang sơn” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Thời nhà Trần phải chống lại kẻ thù nguy hiểm nhất, mạnh nhất thời bấy giờ. Giặc Nguyên Mông bấy giờ hung hãn và dã man nhất, vó ngựa của chúng đi tới thảo nguyên nào thì thảo nguyên đó không còn một ngọn cỏ. Sức càn quét và xâm chiếm của chúng khiến cho nhiều nước khác phải kinh sợ. Thế nhưng đất nước ta phải đối mặt với những tên giặc nguy hiểm này thì quân dân nhà Trần không hề sợ sệt. Trên dưới một lòng bảo vệ đất nước giang sơn. Ngọn giáo giống như quốc bảo của người quân tử thời Trần, nó được đo bởi chiều rộng và chiều cao của đất nước. Sứ mệnh của quân dân nhà Trần là bảo vệ đất nước, từ bấy lâu nay vẫn thế há gì gặp giặc ngoại xâm nguy hiểm nhất lại phải chùn bước.

Câu thơ thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước và người quân tử thời Trần tự ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước. Chính bởi đồng lòng cho nên ba quân của nhà Trần mạnh mẽ như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Khí thế ấy tưởng chừng có thể nuốt hết một con trâu lớn. Hai câu thơ thể hiện sự hào hùng, bất khuất của quân đội nhà Trần. Đó chính là sự thể hiện của hào khí Đông A.

Nếu hai câu thơ đầu, nhà thơ thể hiện hào khí Đông A của một thời đại đầy hào hùng thì đến hai câu thơ cuối nhà thơ bày tỏ nỗi “thẹn” của mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Dịch thơ:

“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Xưa kia, sinh thời phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với đất nước. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của nhà thơ vẫn còn trong khi ông đã từng đánh Nam dẹp Bắc, chặn biết bao nhiêu con đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài ba của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với đất nước với vua hơn. Chính vì thế mà dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì đất nước nhưng bản thân nhà thơ vẫn không cảm thấy hài lòng với những gì mình đã làm. Theo nhà thơ, có lẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với đất nước.

Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài ba với đất nước mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm Ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho đất nước.

Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng – Mẫu 2

Chúng ta thường được biết đến nhà Trần là một trong những thời đại phát triển nhất. Nhà Trần còn được biết với những trận chiến chống giặc ngoại xâm Nguyên – Mông. Nổi tiếng với hào khí Đông A . Đặc biệt hào khí ấy không chỉ được nhắc đến trong lịch sử mà nó còn được nhắc đến qua bài thơ Tỏ lòng của vị tướng quân tài ba Phạm Ngũ Lão. Đồng thời qua bài thơ này, nhà thơ cũng muốn thể hiện nỗi “thẹn” của mình.

Thông thường người ta hay biết đến hào khí Đông A nhưng lại chưa thực sự hiểu ý nghĩa của nó. Hào khí Đông A có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là đây là chiết tự của nhà Trần, chữ Đông và chữ A ghép lại để chỉ thời đại nhà Trần. Tuy nhiên nó còn một ý nghĩa sâu xa hơn, như chúng ta đã biết nhà Trần là một thời đại hợp lòng nhất từ trên xuống dưới, từ quân đến dân, từ nhà vua đến dân chúng. Hào khí Đông A thể hiện rõ ý chí trăm lòng như một của vua dân nhà Trần. Với ý chí quyết tâm không khuất phục, họ đồng lòng đồng thuận với nhau trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Và họ đã làm nên chiến thắng ba lần với giặc Nguyên Mông.

Bài thơ Thuật hoài thể hiện rõ hào khí Đông A thời Trần. Hai câu thơ đầu là tiêu biểu cho sự thể hiện đó:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

“Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

“hoành sóc giang sơn” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Thời nhà Trần phải chống lại kẻ thù nguy hiểm nhất, mạnh nhất thời bấy giờ. Giặc Nguyên Mông bấy giờ hung hãn và dã man nhất, vó ngựa của chúng đi tới thảo nguyên nào thì thảo nguyên đó không còn một ngọn cỏ. Sức càn quét và xâm chiếm của chúng khiến cho nhiều nước khác phải kinh sợ. Thế nhưng đất nước ta phải đối mặt với những tên giặc nguy hiểm này thì quân dân nhà Trần không hề sợ sệt. Trên dưới một lòng bảo vệ đất nước giang sơn. Ngọn giáo giống như quốc bảo của người quân tử thời Trần, nó được đo bởi chiều rộng và chiều cao của đất nước. Sứ mệnh của quân dân nhà Trần là bảo vệ đất nước, từ bấy lâu nay vẫn thế há gì gặp giặc ngoại xâm nguy hiểm nhất lại phải chùn bước.

Câu thơ thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước và người quân tử thời Trần tự ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước. Chính bởi đồng lòng cho nên ba quân của nhà Trần mạnh mẽ như hổ báo, khí thế át cả sao Ngưu trên trời. Khí thế ấy tưởng chừng có thể nuốt hết một con trâu lớn. Hai câu thơ thể hiện sự hào hùng, bất khuất của quân đội nhà Trần. Đó chính là sự thể hiện của hào khí Đông A.

Nếu hai câu thơ đầu, nhà thơ thể hiện hào khí Đông A của một thời đại đầy hào hùng thì đến hai câu thơ cuối nhà thơ bày tỏ nỗi “thẹn” của mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Xưa kia, sinh thời phận làm trai thì phải có công danh và sự nghiệp. Một người nam nhi chân chính là phải có danh với núi sông, có công với đất nước. Chỉ có như thế mới xứng đáng là phận nam tri đầu đội trời chân đạp đất. Cái nợ công danh của nhà thơ vẫn còn trong khi ông đã từng đánh nam dẹp bắc, chặn biết bao nhiêu con đường của giặc đi. Phạm Ngũ Lão – một vị tướng tài ba của nhà Trần thế nhưng ông vẫn khiêm tốn về công danh của mình với vua, với nước. Ông “thẹn” khi nghe chuyện Vũ Hầu bởi vì Vũ Hầu cũng là phận bề tôi như ông. Nhưng Vũ Hầu làm được nhiều việc có công lớn với đất nước với vua hơn. Chính vì thế mà dù Phạm Ngũ Lão tài giỏi và hết lòng vì đất nước nhưng bản thân nhà thơ vẫn không cảm thấy hài lòng với những gì mình đã làm. Theo nhà thơ, có lẽ bấy nhiêu thôi chưa đủ để gọi là công danh với đất nước.

Qua đây ta có thể thấy rõ được hào khí Đông A thời nhà Trần và nỗi thẹn của người quân tử, người tướng quân hết lòng ra sinh vào tử vì vua vì nước. Có thể nói hào khí Đông A là yếu tố cơ bản làm nên ba lần chiến thắng giặc nguyên Mông. Đồng thời ta có thể thấy được tấm lòng của vị tướng quân tài ba với đất nước mình. Dẫu có bao nhiêu chiến công hiển hách, Phạm ngũ Lão vẫn thấy chưa đủ để phục vụ cho vua và cho đất nước.

Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng – Mẫu 3

Tỏ lòng là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết đến sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông – Nguyên. Phạm Ngũ Lão sáng tác không nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Tỏ lòng

Tỏ lòng được sáng tác trong một bối cảnh đặc biệt, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị đe dọa bởi quân Mông – Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi tầng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sông gấm vóc cha ông để lại.

Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu thể hiện hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bày tỏ nỗi lòng của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng:

“Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Qua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt oai phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm nhận được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại anh hùng trong lịch sử.

Trong đó, câu thơ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” thể hiện hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách dũng mãnh để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời gian dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, không bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang tỏa sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.

Câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), dịch nghĩa là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm nhận được sức mạnh vô cùng to lớn, không đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.

Chỉ với hai câu thơ, mười bốn chữ, nhưng Phạm Ngũ Lão đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về người lính quả cảm, dũng mãnh, oai hùng trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Đồng thời nó cũng thể hiện chí khí, khát vọng sục sôi của đấng nam nhi thời loạn. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chí sĩ thời đó, đều nguyện hiến dâng thân mình cho lý tưởng ái quốc, trung quân, khát vọng công danh và trọng trách bảo vệ non sông, gấm vóc như hòa làm một.

Bởi thế cho nên bậc nam nhi như ông mới cảm thấy hổ thẹn khi chưa thể hoàn thành nghiệp công danh. Nỗi lòng ấy được tác giả thể hiện qua hai câu thơ cuối:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

Hai câu thơ này có thể hiểu là nam tử chưa hoàn thành chuyện công danh, khi nghe chuyện Vũ Hầu liền lấy làm hổ thẹn. Vũ Hầu ở đây chính là Khổng Minh, nhà quân sư lỗi lạc của Lưu Bị nói riêng và của thời Tam Quốc, cũng như toàn lịch sử nhân loại nói chung.

Điều Phạm Ngũ Lão muốn bày tỏ chính là đấng nam nhi phải biết lấy gương sáng của người xưa mà so sánh, để phấn đấu cho xứng với tiền nhân. Niềm khát vọng công danh của tác giả, thực chất là khát vọng được cống hiến tuổi trẻ, công sức, tài năng cho vua, cho giang sơn xã tắc, để có thể ngẩng cao đầu sống giữa thời đại anh hùng.

Nếu như hai câu mở đầu bài thơ là âm hưởng hào sảng, chí khí ngút trời, thì hai câu sau, tác giả đã chuyển sang cảm xúc trữ tình, như lột tả nỗi lòng mình bằng giọng điệu thâm trầm, da diết, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, hùng hồn.

Bài thơ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho một võ tướng tài ba “bách chiến bách thắng” lại sở hữu một trái tim nhạy cảm của thi nhân. Tỏ lòng chính là tác phẩm xuất sắc, thể hiện nỗi lòng của tác giả, cũng là nỗi lòng chung của tuổi trẻ hùng tráng và lột tả hào khí đời Trần.

Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng – Mẫu 4

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:

Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đối phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ, ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Phân tích hào khí Đông A trong bài Tỏ Lòng – Mẫu 5

Mỗi trang văn đều được phủ bóng bởi thời đại mà nó ra đời. Thật vậy, văn học và hiện thực cuộc sống luôn có mối quan hệ gắn bó bền chặt. Bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão được phỏng đoán ra đời năm 1284 – khi cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai sắp bắt đầu. Bởi vậy mà bất cứ ai khi đến với tác phẩm đều cảm nhận được âm vang hào khí Đông A toát ra từng câu chữ.

Đông A là chiết tự của chữ Trần trong tiếng Hán gồm bộ A và chữ Đông. Còn hào khí Đông A là khí thế chiến đấu hào hùng của đời Trần và cũng là của dân tộc ta từ thế kỉ X đến thế kỉ XV dựa trên sức mạnh tinh thần tự lập, tự cường, của ý chí quyết chiến, quyết thắng chống mọi kẻ thù xâm lược. Hào khí Đông A là sản phẩm tinh thần kì vĩ của thời đại hào hùng. Âm vang của hào khí Đông A phần nào được tái hiện qua bài “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão với vẻ đẹp hùng dũng, cao cả và khát vọng lập công của người tráng sĩ.

Trước hết, hào khí Đông A toát ra từ sự biểu dương và ngợi ca vẻ đẹp sức mạnh của con người thời đại nhà Trần. Một thời đại hào hùng sẽ được làm nên bởi những con người hào hùng. Trong dòng cảm xúc của một vị tướng, ta thấy lắng lại bức chân dung kì vĩ của đấng nam nhi thời loạn. Bức chân dung ấy được khắc họa qua vẻ đẹp tư thế giữa không gian rộng lớn:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

Câu thơ hướng tới vẻ đẹp người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước đã chẵn mấy thu. Trong bản dịch thơ, chữ “hoành sóc” được dịch là “múa giáo”- tư thế động, biểu diễn, phô trương có chút gì đó như ngang tàn. Dịch như thế phần nào mất đi sự chắc chắn trong khi phiên âm thì “hoành sóc” được dịch “cầm ngang ngọn giáo”- tư thế tĩnh, dáng đứng hiên ngang, lẫm liệt, tâm thế sẵn sàng chiến đấu, chủ động nghênh đón mọi thử thách của cuộc chiến. Hai chữ “hoành sóc” làm hiện lên bức chân dung sừng sững của người lính sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Vẻ đẹp của tư thế ấy được đặt trong không gian rộng lớn “giang sơn”; thời gian dài, sâu, vô tận “kháp kỉ thu”. Hình ảnh thơ mang tính ước lệ, không gian đậm tô tầm vóc lớn lao, hùng vĩ của người tráng sĩ; thời gian nhấn mạnh sự dẻo da, kiên định, bền bỉ, tận trung báo quốc của người chiến binh nhà Trần. Như vậy bằng âm điệu chắc khỏe hào hùng, bút pháp đậm tính sử thi, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp của tráng sĩ nhà Trần.

Khí thế hào hùng của thời đại mang tinh thần quyết chiến, quyết thắng:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Nếu câu thơ thứ nhất miêu tả vẻ đẹp cá nhân anh hùng thì đến đây là cả vẻ đẹp của đoàn quân anh hùng. Hình ảnh thơ được mở rộng. “Tam quân” là tiền quân, trung quân, hậu quân- cách nói ước lệ cho quân đội nhà Trần. Phép so sánh ngầm “tam quân tì hổ” nghĩa là sức mạnh của quân đội nhà Trần cũng dũng mãnh như hổ báo. Pháp ẩn dụ đã nói lên cái mạnh mẽ, hùng cường- sức mạnh phi thường của cả đoàn quân. Nửa còn lại trong câu thơ, nghiêng về khái quát khí thế xung trận, chiến đấu của quân đội nhà Trần. Có hai cách hiểu về “khí thôn ngưu”. Đó có thể là khí thế nuốt trôi trâu- một biểu tượng mang tính ước lệ để nói về những người trẻ tuổi có khí phách anh hùng của quân đội nhà Trần. Bên cạnh đó, ngưu còn là tên gọi của một vì sao trên trời, với nghĩa này thì câu thơ lại mang hàm ý là hào khí bốc lên át cả sao ngưu. Cả hai cách hiểu đều không mâu thuẫn, cùng hướng tới mục đích làm bật lên sức mạnh kì vĩ, khí thế hào hùng của quân đội nhà Trần khi xung trận. Điều đó đã lí giải tại sao trước một thế lực ngoại xâm hung tàn như giặc Nguyên Mông mà một dân tộc nhỏ bé, khiêm tốn lại có đủ sức mạnh để đối đầu và chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh cộng hưởng của tinh thần đoàn kết trong hào khí Đông A.

Hào khí Đông A không chỉ thể hiện ở tinh thần sục sôi khi ra trận mà nhiều khi còn được thể hiện kín đáo và sâu sắc trong những suy tư của con người, đặc biệt là qua khát vọng lập công danh của con người thời loạn. Lập công báo đền nợ nước làm bật lên cái chí lớn lao và cái tâm cao cả của người tráng sĩ:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Chí là chí làm trai mang tinh thần và tư tưởng tích cực. Chính điều đó đã tạo đà cho người tráng sĩ, làm động lực ra trận lập công và chiến thắng. Còn cái tâm của người anh hùng lại hiện rõ qua nỗi thẹn Vũ Hầu. Như vậy, hào khí Đông A không chỉ thể hiện ở lòng yêu nước, căm thù giặc mà nó còn nằm trong tâm tư sâu kín của vị tướng tài ba.

Hào khí Đông A đã góp phần tọa nên một thời đại với những kì tích rực rỡ lưu danh trong sử sách. Hào khí không chỉ thể hiện trong lời thơ của một người mà còn là tinh thần của cả một thời khiến cho các thế hệ sau này luôn tự nhủ phải làm gì để xứng đáng với cha ông. Qua bài thơ “Tỏ lòng”, hào khí Đông A luôn sục sôi được toát ra nhờ thủ pháp gợi thiên về ấn tượng bao quát, bút pháp hoành tráng, có tính sử thi với hình tượng thơ lớn lao, kì vĩ.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-hao-khi-dong-a-trong-bai-to-long-47206/feed 0
Để học tốt ngữ văn 10 https://quatangtiny.com/de-hoc-tot-ngu-van-10-31770 https://quatangtiny.com/de-hoc-tot-ngu-van-10-31770#respond Fri, 23 Oct 2020 20:32:52 +0000 https://quatangtiny.com/de-hoc-tot-ngu-van-10-31770

Related posts:

  1. Kế hoạch giáo dục lớp 1 sách Cánh diều theo Công văn 2345 (6 môn)
  2. Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 6 (Đề 1 đến Đề 3) – Tập làm văn 8
  3. Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên
]]>
Để học tốt ngữ văn 10, Để học tốt ngữ văn 10

Để học tốt ngữ văn 10

LỜI NÓI ĐẦU

Cuốn sách Để học tốt Ngữ văn 10 được biên soạn nhằm phục vụ kịp thời việc dạy và học môn Ngữ văn theo chương trình đại trà do Bộ Giáo dục và Đào tạo mới ban hành.

Cấu trúc của sách được trình bày theo từng tuần, từng bài, và mỗi bài được gọi tên cụ thể là Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn như cách gọi trong sách Ngữ văn trung học phổ thông.

Nhóm biên soạn đã bám sát chương trình và sách giáo khoa mới, dựa trên cơ sở đó để thiết kế hệ thống câu hỏi và bài tập không chỉ đối với phần luyện tập mà còn đối với phần tìm hiểu nội dung của mỗi bài học. Với mục đích muốn giúp các em có được những kiến thức, kĩ năng, phương pháp và hứng thú trong việc giải quyết các bài tập Ngữ văn theo chương trình mới, chúng tôi không soạn thành các câu trả lời sẵn, mà chỉ đưa ra những gợi ý, xây dựng hệ thống dàn bài, qua đó hình thành phương pháp trả lời cho các em. Bên cạnh đó, người soạn cũng không quên cung cấp những tri thức, vốn văn học và tiếng Việt cần thiết để giúp các em hoàn thành các bài tập và bài học.

Khi sử dụng sách này, các em học sinh nên tìm lấy trong đó những gợi ý, định hướng và cả nội dung tri thức cần thiết, nhất là có thể học tập trong đó cách tổ chức các ý cho bài viết và câu trả lời của mình; tuyệt đối không lấy nó thay thế cho những suy nghĩ độc lập, hoặc quá lệ thuộc vào tài liệu để hạn chế khả năng tư duy sáng tạo của mình.

Hi vọng cuốn sách sẽ là người bạn tốt, có thể cùng các em đi trên con đường học tập, tìm hiểu môn văn học và tiếng Việt.

Download file tài liệu để xem thêm chi tiết

]]>
https://quatangtiny.com/de-hoc-tot-ngu-van-10-31770/feed 0
Bài văn mẫu lớp 10: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 4) https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-10-so-5-36483 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-10-so-5-36483#respond Fri, 23 Oct 2020 08:04:03 +0000 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-10-so-5-36483

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Kế hoạch giáo dục lớp 1 sách Cánh diều theo Công văn 2345 (6 môn)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 10: Bài viết số 5 (Đề 1 đến Đề 4), Bài tập làm văn mẫu Lớp 10 số 5 dành cho các bạn học sinh tham khảo để lấy ý tưởng cho bài tập làm văn số 5 lớp

Mời quý thầy cô giáo cùng các em học sinh bộ sưu tập Bài văn mẫu lớp 10: Bài viết số 5 (Đề số 1 đến Đề số 4) được Tài Liệu Học Thi đăng tải sau đây.

Tài liệu bao gồm 22 bài văn mẫu thuộc 4 chủ đề khác nhau được chúng tôi tổng hợp từ các bài văn hay nhất của học sinh trên cả nước. Những bài văn mẫu lớp 10 số 5 này sẽ hỗ trợ cho việc dạy và học hiệu quả môn Ngữ văn lớp 10 của các thầy cô giáo và cùng các bạn học sinh. Đây là tài liệu hữu ích để các bạn học sinh tham khảo và đạt hiệu quả tốt khi làm bài văn số 5, tránh lạc đề và xây dựng được ý tưởng hay khi viết bài. Chúc các bạn học tốt!

Bài viết số 5 lớp 10 đề 1

Đề bài: Thuyết minh về tấm gương học tốt của lớp em

Dàn ý bài viết số 5 lớp 10 đề 1

I. Mở bài

– Giới thiệu về người bạn tốt mà em sắp kể.

– Giới thiệu qua về thành tích học tập hay việc tốt của bạn.

II. Thân bài

– Kể những điểm nổi bật về người bạn của em.

+ Hoàn cảnh gia đình.

+ Thành tích học tập.

+ Lối sống.

+ Quan hệ bạn bè, thầy cô ra sao?

– Kỉ lại một kỉ niệm sâu sắc của người bạn đó để lại ấn tượng trong lòng em.

– Học được điều gì khi chơi với người bạn đó?

III. Kết bài

– Viết ra những cảm nghĩ của em về người bạn đó (tự hào, thán phục).

– Nêu bài học về việc giao lưu với bạn (gần mực thì đen, gần đèn thì rạng).

Bài viết số 5 lớp 10 đề 1 – Mẫu 1

Nước Việt ta trải qua hàng nghìn năm đấu tranh giữ nước và dựng nước, chính điều đó đã hun đúc cho dân tộc ta ý chí bất khuất, kiên cường, dám đương đầu với khó khăn và không bao giờ đầu hàng trước số phận. Trong cuộc sống đời thường không đó để bắt gặp những tấm gương vượt khó, một trong số đó có Nguyễn Nhật Minh – một bạn học sinh của trường THPT Phạm Văn Đồng, có hoàn cảnh gia đình nhiều éo le nhưng luôn nỗ lực, phấn đấu hết mình trong học tập.

Minh sinh ra và lớn lên ở Đắk Nông – một tỉnh của vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khó, quanh năm chật vật lo cái ăn cái mặc. Minh là con trai lớn trong nhà, đằng sau là ba đứa em đang còn thơ dại, sớm thấu hiểu được sự vất vả của cha mẹ, sau mỗi giờ học bạn đỡ đần công việc nhà và chiều chiều lại lên nương rẫy cùng cha. Những khi vắng việc đồng áng, bạn đạp xe khắp các xã làm thuê cho người ta với hy vọng kiếm ít tiền đỡ đần cho gia đình. Sau một ngày dài mệt mỏi, tối là thời gian Minh vùi đầu vào bài vở, niềm tin nhỏ nhoi về một ngày mai tươi sáng hơn luôn tràn ngập trong suy nghĩ của cậu nam sinh ngày ấy.

Những tưởng cuộc sống dẫu có khăn nhưng vẫn còn gia đình là chỗ dựa, thì biến cố lớn lại xảy đến. Ngày Minh bước vào lớp mười hai cũng là lúc bố Minh bỏ đi theo người phụ nữ khác, mẹ Minh vì quá đau khổ, túng quẫn trước cảnh nhà éo le cũng bỏ nhà đi biệt xứ để lại những đứa con đang còn thơ dại. Bốn anh em dọn về dưới vòng tay cưu mang của bà nội, bà đã gần bảy mươi, tuổi già sức yếu, hàng ngày tiền sinh hoạt chỉ dựa vào tiệm tạp hoá nhỏ ven đường. Cuộc sống khó khăn chồng chất khó khăn, bao nhiêu gánh nặng dồn lên đôi vai của cậu con trai đang đứng trước bước ngoặt cuộc đời.

Sau biến cố, Minh trầm lặng hơn nhưng trong đôi mắt cậu bạn ấy luôn chứa đựng đầy sự quyết tâm, nỗ lực vượt qua những thử thách cuộc đời. Mọi nơi trong trường đều trở thành góc học tập lý tưởng, bất kể là ghế đá hay gốc cây phượng tôi vẫn thường xuyên bắt gặp dáng vẻ cao gầy của chàng trai ấy đang say sưa học bài. Minh yêu thích và học rất giỏi môn Toán với những xấp bài tập dày cộm, chi chít nét chữ và con số. Nhận thức được sự thiếu thốn của mình không làm Minh tự ti hay chùn bước, cậu biết mình luôn phải cố gắng, nỗ lực gấp đôi bạn bè. Trong khi lũ bạn chiều chiều được đi luyện thi ở các trung tâm lớn nhỏ, được bố mẹ chăm sóc bảo ban thì Minh phải đi làm thuê lo cho các em đỡ đần bà nội, đêm đến chẳng cần nghỉ ngơi Minh lại thức thâu đêm nghiên cứu từng tài liệu mượn của bạn bè, thời gian không còn nhiều đây chính là thời khắc cuối thời học sinh mở ra một trang mới cho cuộc đời mỗi con người. Trong mỗi giờ ra chơi, bạn ấy vẫn ngồi đấy mặc cho bạn bè vui chơi, chăm chú xem lại từng bài giảng của thầy cô. Ba năm liền kết quả học tập luôn đứng đầu lớp và là thành viên trong đội tuyển học sinh giỏi của trường, Minh đã đem về cho mình nhiều giải thưởng của tỉnh cũng như khu vực, đặc biệt là huy chương vàng Toán học cấp khu vực các tỉnh Tây Nguyên. Chúng tôi ai cũng nhìn bạn ấy với ánh mắt ngưỡng mộ, thán phục, thầy cô cũng thấu hiểu được hoàn cảnh gia đình Minh nên luôn giúp đỡ, bảo ban tận tình. Vất vả là thế, nhưng chưa một lần tôi thấy Minh vắng mặt trong lớp học, bất kể là mưa bão hay ốm đau bệnh nặng bạn cũng vượt con đường hàng chục cây số từ xã lên thị trấn để học đều đặn hàng ngày.

Trời không phụ lòng người, năm ấy Minh thi đỗ vào đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh ngành công nghệ thông tin với số điểm hai mươi bảy, cũng là thủ khoa của trường cấp ba. Cái tên Nguyễn Nhật Minh năm ấy nổi tiếng khắp vùng, là niềm tự hào của trường, của xã, đặc biệt là những giọt nước mắt hạnh phúc của người bà đã rơi xuống. Rời quê lên Sài Gòn phồn hoa, tấp nập, nỗi lo cơm áo gạo tiền lại dai dẳng bám theo, may mắn thay biết được hoàn cảnh khó khăn và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cậu học trò nghèo, tỉnh đã quyết định trao cho Minh học bổng hỗ trợ suốt bốn năm đại học. Vậy là giờ đây, Minh có thể yên tâm học tập xây dựng một tương lai tươi sáng, mai này có thể phụng dưỡng bà nội, lo cho các em ăn học.

Cuộc sống vốn là những khó khăn, thử thách, con đường tới thành công thì không bao giờ trải đầy hoa hồng. Muốn trở thành một người thành đạt, có địa vị, tạo ra những giá trị cho xã hội thì ta phải biết dấn thân, hy sinh công sức và nỗ lực hết mình cho mục tiêu ấy, đừng bao giờ bỏ cuộc hay đầu hàng trước số phận nghiệt ngã, hãy học tập và làm theo những tấm gương người tốt, giàu nghị lực quanh ta

Bài viết số 5 lớp 10 đề 1 – Mẫu 2

“Người có ý chí vượt qua tất cả sự nặng nhọc có thể đạt được bất cứ mục tiêu nào” (Menander) – Vâng, với một cậu học sinh lớp 6 quen được sống trong sự đùm bọc của ba mẹ, sống đúng nghĩa “biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan” như tôi, thì câu nói đó quả thật nghe như là một triết lí suông. Nhưng từ khi được biết đến tấm gương hiếu học Nguyễn Thế Hoàn, tôi hoàn toàn tin vào điều đó. Nguyễn Thế Hoàn – thần tượng của tôi!

Vốn là một học sinh rất đam mê học Toán, ngoài việc đam mê giải các bài Toán, tôi còn có sở thích tìm hiểu những thông tin về các cuộc thi Toán học. Một lần tình cờ, tôi đọc được trên mạng thông tin về thành tích của đoàn Việt Nam trong kì thi Olympic Toán. Tôi đã thật sự xúc động trước câu chuyện của anh Nguyễn Thế Hoàn.

Anh Hoàn hiện là học sinh lớp 12 Trường THPT chuyên Tự nhiên đã xuất sắc giành huy chương Vàng Olympic Toán học quốc tế 2014. Điều đó đã khiến biết bao người nể phục, nhưng đằng sau vinh quang đó của anh còn là một câu chuyện lấy đi nước mắt của không ít người. Câu chuyện của ý chí, của sự kiên trì, của một tấm gương dám ước mơ và thực hiện ước mơ, và trên hết đó là câu chuyện của tình cảm gia đình rất đỗi thiêng liêng.

Tìm hiểu thông tin về anh, tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.Trước tiên đó là câu chuyện về chàng trai tên Hoàn bắt đầu với chiếc mũ thêu tên mình. Đó là món quà anh được bố mẹ tặng. Một món quà thật giản đơn, tưởng như quá đỗi bình thường với tôi – một cậu nhóc thành phố vốn quen với những món quà đắt tiền, hiện đại. Lúc đó, anh Hoàn mới 3 tuổi nhưng đã tỏ ra là một cậu bé vô cùng thông minh. Khi được mẹ anh cho biết ý nghĩa của nét thêu trên mũ, ngày nào anh cũng hí hoáy lấy viên gạch vẽ tên mình lên khắp sân. Tưởng như chỉ là sự bắt chước giản đơn, nhưng không phải vây! Khi anh đọc vanh vách những chữ trên mặt báo mà người hàng xóm sang chơi thì mọi người trong gia đình anh mới ngã ngửa ra khi biết rằng anh đã tự học thuộc được các mặt chữ. Tôi vốn không tin lắm vào việc có thần đồng, nhưng câu chuyện từ ngày lên ba của anh làm tôi suy nghĩ lại!

Anh Hoàn sống trong một gia đình thuần nông. Ba sào ruộng cấy lúa quanh năm làm sao nuôi đủ bốn người, huống hồ gì là anh Hoàn và em trai đang trong tuổi ăn, tuổi học. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, thế nhưng anh đã vượt qua mọi khó khăn để hiện thực hóa ước mơ. Học cấp ba, dù nhà xa nhưng trưa nào anh cũng đạp xe về nhà ăn cơm. Đơn giản bởi với anh thì tiền một suất ăn trưa bằng tiền mua thức ăn cho cả hai anh em. Tôi chợt nghĩ về những lần làm nũng mẹ, những món quà ăn vặt mà không có nó tôi còn không muốn tới lớp. Tôi thấy mình thật trẻ con, thật vô tâm. Tôi tự thấy xấu hổ với mình.

Anh luôn là học sinh giỏi toàn diện, đạt thành tích cao trong các cuộc thi học sinh giỏi. Với một loạt thành tích cao nhưng chưa một lần nào anh đi học thêm mà đều tự rèn luyện ở nhà. Điều đó khiến tôi phải tự suy ngẫm lại phương pháp học của mình và rồi thêm khâm phục chàng trai giàu nghị lực và kiên trì ấy.

Hết lớp 9, anh Hoàn cùng lúc thi đỗ vào lớp 10 chuyên toán của 3 ngôi trường mà nhiều người mơ ước. Anh đã chọn vào học trường THPT Chuyên thuộc trường ĐH KHTN vì ở đó có nhiều tấm gương như Lê Hùng Việt Bảo, Ngô Đăng Tuấn… làm động lực học tập. Nhà nghèo, để anh được học ở Hà Nội, bố mẹ anh cũng khăn gói lên thủ đô kiếm tiền. Bố mẹ anh người làm thợ xây, người làm phụ hồ nuôi con ăn học. Bố mẹ anh không thuê nhà trọ mà sống tạm trong chiếc lều bạt, dựng bên cạnh công trường xây dựng. Tôi chợt thấy thương bố mẹ tôi vô cùng. Đã bao đêm tôi nghe tiếng bố thở dài bên bàn làm việc, đã bao lần mẹ thức tới sáng bên giường tôi khi tôi ốm. Tôi tự hỏi phải chăng người bố, người mẹ nào cũng có thể trở nên vĩ đại như vậy vì con mình?

Thế rồi “Khổ tận cam lai”, chắc hẳn bố mẹ anh đến giờ vẫn chưa hết mừng vì cậu con trai bé nhỏ trở thành niềm tự hào không chỉ của gia đình mà còn của cả đất nước Việt Nam. Tấm Huy chương Vàng Olympic mà anh giành được là món quà vô giá anh dành tặng bố mẹ mình.

Không ngủ quên trên chiến thắng, anh làm tôi thêm phần nể phục khi anh dự định, trong năm tới sẽ học thêm tiếng Anh để đi du học. Đồng thời, anh cũng cố gắng kiếm càng nhiều học bổng càng tốt vì điều kiện gia đình rất khó khăn.Tôi tin rằng anh sẽ không đơn độc trên con đường học tập vì giờ đây, anh sẽ là tấm gương, là động lực cho những bạn trẻ khác vượt lên chính mình để tìm đến thành công, trong đó có tôi.

“Khi nhiều trông đợi được đặt lên vai một cá nhân, anh ta có thể bắt nhịp vào thời thế và biến giấc mơ thành hiện thực” (Elbert Hubbard) – vâng, không phải chân lí nào cũng mang tính tuyệt đối và hẳn nhiên không phải trong trường hợp nào câu nói trên đây vẫn đúng. Nhưng thiết nghĩ với tấm gương hiếu học Nguyễn Thế Hoàn thì điều đó hoàn toàn đúng. Ở anh, tôi học được một tấm gương của lòng hiếu học, của ý chí và trên hết là sự nỗ lực vươn lên không ngừng để dám ước mơ, dám thực hiện ước mơ. Một bài học bằng xương, bằng thịt chứ không phải là một lý thuyết hay một công thức làm người sáo rỗng. Tôi tự hứa sẽ nỗ lực hết mình từng giây, từng phút, vì ngoài kia còn có bao nhiêu người ở điểm xuất phát thấp nhưng đang vượt xa tôi. Phải rồi, vạch xuất phát đâu có gì quan trọng, quan trọng là cách thức để đến đích thôi mà. Tôi sẽ đến đích!

Bài viết số 5 lớp 10 đề 1 – Mẫu 3

Về trường Trung học cơ sở Nguyễn Bỉnh Khiêm, thuộc phường Hòa Minh – Quận Liên Chiểu, tôi được nghe những câu chuyện cảm động của các em học sinh nghèo, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng vẫn vươn lên học giỏi toàn diện.

Trong đó một em đã để lại ấn tượng cho tôi nhiều nhất là em Lê Hồng Ân, học lớp 6/3. Mặc dù gia đình em có hoàn cảnh rất khó khăn, một mình mẹ em phải bươn chải kiếm tiền nuôi hai chị em ăn học. Như cô Phan Thị Lệ, mẹ em tâm sự: “Nhà cửa và mọi thứ đồ đạc trong nhà đều do người thân mua cho.Tôi làm công nhân ở khu công nghiệp tiền lương rất ít, phải chi tiêu thật tiết kiệm mới có tiền để hai con ăn học. Nhiều khi em Ân phải nhịn ăn sáng để dành tiền mua dụng cụ học tập. Nhưng tôi hạnh phúc là có được một đứa con học giỏi và ngoan hiền đến như vậy.”

Hoàn cảnh gia đình khó khăn là vậy nhưng em Ân trong sáu năm liền là học sinh giỏi toàn diện của trường. Và hằng năm em luôn được thành phố trao học bổng học sinh hiếu học, có tinh thần vượt khó trong học tập. Ngoài ra, em còn được nhận học bổng từ các Hội khuyến học Quận, công ty bia Huế, công ty nhà máy nhựa,…

Em không chỉ là một học sinh ngoan hiền, học giỏi mà còn là một HS tham gia rất năng nổ các hoạt động của trường giao phó. Như cô Tổng phụ trách Hệ Thị Mỹ Đức nhận xét: “Em là một liên đội trưởng xuất sắc nhất của trường Tiểu học Duy Tân. Đến lớp 6 em vừa là một lớp trưởng, vừa là một chi đội trưởng rất năng động, nhiệt tình. Và em là một học sinh có nhiều đóng góp trong những phong trào của đoàn trường”.

Ân học giỏi toàn diện các môn, trong đó đáng biểu dương là em thi được giải ba học sinh giỏi cấp thành phố năm lớp 5. Ngoài ra, em còn có tố chất năng khiếu rất nhiều lĩnh vực như vẽ, đàn, sáng tạo dụng cụ học tập, các phong trào thể thao,…. Đặc biệt là phong trào thể thao em đã được giải nhì bóng bàn năm lớp 4, đến lớp 6 em được giải ba cấp quận.

Em đứng đầu trong việc làm báo tường của lớp với những hình vẽ rất đẹp và có ý nghĩa.

Là một học sinh giỏi và có phẩm chất đạo đức tốt nên em rất được các thầy cô giáo và bạn bè trong trường quý mến. Cô Phan Thị Mỹ Vân, chủ nhiệm lớp nhận xét: “Em là một học sinh rất ngoan hiền, học giỏi tất cả các môn. Và là học sinh có kết quả học tập trong học kì I năm học 2008- 2009 cao nhất trường (9,5). Ngoài ra, em còn là một lớp trưởng rất năng động, nhiệt tình vì vậy mà tôi rất yên tâm khi giao cho em công việc điều hành lớp”. Mặt khác, em là một học sinh rất giàu lòng tương thân tương ái, sẵn sàng giúp đỡ những bạn học sinh yếu kém trong lớp vươn lên trong học tập. Như em Nguyễn Quang Đạt, bạn cùng lớp em đã khen ngợi: “Ân là một người bạn rất tốt, nhiệt tình giúp đỡ em trong học tập. Và từ việc học nhóm với Ân mà em đã tiến bộ hơn rất nhiều”.

Ân là một học sinh không chỉ giỏi mà còn rất ham học và có tinh thần vượt khó. Ở trường, em là một học sinh giỏi, ngoan hiền được thầy cô bạn bè quý mến. Còn ở nhà em là một đứa con hết mực hiếu thảo, em luôn làm những công việc nhà khi mẹ đi vắng. Dù là còn nhỏ tuổi nhưng em nhận thức được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình vì thế mà em đã ra sức nỗ lực học tập. Và em đã bộc lộ ước mơ của mình: “Em sẽ cố gắng học thật giỏi để trở thành một kiến trúc sư, đáp ứng được lòng mong mỏi của gia đình, thầy cô và bạn bè. Và để mẹ em đỡ khổ và vất vả hơn.”

Với khả năng học giỏi toàn diện và nỗ lực “vượt lên trên hoàn cảnh” cùng với sự dạy bảo của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ của các cơ quan ban ngành, đoàn thể… Tôi tin rằng Ân sẽ thực hiện được ước mơ của mình. Tinh thần hiếu học và nghị lực vươn lên không ngừng của Ân thật đáng khâm phục. Đó là tấm gương sáng để cho các bạn học sinh noi theo

……….

Bài viết số 5 lớp 10 đề 2

Đề bài: Thuyết minh về một món ăn đặc sản

Dàn ý bài viết số 5 lớp 10 đề 2

1. Mở bài

– Mỗi vùng quê trên đất nước ta đều có đặc sản của quê mình. Ví dụ: Huế có mè xửng, cơm hến. Quảng Nam có mì Quảng, Hà Nội có phở, có cốm gói lá sen,…

– Hiện nay, phở được bán ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.

– Em sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, em xin được giới thiệu về món Phở ngon nổi tiếng trong và ngoài nước của đất Hà Thành.

2. Thân bài

a) Nguồn gốc

– Không ai biết chính xác phở có từ bao giờ? Ai là người đầu tiên làm ra phở?

– Có giả thiết cho rằng, phở có nguồn gốc từ một món ăn của tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).

– Có giả thiết cho rằng, phở có nguồn gốc từ Nam Định.

– Có một số ý kiến lại cho rằng, phở có nguồn gốc từ miền Bắc nước ta khoảng những năm 1950. Năm 1954, phở theo dòng người di cư từ Bắc vào Nam. Đây là ý kiến được nhiều người đồng ý.

b) Cách chế biến phở

*Cách chế biến nước dùng

– Đây là công đoạn quan trọng nhất.

– Nước dùng của món phở truyền thông được ninh từ xương ống của bò cùng với một sô gia vị.

– Lúc đầu cho lửa thật to. Khi nước sôi bùng lên thì giảm nhỏ lửa, vớt hết bọt ra. Cứ làm như vậy cho đến khi nước trong. Cho vào nồi nước dùng một ít gừng và hành tím nướng để vừa khử hết mùi của xương bò vừa làm nước có mùi thơm dễ chịu.

– Bánh phở: Được làm từ bột gạo tẻ, cán mỏng và cắt thành sợi. ơ miền Bắc sợi bánh phở to hơn hơn ở miền Nam.

*Thịt để làm phở

– Chủ yếu là thịt bò và thịt gà.

+ Nếu là phở bò thì thịt bò xắt lát thật mỏng. Khi ăn, người ta nhúng nước sôi cho chín hoặc cho tái (tùy theo ý thích của người ăn), xếp thịt vào tô phở xong, rắc một số rau thơm đã cắt nhỏ sẵn và rắc các gia vị cần thiết. Xong múc nước dùng đổ vào tô, ta được tô phở thơm ngon,

+ Nêu làm phở gà, người ta luộc sẵn gà, treo trong tủ kính dùng để bán phở. Khi ăn, người ta xé thịt gà ra xếp lên bánh phở đã bỏ sẵn trong tô, bỏ các loại rau thơm và gia vị cần thiết, múc nước dùng đồ vào tô là xong.

*Các loại rau thơm và gia vị

– Chủ yếu là rau mùi (ngò gai), rau mùi tàu, hành.

– Tiêu bắc, bột ngọt.

3. Kết bài

– Phở được xem là món ăn truyền thống của Việt Nam, cũng có thể xem là một trong những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam.

– Phở là món ăn ngon, dễ làm, giá thành rẻ, có thể ăn vào các thời điểm sáng, trưa, chiều, tối trong ngày.

– Ngày nay, theo bước chân của người Việt Nam, phở có mặt ở nhiều nước trên thế giới.

– Ngày nay, phở Việt Nam càng được bạn bè trên thế giới công nhận là món ăn ngon.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 2 – Mẫu 1

(Nem rán)

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,… và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ, với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki. Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến, và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm. Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều.

Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng, tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc.

Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ. Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau.

Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 2 – Mẫu 2

(Bánh ít lá gai)

Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo.Từ một câu ca đến những huyền thoại:

“Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi”

(Ca dao)

Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại…

Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu – con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới.

Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.

Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dạng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, mộ thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao:

Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít
Trầu có đầy sao gọi trầu không?

Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo một đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di
Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà.

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng!

Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột vani cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn.

Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên, xong người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 2 – Mẫu 3

(Nem chua Thanh Hóa)

Nem chua Thanh Hóa là món ăn nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Món này được chế biến hết sức kỳ công, qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu cho tới khi đóng gói sản phẩm…

Thịt để làm nem phải là loại thịt nóng, nghĩa là khi heo vừa mới xẻ thịt thì người thợ làm nem phải thái, xay, chế biến ngay, không để lâu. Bởi nếu thịt nguội, nem sẽ không có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên men.Ngày trước khi chưa có máy xay thịt, người thợ phải giã thịt bằng tay trên những cối đá lớn. Theo kinh nghiệm của những gia đình làm nem truyền thống, thì thịt giã cối đá sẽ có độ giòn, quánh, dính hơn là thịt xay máy.

Bì lợn cũng phải chọn rất kỹ, heo lấy bì phải là heo cạo chín, nghĩa là làm bằng nước sôi. Có như thế lông mới sạch và khi chế biến sẽ đỡ tốn thời gian. Để có những sợi bì trong, ngon, người thợ phải cạo thật sạch tất cả những phần mỡ còn sót lại trên bì, cho tới khi lớp bì mỏng, trắng tinh, trong suốt thì được. Bì càng làm kỹ bao nhiêu thì khi thái chỉ, bì càng giòn và dai bấy nhiêu.

Khi nguyên liệu chính là thịt và bì đã xong, người thợ sẽ trộn hai hỗn hợp này lại với nhau cùng các loại gia vị muối, bột ngọt, đường, nêm thêm chút nước mắm cho thơm. Sau đó mang hỗn hợp thịt trên ra đóng gói. Mỗi một chiếc nem được người gói cho kèm thêm chút tỏi, lá đinh lăng, ớt, những phụ gia này có tác dụng làm cho hương vị nem trở nên ngon hơn, hấp dẫn hơn và cũng là để cân bằng giữa lạnh (nem chua) với nóng (lá đinh lăng, ớt). Lá chuối gói nem phải là lá chuối ngự vừa xanh vừa dày, bởi trong quá trình vận chuyển và lưu giữ nem vẫn tiếp tục lên men.

Để bảo quản được dài ngày, người thợ thường bọc giấy bóng thêm bên trong nem. Thông thường nem gói sau 3 ngày là chín, có thể dùng được. Bóc lớp lá chuối màu xanh ở ngoài, đã thấy lộ ra màu hồng của thịt, màu trắng của sợi bì, màu đỏ của ớt.

Khi thưởng thức sẽ gặp vị chua thanh của thịt, dai giòn của sợi bì, cay của ớt, thơm của tỏi, chát ngọt của đinh lăng một hương vị rất riêng mà không phải nem chua nơi nào cũng có như nem chua xứ Thanh. Nem Thanh có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa.

Nem chua Thanh Hóa vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó. Nghĩ đến nem chua quê mình đầu lưỡi tôi lại cay cay, ngọt ngọt. Khó mà tả được cảm giác sung sướng khi được ăn một vài miếng nem chua ở quê hương mình trong lúc đang ở nơi xa xôi.

Ai đi qua xứ Thanh cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà.

Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ Thanh.Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa.Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay.

………….

Bài viết số 5 ..lớp 10 đề 3

Đề bài: Thuyết minh về di tích lịch sử

Dàn ý bài viết số 5 lớp 10 đề 3

(Bến Nhà Rồng)

I. Mở bài

Giới thiệu ngắn gọn về Bến Nhà Rồng

II. Thân bài

– Vị trí: Bến Nhà Rồng thuộc khu vực gần cầu Khánh Hội, nay thuộc quận 4.

– Lịch sử hình thành:

+ Bến nhà rồng là một thương cảng nằm trên sông Sài Gòn và trở thành một thương cảng lớn tại Sài Gòn.

+ Được xây dựng từ 1862 và hơn 2 năm sau đó bến nhà Rồng này được hoàn thành vào năm 1864.

+ Tại nơi đây, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 đã tạo nên lịch sử dân tộc là người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

+ Năm 1975 tòa trụ sở xưa của thương cảng Nhà Rồng đã được Việt Nam xây dựng lại thành khu lưu niệm Hồ Chí Minh..

– Kiến trúc

+ Mục đích ban đầu xây dựng bến nhà Rồng là để làm nơi ở cho viên Tổng quản lý và nơi bán vé tàu.

+ Nóc nhà của bến nhà Rồng gắn hình rồng

+ Ở giữa là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu ngựa và chiếc mỏ neo”.

+ Vào tháng 10 năm 1865, người Pháp đã cho dựng cột cờ để treo cờ hiệu để cho tàu thuyền ra vào Cảng nên biết vào ngay hay chờ đợi.

+ Toàn bộ kiến trúc xưa của tòa trụ sở thương cảng Nhà Rồng hầu như còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.

– Ý nghĩa lịch sử

+ Là nơi Bác Hồ lên đường ra đi tìm đường cứu nước

+ Bảo tàng Hồ Chí Minh – bến Nhà Rồng có nhiệm vụ sưu tầm, bảo quản, giữ gìn những tư liệu, hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác

III. Kết bài

– Nêu cảm nghĩ của em và khẳng định lại ý nghĩa của di tích bến Nhà Rồng

Bài viết số 5 lớp 10 đề 3 – Mẫu 1

(Bến Nhà Rồng)

Từ thành phố Hồ Chí Minh, tại Bến Nhà Rồng, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước vì thế trong 64 tỉnh thành chỉ duy nhất nơi đây được vinh dự mang tên Bác kính yêu và Bến Nhà Rồng được xây dựng thành bảo tàng Hồ Chí Minh trở thành địa chỉ thân thương với nhân dân cả nước nói chung, nhân dân thành phố nói riêng.

Ngót một thế kỉ rưỡi (150 năm) trải qua bao biến cố thăng trầm, Bến Nhà Rồng vẫn sừng sững uy nghi tại số 1 đường Nguyễn Tất Thành quận 4 thành phố Hồ Chí Minh (xưa là đường Trịnh Minh Thế). Ngay một cửa ngõ thương cảng sầm uất nhất nước-cảng Sài Gòn. Bến Nhà Rồng nằm ngay trung tâm, trước mặt là bến Bạch Đằng lộng gió. Khi thành phố lên đèn cả khu vực lung linh huyền ảo góp phần tô điểm thành phố thêm lộng lẫy, xứng danh là “hòn ngọc của Viễn Đông” Ngày 4/3/1863, ngay sau khi chiếm được thành Gia Định, thực dân Pháp tiến hành mở cảng Sài Gòn và xây dựng trụ sở của công ty vận tải Hoàng Đế. Tòa nhà 3 tầng (2 lầu) được xây dựng theo lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà được gắn 2 con rồng lớn bằng đất hình trái châu theo mô típ “Lưỡng long chầu nguyệt”. Vì thế tòa nhà được gọi là Nhà Rồng và bến cảng được gọi là Bến Nhà Rồng (giới bình dân gọi là “Sở ông Năm” do viên quân Năm xứ Pháp đứng ra xây dựng). Khi chính quyền Mĩ ngụy tiếp quản thì đã chỉnh sửa đầu rồng quay qua 2 phía. Năm 1979, Ủy ban nhân dân thành phố trao cho Sở văn hóa thông tin thành phố xây dựng nơi đây thành khu lưu niệm Bác Hồ. Tháng 10/1995, Khu lưu niệm tiếp tục chỉnh lí, nâng cấp thành bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tòa nhà được xây dựng theo lối kiến trúc phương Tây nhưng có kết hợp kiến trúc phương Đông. Trên nóc nhà có kiến trúc đền chùa. Phía trên nóc có gắn phù điêu mang biểu tượng của công ty hình đầu ngựa và hình mỏ neo… Gọi là bến Nhà Rồng nhưng đến tháng 10/1865 nơi đây mới được xây dựng cột cờ thủ ngữ để treo cờ hiệu để tàu thuyền cập bến. năm 1899, mới xây dựng bến bằng ván dày gồm nhiều bến mỗi bến cách nhau 18 m. lúc đầu chỉ xây 1 bến, về sau công ty mới xây bến thứ 3. Năm 1919, mới xây bến bằng bê tông và đến tháng 3/1930 bến mới hoàn thành chỉ có 1 bến dài 430m. Năm 2001, bức tượng Nguyễn Tất Thành được tạc nên ngay chính diện tòa nhà làm bảo tàng thêm uy nghi xứng tầm vóc lớn lao.

Thời gian trôi qua càng ngày Bến Nhà Rồng càng trờ thành địa chỉ được lưu giữ những sự kiện trọng đại gắn liền với vận mệnh dân tộc. Ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành với 2 bàn tay trắng đã bước xuống con tàu Latouche Treville trong cuộc hành trình “ 30 năm ấy chân không nghỉ”

Đón nhận ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin tìm ra mặt trời chân lí rồi trở về lãnh đạo cả dân tộc tổng khởi nghĩa tháng 8/19945 thắng lợi lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Và sau đó vẫn theo tư tưởng của Người, nhân dân ta tiếp tục cuộc hành trình “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” để từ mùa xuân 1975 non sông gấm vóc thân thương nối liền một dải. Suốt những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ nơi đây được nhân dân thành phố chọn làm địa điểm tổ chức những cuộc mít tinh biểu tình, bãi công… để phản đối chính quyền thực dân và bọn tay sai. Xúc động nhất là sự kiện vào ngày 13/5/1975 con tàu Sông Hồng cập bến chính thức nối con đường biển thông thương giữa 2 miền Nam-Bắc.

Bến Nhà Rồng đã lưu truyền biết bao tư liệu hiện vật quý giá giúp mọi người hiểu rõ hơn về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ thiên tài, người cha già kính yêu. Qua nhiều lần chỉnh lí về cơ bản bảo tàng xây dựng thành 12 phòng trưng bày khoảng 170 tư liệu, hình ảnh, hiện vật (có những hiện vật lần đầu tiên được trưng bày về quê hương, gia đình, sự nghiệp cách mạng đất nước). Nếu ai đã từng đến với bảo tàng đều lặng người khi nhìn tận mắt chứng kiến những kỉ vật về Người. Ta vừa kính phục vừa xúc động làm sao khi đứng trước đôi dép cao su mòn vẹt-đôi dép Bác đã đi khắp thế thế gian. Đặc biệt là những bút tích trong những văn kiện của người đã làm thay đổi dân tộc. Một số những chuyên đề liên quan: những tuyên ngôn bao quát mọi thời đại: “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước dân chủ cộng hòa. Sáu phòng còn lại trưng bày các hiện vật tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh, tình cảm của Bác đối với miền Nam “Miền Nam luôn trong trái tim tôi…”. Đền thờ Bác Hồ ở miền Nam để nhân dân thể hiện tình cảm. Hiện tại bảo tàng là một trong những địa chỉ để nhân dân đến nghiên cứu, giao lưu, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác. Hằng năm, bảo tàng thu hút hàng triệu du khách trong nước và ngoài nước.

Hoa viên Với diện tích gần 1500m² xây dựng làm tòa nhà thì diện tích còn lại trong 1200m², 400 gốc cây các loại quanh năm tươi xanh góp một phần làm trong sạch môi trường thành phố. Trong số này có chậu mai chiếu thủy trồng từ năm 1946, có cây đa Tân Trào do chính cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh mang từ ngoài Bắc vào, có cây bồ đề do Tổng thống Ấn Ðộ trong lưu niệm trong chuyến thăm chính thức nước ta vào năm 1946. Ngoài ra còn có 23 cây Hoàng nam do sứ quán Thái Lan mang tặng.

Bến Nhà Rồng, bảo tàng Hồ Chí Minh đã vinh dự được chọn làm biểu tượng của thành phố nhân ngày kỉ niệm 300 năm Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày ngày lớp lớp các thế hệ con cháu về đến cúi đầu trước tượng đài của Người thắp nén nhang để bày tỏ lòng tôn vinh và tri ân con người đẹp nhất mọi thời đại của dân tộc để xây dựng đất nước đàng hoàng to đẹp, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 3 – Mẫu 2

(Bến Nhà Rồng)

Trong số rất nhiều những điểm du lịch nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh, bến Nhà Rồng là địa điểm vừa mang kiến trúc độc đáo vừa in đậm dấu ấn lịch sử. Bến Nhà Rồng cũng là nơi gắn liền với con đường cách mạng, giải phóng dân tộc của Bác Hồ kính yêu, là một niềm tự hào của người dân thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và người Việt Nam nói chung

Bến Nhà Rồng hay Bảo tàng Hồ Chí Minh đầu là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm trên sông Sài Gòn và được xây dựng từ 1862, và ngôi nhà Rồng này được hoàn thành hơn hai năm sau đó, trên khu vực gần cầu Khánh Hội, nay thuộc quận 4. Nhà Rồng được khởi công xây dựng ngày 4 tháng 3 năm 1863, do “Công ty vận tải đường biển” xây cất để làm nơi ở cho viên Tổng quản lý và nơi bán vé tàu. Nóc nhà gắn hình rồng, ở giữa thay vì trái châu thì là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu ngựa và chiếc mỏ neo”. Đầu ngựa là do thời trước công ty này chuyên lãnh trở đường bộ với xe ngựa kéo, còn mỏ neo có ý nghĩa tượng trưng cho tàu thuyền. Cái tên “Nhà Rồng” có nhiều cách giải thích. Cách giải thích phổ biến nhất là vì nó có gắn đôi rồng lớn bằng đất nung tráng men xanh trên nóc nhà, có thuyết lại cho “Nhà Rồng” có nghĩa là Gia Long với nhà là Gia, rồng là Long. Người lớn tuổi gọi tên là Sở Ông Năm, vì hãng tàu biển này do quan năm Pháp Domergue đứng ra sáng lập. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý. Họ đã cho tu bổ lại mái ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác với tư thế quay đầu ra. Năm 1975, sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, bến Nhà Rồng được cục đường biển Việt Nam quản lí, trở thành biểu tượng của thành phố Hồ Chí Minh.

Bến Nhà Rồng còn gắn liền với một cột mốc, sự kiện lịch sử mang tính chất trọng đại của cả quốc gia, dân tộc. Ngày 5/6/1911, với cái tên anh Ba, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Admiral Latouche Tréville tại Bến Nhà Rồng xin làm chân phụ bếp để có điều kiện sang các nước châu u tìm hiểu và học tập nền văn minh của họ, từ đó tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Bến Nhà Rồng từ đó như một địa điểm lưu giữ những hồi ức đẹp về Bác. Ngày 2/9/1979, trong dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất của Người, Nhà Rồng đã mở cửa đón khách tham quan. Bảo tàng có nhiệm vụ sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền về cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là tập trung nhấn mạnh vào sự kiện ra đi tìm đường cứu nước và thể hiện mối quan hệ tình cảm của Bác Hồ với đồng bào, nhân dân Miền Nam. Không gian tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh ở lối sảnh chính. Trong bảo tàng còn trưng bày những bản Tuyên ngôn độc lập trong lịch sử Việt Nam: Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt (năm 1077) ; “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (năm 1428) và “Tuyên ngôn độc lập” của Bác Hồ (năm 1945). Bến Nhà Rồng – Bảo tàng Hồ Chí Minh của ngày hôm nay cũng là một địa chỉ văn hóa với nhiều hoạt động văn hóa – chính trị có ý nghĩa, gắn liền với cuộc sống.

Bến Nhà Rồng là một địa chỉ, một di tích lịch sử đặc biệt của thành phố Hồ Chí Minh. Bến Nhà Rồng sẽ sống mãi trong trái tim con người Việt Nam như là nơi khởi đầu, gắn liền với con đường giải phóng dân tộc của Bác Hồ. Đó là một dấu son chói lọi của thành phố Hồ Chí Minh, của lịch sử Việt Nam.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 3 – Mẫu 3

(Văn Miếu Quốc Tử Giám)

Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.

Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.

Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.

Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.

Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…

Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…

Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.

Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.

…………

Bài viết số 5 lớp 10 đề 4

Đề bài: Thuyết minh về phương pháp học môn ngữ văn

Dàn ý bài viết số 5 lớp 10 đề 4

I. Mở bài:

– Hiện nay, có hiện tượng HS ngại học văn vì cho rằng đây là môn học khó và khổ. Nguyên nhân là do các bạn chưa tự rút ra cho mình những kinh nghiệm cần thiết cho môn học.

– “Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại” là một kinh nghiệm giúp bạn có thể chiếm lĩnh được môn học và ngày càng yêu thích, say mê văn chương.

II. Thân bài:

– Mô tả lại quá trình trải nghiệm của bản thân để có được kinh nghiệm đó:

+ Mỗi nhà văn trong sáng tác đều tuân theo lí thuyết về đặc trưng thể loại. Có 3 phương thức sáng tác: tự sự, trữ tình, kịch. Mỗi phương thức có cách chiếm lĩnh đời sống và phương tiện nghệ thuật riêng biệt.

+ Khi học bài trên lớp hay trong quá trình dạy, giáo viên đều hướng dẫn HS tìm hiểu theo đặc trưng thể loại của tác phẩm.

Ví dụ tìm hiểu tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, thầy cô sẽ hướng dẫn chúng ta tìm hiểu từ tình huống truyện, nhân vật, ngôn ngữ…

+ Việc soạn bài, tìm hiểu tác phẩm trước ở nhà cũng trên cơ sở các câu hỏi về đặc trưng thể loại đó. Khi soạn truyện cười “Nhưng nó phải bằng hai mày”, HS sẽ được hướng dẫn soạn từ kịch tính của màn kịch, từ nghệ thuật gây cười mà suy ra tính cách nhân vật.

– Phổ biến kinh nghiệm:

+ Quan niệm: nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại là dựa vào thể loại để tìm hiểu tác phẩm. Từ đó làm định hướng cho việc tìm ý và làm văn (thuyết minh, nghị luận, biểu cảm…).

+ Muốn vậy, trước hết ta phải nắm chắc kiến thức về thể loại tác phẩm. Khi học phần văn học dân gian ở học kì I, ta phải nắm được thế nào là sử thi, thế nào là ca dao, thế nào là truyện cười… Khi học phần văn học trung đại, phải nắm được thế nào là phú, thế nào là hịch, cáo, chiếu, biểu.

+ Sau đó, căn cứ vào đặc trưng thể loại, ta sẽ tìm hiểu nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Rồi từ đó vận dụng vào làm văn.

Ví dụ: khi tìm hiểu những đoạn trích trong sử thi “Đăm Săn”, ta phải nắm được đặc trưng của sử thi anh hùng. Về nội dung: Sử thi anh hùng chủ yếu ca ngợi những nhân vật anh hùng có nhiều chiến công trong lãnh đạo cộng đồng thị tộc làm ăn sản xuất hay chiến đấu chống kẻ xâm chiếm cộng đồng. Về nghệ thuật, sử thi anh hùng thường dùng nhiều so sánh, phóng đại, trùng điệp, ngôn ngữ giàu tính hình tượng… Căn cứ vào kiến thức về thể loại đó, khi học và tìm hiểu đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”, ta phải tìm hiểu hai nội dung trọng tâm: thứ nhất, đó là vẻ đẹp của người anh hùng Đăm Săn trong trận giao chiến với Mtao Mxây (hành động, sức mạnh, lời nói, phẩm chất anh hùng); thứ hai, là sinh hoạt của cả cộng đồng trong lễ ăn mừng chiến thắng. Ngoài ra, còn phải chú trọng phân tích nghệ thuật so sánh, phóng đại, trùng điệp trong miêu tả.

+ Cuối cùng, mô hình hóa cách nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại thành đề cương ôn tập để làm tư liệu vận dụng ôn thi hay làm văn. Chẳng hạn, khi ôn tập, chúng ta sẽ phân loại tác phẩm theo thể loại (tự sự, trữ tình) để ôn. Ở các tác phẩm truyện, cần nắm được hình tượng thơ, tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu…

– Đánh giá, vận dụng:

+ Kinh nghiệm nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại sẽ giúp chúng ta phát huy được tính tích cực, chủ động của mình trong việc học.

+ Thúc đẩy quá trình tự học, tự lĩnh hội kiến thức và làm chủ kiến thức với chiếc chìa khóa hữu hiệu trong tay.

+ Vận dụng kinh nghiệm đó sẽ giúp HS chúng ta nắm được tác phẩm một cách dễ dàng và đặc biệt khi làm văn không lúng túng, lạc đề.

III. Kết bài:

Môn Ngữ văn là bộ môn có tính nghệ thuật kết hợp với tính khoa học cao. Rút được kinh nghiệm học văn và làm văn tốt sẽ giúp cho chúng ta khám phá được những bí ẩn của văn chương. “Nắm tác phẩm theo đặc trưng thể loại” là một trong những kinh nghiệm như thế.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 4 – Mẫu 1

Ngữ văn – tên gọi hiện hành của môn văn trong nhà trường phổ thông hiện nay, là bộ môn đang gặp phải sự lo ngại trước tình trạng đa phần học sinh chán nản, không yêu thích. Tại sao lại có hiện tượng như vậy? Phải chăng việc học văn không hứng thú là do chương trình quá nặng, phương pháp của thầy cô chưa đáp ứng được hay bởi sự phát triển quá nhanh chóng của xã hội khiến học văn không còn cần thiết? Dù là lý do gì thì trước hết vẫn xuất phát từ người học. Người học chưa tự yêu thích hoặc chưa coi học văn có ý nghĩa giá trị quan trọng không chỉ trong nhà trường mà còn ngoài cuộc sống. Bởi vậy, phương pháp học văn sẽ là khâu trọng yếu giúp học tốt môn này. Và phương pháp học văn theo lối tư duy sau đây sẽ gợi ý giúp các bạn.

Nhắc tới học tập theo phương pháp tư duy, nhiều người nghĩ nó phù hợp với lối học của các môn tự nhiên hơn. Nhưng không phải, đây là kinh nghiệm học tập phù hợp với tất cả các bộ môn khoa học. Riêng với môn văn hiện nay, là một môn rất quan trọng, nhiều bạn học sinh quan tâm vì đó là môn sẽ có mặt trong tất cả các kỳ thi. Bởi vậy việc học, làm văn theo lối tư duy rất cần thiết, đáp ứng được nhu cầu cho cả đối tượng học sinh yêu thích môn văn và học sinh chỉ học văn theo đáp ứng bộ môn.

Vậy học văn, làm văn theo lối tư duy là như thế nào? Là cách học theo hệ thống logic rõ ràng, mạch lạc vừa giúp ghi nhớ kiến thức vừa giúp suy luận. Môn văn là bộ môn khoa học xã hội, khối lượng kiến thức khá nhiều, việc học theo lối tư duy vô cùng phù hợp, giúp người học văn không cần phải “học thuộc lòng” như nhiều người vẫn nghĩ mà vẫn ghi nhớ và đảm bảo được kiến thức của bộ môn này.

Đầu tiên, sử dụng tư duy để xây dựng hệ thống kiến thức cho nội dung bài học. Hiện nay kiến thức môn văn chia làm hai phần là đọc hiểu và tạo lập văn bản. Kiến thức của phần đọc hiểu bao gồm kiến thức tiếng Việt và làm văn. Hầu hết là các khái niệm, các tính chất, đặc điểm đã có sẵn. Vậy chỉ cần phân loại, hệ thống. Ví dụ như phần Tiếng Việt có thể chia thành các đơn vị kiến thức về phong cách ngôn ngữ chức năng, các biện pháp tu từ. Còn Làm văn, có các thao tác lập luận, các phương thức biểu đạt.

Đối với tạo lập văn bản, chủ yếu kiến thức là ở các tác phẩm văn học. Ở nội dung này chú ý đến hai phần là kiến thức chung về tác giả, tác phẩm và kiến thức trọng tâm trong tác phẩm. Chẳng hạn như muốn hệ thống kiến thức về tác giả, để tạo nên cái nhìn tổng quát, so sánh, chúng ta chỉ cần tổng hợp trên hai phương diện là vị trí và đặc điểm sáng tác của tác giả đó. Ví dụ về tác giả Phạm Ngũ Lão (ở bài thơ Tỏ lòng), vị trí của ông là một vị danh tướng tài giỏi của nhà Trần, cũng là một nhà thơ của dân tộc; đặc điểm nổi bật trong sáng tác của ông là lòng yêu nước, mang âm hưởng hào hùng, đậm chất hào khí Đông A. Tương tự các tác giả khác cũng làm như vậy. Còn đối với kiến thức trọng tâm ở mỗi tác phẩm, cần hệ thống theo ý. Việc tạo ý sẽ giúp chúng ta nhìn thấy bao quát toàn bộ nội dung vừa là căn cứ để ghi nhớ và suy luận. Chẳng hạn ở bài Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, có hai nội dung lớn là vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi. Trong vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên có thể hệ thống ba ý là: Bút pháp nghệ thuật: miêu tả, cảm nhận qua hình ảnh, màu sắc, âm thanh, trạng thái, vị trí; Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên: sống động, rực rỡ, căng tràn, bao quát và rất gần gũi, đậm chất làng quê; Vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ: tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên. Cách hệ thống đơn giản mà vẫn giúp học sinh móc nối, liên kết các kiến thức.

Tuy nhiên, cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau khi học văn theo cách này. Đó là phải đảm bảo các kiến thức hệ thống phải chuẩn xác. Thứ hai, Khi xác lập đơn vị kiến thức cần hệ thống, phải lựa chọn từ khóa, sao cho ngắn gọn, súc tích mà vẫn thể hiện được đầy đủ nội dung tinh thần của tác phẩm. Thứ ba, cách ghi chép, trình bày phải khoa học, dễ nhớ thì nội dung hệ thống mới phát huy tác dụng. Chúng ta có thể sử dụng bảng biểu, sơ đồ tư duy, các hình vẽ,… để thể hiện cách hệ thống. Chẳng hạn hệ thống về tất cả các tác giả văn học có thể dùng bảng biểu gồm: tên tác giả, tác phẩm, vị trí của tác giả, đặc điểm sáng tác. Sau đó sắp xếp theo thứ tự, chúng ta sẽ có một bảng hệ thống tất cả các tác giả, chỉ cần gạch chân những từ khóa đối với mỗi tác giả, sẽ rất dễ nhớ và thậm chí so sánh cũng không khó. Hay sơ đồ tư duy là một trong những cách trình bày hỗ trợ rất tích cực trong phương pháp học văn theo lối tư duy. Từ những kiến thức tác phẩm văn học đã được hệ thống theo cách trình bày thông thường, thay vào đó là sơ đồ tư duy với nhiều màu sắc và các cách kí hiệu sẽ dễ dàng giúp cho người học văn nhớ được kiến thức. Việc tự vẽ sơ đồ tư duy cũng sẽ tạo hứng thú cho việc học văn và ghi nhớ một cách không nhàm chán những kiến thức dài của môn học này.

Có thể thấy, việc học văn theo tư duy không hề phức tạp. Cách làm chỉ giúp người học nhận ra tính chất khoa học của bộ môn. Ngoài việc chiếm lĩnh được, kiến thức khi được trình bày theo hệ thống logic sẽ giúp người học tự khai thác khả năng suy luận. Thậm chí khi nhìn vào hệ thống đó, có thể tập học cách diễn giải mà không cần phải có đầy đủ, chi tiết. Việc hệ thống kiến thức theo tư duy cũng sẽ giúp người học văn hình thành cách viết văn theo lối tư duy. Khi có kiến thức trong tay, theo một hệ thống nhất định sẽ rèn cho người viết văn không còn ngẫu hứng, tùy tiện. Trước khi viết bài cũng cần phải có sự tính toán, sắp xếp và khai thác kiến thức sao cho phù hợp, đúng và trúng vấn đề nhất.

Lợi ích của việc học theo lối tư duy không chỉ phù hợp và có hiệu quả đối với môn văn. Nhưng với đặc thù là một môn xã hội, khối lượng kiến thức nhiều, đa dạng, phương pháp học này rất bổ ích và có lợi cho học sinh. Nếu bạn chỉ là học sinh trung bình khá, cách học này giúp bạn không bị hổng kiến thức, còn nếu bạn là học sinh giỏi sẽ là cơ hội để bạn phát huy năng lực cảm thụ, phân tích, suy luận trong văn chương. Trong khuôn khổ của một bài viết ngắn, việc trình bày, giới thiệu về phương pháp này vẫn còn rất sơ lược. Tuy nhiên sẽ phần nào giúp các bạn học tốt và yêu thích môn văn hơn.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 4 – Mẫu 2

Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa – thời kì mà con người như bị cuốn hút vào đồng tiền, cơn vũ bão của vật chất, văn chương, chữ nghĩa gần như trở thành một trang sức tầm thường, có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Hiếm người nhận thức được giá trị đích thực của việc học văn. Vậy thì, để nhận ra những giá trị của văn chương, cần có những phương pháp hiệu quả để tiếp cận, để học, để có những bài văn hay, thuyết phục những con người mù quáng đó.

Điều đầu tiên, chúng ta cần chọn thầy để học. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết giảng dạy và hướng dẫn, chúng ta sẽ vẫn thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn, hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Hiện nay, tài liệu tham khảo tràn ngập thị trường, để mua được những cuốn sách tốt, chúng ta nên nhờ thầy cô có uy tín giới thiệu. Khi đọc tài liệu tham khảo, chúng ta không nên “bê” nguyên một bài viết của người khác vào làm bài của mình. Những người cầm bút nên nhớ không bao giờ được Đạo Văn. Đọc sách tham khảo không phải chỉ để chép mà còn để xem cách thức làm bài, triển khai vấn đề …

Thứ hai, để có thể hiểu được một tác phẩm văn học, chúng ta cần khám phá tác phẩm trong các mối liên hệ. Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn, nhưng cũng là con đẻ của hoàn cảnh lịch sử, thời đại và là nơi ghi dấu ấn tâm hồn, tư tưởng, tài năng của và tâm huyết của nhà văn trong một thời điểm nhất định. Muốn nắm bắt tác phẩm cần phải biết tác phẩm đó gắn liền với hoàn cảnh lịch sử nào. Khi tìm hiểu văn học cũng phải đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với giai đoạn văn học, trào lưu văn học, thời kì hoặc phương pháp sáng tác… Mỗi tác phẩm văn chương thường có hai phần nổi bật là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tìm hiểu nội dung là nhằm chỉ ra tư tưởng và quan niệm của nhà văn về con người và cuộc sống, tìm hiểu hình thức là chỉ ra tài năng nghệ thuật của nhà văn, cũng như sự thống nhất và phù hợp của hình thức với nội dung. Nên từ hình thức tìm ra nội dung và tránh diễn xuôi tác phẩm, văn thơ. “Mọi chân lí sẽ trở nên sai lầm, nếu chúng ta cứ xét đoán nó trên cơ sở của những kinh nghiệm hằng ngày”. Thế giới hình tượng trong tác phẩm được xây dựng nên từ các chi tiết nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết. Mỗi chi tiết trong tác phẩm là một ô cửa mở ra cả thế giới, bởi nó có khả năng sinh nở ra những ý nghĩa mới .

Nói chung, về văn xuôi, chúng ta nhất định phải nắm được diễn biến câu chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.

Về thơ, cần phải nắm được cảm hứng chủ đạo của thơ, kết cấu cảm hứng của bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc lộ cảm xúc.

Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan trong… Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.

Còn làm sao để có thể viết được một bài văn hay? Văn chương không phải là chuyện cứ làm cho câu từ cầu kỳ, chữ nghĩa đến một bay bổng, uốn éo là hay. Một câu văn hay là một câu văn đơn giản, khúc chiết, rõ ràng và đủ ý. Chỉ có những lúc khi tâm hồn thăng hoa thì văn chương sẽ đạt đến một mức độ thuần túy, thanh khiết, chứ không bao giờ “bay bổng”. Muốn diễn đạt đến mức tinh tế thì phải chuẩn xác ngôn ngữ. Đơn giản nhưng chính là cái phức tạp nhất. Bằng cách nào? Đọc nhiều sách, và một cách đơn giản và thiết thực hơn là có một cuốn từ điển Tiếng Việt. Trong số chúng ta, phần lớn ai cũng có những cuốn từ điển ngoại ngữ mà không hề xuất hiện một cuốn từ điển Tiếng Việt, kể cũng nực cười. Chúng ta chỉ nên đọc chứ không nên tra. Chỉ có những người không hiểu gì về văn học và việc làm văn mới cho là văn chương lai láng, mơ mộng, càng dài càng tốt, muốn viết thế nào thì tùy .

Văn học là một môn khoa học nghệ thuật ngôn từ. Vì vậy, cần kết hợp tăng cường chất văn vừa tăng cường chính xác trong bài văn, nhất là trong việc trích dẫn kiến thức và dẫn chứng. Từ xưa, cụ Tú Xương đã dạy “Văn chương nào phải đơn thuốc / Chớ có khuyên xằng, chết bỏ bu”

Khi viết văn, cần tuân thủ các nguyên tắc. Để đạt điểm cao, bài văn phải được trình bày sáng sủa, sạch đẹp. Vì vậy, trong quá trình triển khai ý làm bài, các em nên trình bày mỗi ý thành một đoạn văn, được phân biệt với dấu chấm xuống dòng. Cách trình bày như thế vừa giúp bài văn sạch đẹp hơn, gây thiện cảm đới với thầy cô giáo, các ý trong bài nổi bật hơn, thầy cô không thể bỏ sót ý, nên bài văn có lợi hơn về điểm số.

Diễn đạt là quá trình vô cùng quan trọng, sánh ngang với việt tìm ý cho bài văn. Không có ý, thì không có gì để viết, nhưng có ý đầy trong đầu, mà không biết cách nói ra, thì ý dù hay, dù sâu sắc đến đâu cũng trở thành vô nghĩa. Cũng cần tránh trình trạng diễn đạt mập mờ, dễ gây hiểu nhầm cho người đọc. Vì vậy, chúng ta cần rèn luyện cho mình một cách diễn đạt đúng, nghĩa là nói và viết đúng ngữ pháp. Nếu chưa giỏi diễn đạt, hãy viết các câu văn ngắn, ít thành phần câu, tránh cầu kì, rườm già và dễ bị mắc lỗi ngữ pháp. Và sau đó, khi đã tiến bộ, cần sử dụng linh hoạt các kiểu câu, linh hoạt các hình ảnh, các phép tu từ, chuyển nghĩa để lời văn có cảm xúc và chất văn.

Giống như quá trình tư duy, quá trình nhận thức của con người, khi học và làm văn, cũng cần qua ba bước là “HIỂU – NHỚ – VẬN DỤNG”. Muốn nhớ được kiến thức thì trước hết phải hiểu nó. Muốn hiểu thì phải chịu khó tìm tòi, suy nghĩ. Học văn không phải là cắm đầu ghi cho đầy vở, mà là phải hiểu, nhớ và ghi lại các ý hay, quan trọng. Gặp những vấn đề chưa hiểu, chúng ta cứ mạnh dạn hỏi, chắc chắn không thầy cô giáo nào từ chối. Kiến thức càng sắp xếp khoa học, chặt chẽ, rành mạch bao nhiêu thì càng dễ nhớ bấy nhiêu. Để tránh học vẹt, khi học văn, chúng ta không nên cầm sách học thuộc lòng, mà nên học theo phương pháp tái hiện

Sau giờ học trên lớp, hãy dành thời gian tĩnh tâm (khoảng 20- 30 phút) để nhớ lại kiến thức vừa học. Việc hệ thống kiến thức theo các bảng, theo mô hình nhánh cây và việc liên hệ giữa văn học và cuộc sống cũng giúp chúng ta nhớ kiến thức lâu và sâu sắc.

Sau khi đã hiểu và nhớ, cần vận dụng lại bằng cách làm bài tập,.. Để dễ nhớ dẫn chứng và học văn đạt kết quả tốt, cần đọc tác phẩm. Ta nên đọc tác phẩm trước khi được học trên lớp, khi chưa hề nghe giảng. Điều này rất quan trọng, bởi những ấn tượng bạn đầu của các em khi tiếp xúc với tác phẩm sẽ được nhớ lâu và giúp định hướng tác phẩm.

Nhìn chung, để học văn đạt hiệu quả, chúng ta phải học văn bằng chính trái tim và cái đầu của mình, tự tìm một con đường riêng cho mình

Maxim Gorky đã từng nói “văn học là nhân học”. Đến với văn học, chúng ta sẽ tự mình đến với những cung bậc và cảm xúc khác nhau của đời thường. Đến với văn học, chúng ta sẽ nhìn đời sâu sắc hơn cũng như khám phá thêm nhiều điều bổ ích lí thú của cuộc sống. Vậy thì, chúng ta hãy học vằn một cách khoa học ngay từ hôm nay để có những kiến thức vững chắc và những bài văn hay.

Bài viết số 5 lớp 10 đề 4 – Mẫu 3

Hiện nay, hiện tượng sợ học văn ngày càng trở nên phổ biến ở các bạn học sinh. Nhưng thực tế học văn không đáng sợ như vậy. Khi tìm được phương pháp học văn đúng đắn, chắc chắn sẽ khiến bạn thích thú bộ môn này. Sau đây tôi xin chia sẻ cách học văn bằng sơ đồ tư duy.

Học bằng sơ đồ đang là phương pháp học tập phổ biến, hiện đại và được áp dụng ở rất nhiều môn học khác nhau. Đây là cách học nhanh chóng, dễ dàng nhưng đem lại hiệu quả cao. Môn Văn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các bạn đừng nghĩ rằng môn văn hoa mĩ, lắm ý, nhiều lời thì không thể biến chúng thành các sơ đồ tư duy đơn giản dễ hiểu. Việc này hoàn toàn có thể làm được nếu các bạn có phương pháp học để tạo sơ đồ tư duy chính xác.

Trước hết, để tạo được sơ đồ tư duy các bạn cần phải nắm chắc kiến thức tác phẩm. Đây là khâu đầu tiên và quan trọng nhất để có thể hình thành được sơ đồ tư duy. Chúng ta hãy thử tưởng tượng khi bạn không nắm chắc kiến thức bắt tay vào lập sơ đồ sẽ lúng túng, không biết nên chia các phần ra sao, khi tạo xong sẽ thiếu phần này, phần kia. Vậy là sơ đồ tư duy đã thất bại ngay từ khâu đầu tiên. Nắm chắc kiến thức tác phẩm bằng cách mỗi văn bản các bạn nên đọc ba lần: lần một nắm được tinh thần chung của tác phẩm; lần hai nắm được nội dung, phân chia bố cục, ý chính; lần ba cảm nhận cái hay cái đẹp của văn bản. Các bạn nhớ nhé, chúng ta có thể tận dụng phần bài giảng của giáo viên trên lớp, kết hợp với việc đọc của bản thân để phân chia ý hợp lý.

Sau khi đã nắm được tinh thần bài học, nội dung chính của tác phẩm chúng ta hãy cùng bắt tay vào tạo sơ đồ duy. Bước đầu tiên xác định các từ khóa. Từ khóa là những từ chủ chốt, thâu tóm được nội dung chính. Vậy làm cách nào để chúng ta xác định đúng từ khóa trong nội dung văn bản. Các bạn hãy đọc kĩ văn bản, lọc từ ngữ chủ chốt, không thể thiếu trong đoạn văn, văn bản đó. Đây là bước vô cùng quan trọng, chỉ khi xác định đúng từ khóa thì các phần tiếp theo mới có thể triển khai hoàn hảo được. Chúng ta cần tự tạo lập thói quen tìm và ghi nhớ từ khóa của mỗi bài. Bởi từ khóa sẽ theo chúng ta trong suốt quá trình tạo lập sơ đồ tư duy.

Bước thứ hai, hãy lấy một tờ giấy lớn, bút màu, thật nhiều màu nhé, bởi sau khi chúng ta hoàn thành sơ đồ các bạn sẽ tạo ra một bức tranh vô cùng thú vị và đặc biệt đấy. Các bạn hãy vẽ chủ đề chính ở trung tâm tờ giấy trắng, bạn có thể lấy một chiếc bút màu nổi bật nhất mà bạn yêu thích để tô màu cho chủ đề trung tâm. Làm như vậy sẽ giúp các bạn dễ chú ý và nhìn nhận vấn đề nhanh chóng hơn. Các bạn lưu ý nên sử dụng giấy trắng không dòng kẻ và xoay ngang chúng ra nhé. Không có những dòng kẻ làm chúng ta phân tâm, cản trở tư duy, giấy ngang còn giúp các bạn thỏa sức sáng tạo nữa.

Xong bước thứ ba, bạn hãy tiếp tục dùng chiếc bút màu mực khác vẽ thêm các tiêu đề phụ cấp độ một. Các tiêu đề phụ này các bạn nên vẽ cách những khoảng trống bằng nhau, và kết nối với chủ đề trung tâm bằng một đường kẻ, để làm nổi bật các bạn cũng có thể ghi bằng các chữ in hoa nhé.

Sau khi đã xác định được các ý chính chúng ta sẽ triển khai các ý con của mỗi tiêu đề đó, mà thường vẫn được gọi là các nhánh cấp 2, cấp 3, hoặc nhiều hơn, phụ thuộc vào nội dung bài học ngắn hay dài của các bạn. Các bạn cũng cần lưu ý, ở các nhánh này cũng chỉ nên để các từ khóa, tránh làm sơ đồ trở nên rối rắm, khó hiểu. Màu sắc của nhánh cấp 2, cấp 3, nên để cùng màu với nhánh cấp 1, như vậy các bạn vừa tiện theo dõi, vừa khiến bức tranh không bị loạn bởi các màu sắc.

Vậy là chúng ta đã gần hoàn thành bức tranh sơ đồ tư duy. Bước cuối cùng để làm bức tranh đó thêm phần sinh động, hãy vận dụng sự khéo léo, tài năng hội họa của mình vẽ những hình thù đáng yêu khác nhau vào bức tranh đó. Những hình ảnh đó giúp bạn tiếp thu bài nhanh hơn, bởi cơ chế hoạt động của não bao giờ cũng hướng đến tiếp thu nhanh các hình ảnh.

Tạo lập sơ đồ tư duy không hề khó. Nếu lần đầu còn nhiều bỡ ngỡ, chỉ cần làm hai ba lần là các bạn đã thuần thục trong các thao tác để tạo lập sơ đồ. Trung bình mất khoảng bốn lăm phút cho mỗi sơ đồ tư duy cho mỗi bài học, thời gian có thể dài, ngắn khác nhau tùy thuộc vào độ dài và độ khó của bài học. Mặc dù phải bỏ thời gian và công sức nhưng cách học này lại hiệu quả hơn rất nhiều. Kiến thức được tiếp thu dễ dàng, giúp các bạn rèn luyện tư duy, đồng thời trong quá trình tạo sơ đồ các bạn còn được thể hiện tài năng hội họa của mình, đó cũng là một cách giải trí hữu hiệu.

Không có gì khó, chỉ là bạn dành bao nhiêu thời gian, công sức cho nó mà thôi. Khi bạn có quyết tâm và ý thức học tập thì không chỉ môn Văn mà bất cứ môn học nào khác cũng sẽ trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Học văn bằng sơ đồ tư duy là một trong rất nhiều phương pháp học tập hiện đại. Hãy áp dụng để thấy được những kết quả ngoài mong đợi nhé.

……………..

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

]]>
https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-10-so-5-36483/feed 0
Phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du (Dàn ý + 10 Mẫu) https://quatangtiny.com/phan-tich-12-cau-tho-dau-trong-doan-trich-trao-duyen-cua-nguyen-du-36076 https://quatangtiny.com/phan-tich-12-cau-tho-dau-trong-doan-trich-trao-duyen-cua-nguyen-du-36076#respond Fri, 23 Oct 2020 06:46:13 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-12-cau-tho-dau-trong-doan-trich-trao-duyen-cua-nguyen-du-36076

Related posts:

  1. Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên (Dàn ý + 10 Mẫu)
  2. Phân tích bài Trao duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (Dàn ý + 8 Mẫu)
  3. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
]]>
Phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du (Dàn ý + 10 Mẫu), Nhằm mang lại nhiều tư liệu hữu ích, hỗ trợ các bạn học sinh lớp 10 học tốt

Phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du để hiểu rõ hơn tâm trạng xót xa của Kiều khi phải nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Nhờ đó sẽ giúp em học sinh lớp 10 ôn tập thật tốt kiến thức môn Ngữ Văn lớp 10, để đạt kết quả cao trong kỳ thi học kì 2 sắp tới.

Với dàn ý chi tiết, cùng 10 bài văn mẫu lớp 10 về phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du sẽ giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn.

Dàn ý phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên”

1. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét đặc sắc về tác giả tác phẩm, đoạn trích

– Dẫn dắt về nhân vật Thúy Kiều và em gái Thúy Vân hai người con gái có tài sắc nghiêng nước nghiêng thành là nhân vật chính trong trích đoạn Trao duyên.

2. Thân bài:

– Đoạn 1: Thúy Kiều nhờ em là Thúy vân thay mình trả ân nghĩa cho Kim Trọng

“Cậy em em có chịu lời

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

+ Một nỗi đau đến xé lòng khi đành phải hy sinh tình yêu của mình, hy sinh chính hạnh phúc cá nhân để cứu lấy cha, cứu lấy gia đình cho trọn chữ hiếu.

-> Minh chứng được tính cách, phẩm giá của Thúy Kiều là người đặt chữ hiếu lên hết

+ Cách xưng hô, dùng từ khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa…) có ý nghĩa một phần là nhờ vả một phần nài ép Thúy Kiều coi đó là việc Thúy Vân cần làm “tình chị duyên em”

-> Tuy rằng trong lòng rất đau xót nhưng Thúy Kiều vẫn mạnh mẽ quyết đoán.

+ Mối tình của Thúy Kiều với chàng Kim tuy rất mặn nồng, thắm thiết nhưng lại mong manh, nhanh tan vỡ.

+ Mâu thuẫn giữa hành động >< lời nói, lí trí >< tình cảm của Thúy Kiều trong cảnh trao duyên cho Thúy Vân. Lời trao duyên, trao kỉ vật nửa muốn trao, nửa muốn níu giữ.

– Đoạn 2: Tâm trạng của Kiều sau khi trao duyên

(Mai sau dù có bao giờ…thiếp đã phụ chàng từ đây)

+ Cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn, Thúy Kiều hướng một lòng về tình yêu thương mong nhớ người mình yêu

+ Mức độ của nỗi đau cao hơn,xót xa hơn khi Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li.

-> Nổi bật vẻ đẹp nhân cách hy sinh đến quên mình, quên hạnh phúc cho nghĩa cử cao đẹp của Thúy Kiều

3. Kết bài

– Đoạn trích nói lên được số phận bất hạnh của nàng Kiều về tình yêu, không được hưởng tình yêu trọn vẹn.

– Tính hiện thực, nhân đạo của Nguyễn Du sử dụng trong đoạn trích “Nỗi thương mình”

– Nghệ thuật miêu tả nội tâm, khám phá nội tâm nhân vật đặc sắc.

Bài văn mẫu phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Trao duyên”

Bài văn mẫu 1

Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:

“Hở môi ra những thẹn thùng

Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”

Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”

Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.

Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:

“Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”

Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!

Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…

Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thật đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.

Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.

Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.

Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.

“Đau đớn thay phận đàn bà

Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”

kiếp số của họ:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

Bài văn mẫu 2

Nguyễn Du, một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như. Quê ông ở Hà Tĩnh, ông được sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc. Sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoài đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công, cũng như sự thối nát của xã hội bấy giờ. Và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh. Nguyễn Du đã viết ra nhiều tác phẩm văn học để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, cho số phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Trong đó có bài “Trao Duyên”, là một bài thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều”, một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc.

“Trao Duyên” nói về một bi kịch dang dở trong tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Bài thơ đã khắc họa một nỗi đau mà khó ai có thể thấu hiểu của Thúy Kiều, qua bài thơ chúng ta cũng thấy được một giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện một niềm khát khao có được hạnh phúc của con người. Nổi bật nhất trong bài thơ Trao Duyên chính là đoạn thơ:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Đọc nhan đề bài thơ là Trao Duyên nhưng tại sao mở đầu bài thơ lại khiến khó hiểu như vậy. “Cậy em, em có chịu lời”, đây giống như một lời nhờ cậy, một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mối duyên dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” để cho chúng ta thấy rằng, Thúy Kiều đã nhờ bằng tất cả niềm hi vọng và tin tưởng, đồng thời dùng tự “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời, không thể từ chối.Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Và càng thấy cái nghĩa cái tình của của Thúy Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào. Em ơi, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Câu thơ như xé tâm can người con gái. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em.

Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày lí do cho những hành động trước đó. “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em”. Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, xót xa nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy ray rứt vô cùng đối với em, vì cảm thấy như mình ép duyên, buộc em phải nhận, nhưng vẫn giao phó “tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định.

Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng Thúy Kiều. Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng, kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Đẹp biết mấy. Từ “khi” được lập lại ba lần gợi cho ta cảm nhận một tình cảm sâu nặng, nhưng xót xa và dày xé tâm can nàng cũng như người đọc. Nguyên nhân tại đâu mà dẫn đến cơ sự này.

“Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Quá khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình nàng phải làm sao đây. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội. Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng đành hi sinh tình yêu để làm trọn phận con, để báo đáp công ơn. Nàng nói cho em hiểu nỗi đau của mình, mong em hiểu và chấp nhận lời yêu cầu ngang trái đó. Nàng sợ em mình không đồng ý, đã cố gắng bằng mọi lí lẽ để thuyết phục em.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Nàng dùng tình máu mủ, nàng dùng đến cái chết để thuyết phục. Nguyễn Du đã dùng các thành ngữ để giúp nàng Kiều thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em chấp nhận yêu cầu. Tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng, dù nàng có phải thịt nát xương mòn thì nàng cũng chấp nhận, chỉ mong sao Vân giúp nàng nối duyên với Kim Trọng. Dù xuống suối vàng nàng vẫn ngậm cười, vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện. Chính cách viện dẫn đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến Vân không thể chối từ. Có thể nói đây là cách duy nhất để vẹn lý, vẹn tình. Đây cũng có thể là một lời trăn trối của nàng, mà ắt hẳn cả chúng ta cũng không thể nào nhẫn tâm từ chối yêu cầu đó. Nghe những lời xót xa đó, hẳn sẽ khiến nàng Vân càng thêm yêu quý chị mình.

Thể thơ lục bát đã giúp cho Nguyễn Du dễ dàng khắc họa tâm trạng dằn vặt, sự đớn đau khi phải hi sinh chữ tình để vẹn tròn chữ hiếu của Thúy Kiều. Nàng đã được ông tô vẽ lên thật đẹp đẽ trong lòng người đọc. Một cô gái quá mong manh nhưng rất mạnh mẽ.

Trao duyên đã cho chúng ta thấy được một cảnh đời đầy bi kịch, một số phận nghiệt ngã đến xé lòng của nàng Kiều. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nỗi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc mãi không thể thôi xót thương.

Bài văn mẫu 3

Trao duyên là một đoạn thơ có ý nghĩa đặc biệt trong Truyện Kiều. Nó là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời mười năm lưu lạc đầy đau khổ của Thúy Kiều, thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ của tác phẩm, đồng thời bộc lộ biệt tài tâm lí của nhân vật Nguyễn Du.

Mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân:

Cậy em, em có chịu lời
Lạy lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Chỉ hai câu mà nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên được một không khí, một cảnh ngộ đặc biệt. Lời nói của Kiều đối với Vân không còn là ngôn ngữ thông thường của chị nói với em trong một gia đình nho giáo, nề nếp nữa. Những chữ cậy (Chứ không phải là nhờ), đặc biệt là sự khẩn khoản của em ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa đã tạo nên không khí trang trọng đặc biệt mở đầu cho một tình huống tâm lí hết sức phức tạp. Bằng những lời lẽ vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, Kiều đã tự hạ mình xuống tư thế của người lụy phiền, an lơn, cầu khẩn chính đứa em ruột của mình. Kiều hiểu được gánh nặng Kiều sắp trao em và càng hiểu sâu sắc hơn về tình thế khó sử của Vân.

Cái điều mà Kiều muốn thưa với Vân chính là bi kịch tình yêu tan vỡ của ninh và tha thiết cầu khẩn Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Lời tâm sự của Kiều không dài dòng nhưng đã nói lên đầy đủ cả sự việc, cả lí lẽ và tình cảm của mình, nhằm cái đích chủ yếu là dọn một con đường cho trái tim liền với trái tim. Kiều đã lay động ở Vân tình cảm chị em máu mủ, ruột thịt:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Kiều còn viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.

Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng Kiều của Nguyễn Du tỏ ra sắc sảo mặn mà cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình.

Song, nàng Kiều trong đoạn Trao duyên cũng như trong suốt truyện Kiều không giản đơn chỉ là một con người hành động vì mục đích nào đó. Nàng Kiều của Nguyễn Du còn luôn sống với những tâm tư, tình cảm thầm kín của mình. Nguyễn Du đã thâm nhập vào thâm cung của nội tâm nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp như một con người thật ở ngoài đời. Kiều khẩn thiết nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng cũng không hề giấu giếm nỗi đau không cùng (Giữa đường đứt gánh tương tư) của mình, không che giấu tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim (Kể từ khi gặp chàng Kim; Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề). Mượn cả cái chết để nói lên sự thanh thản của mình nếu như Vân nhận lời nối duyên với chàng Kim. Vậy mà khi trao những kỉ vật cho Vân, Kiều lại thấy mất mát to lớn không gì bù đắp nổi. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình: Chiếc thoa với bức tờ mây; Duyên này thì giữ vật này của chung. Biết bao giằng xé, đau đớn, chua chát, trong hai chữ của chung đầy phi lí ấy. Khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, vậy mà Kiểu lại thấy mình như là kẻ bị mất người coi mình như là người mệnh bạc. Tất cả những tình cảm mâu thuẫn ấy càng làm cho tấm bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều thêm đau đớn.

Giờ những kỉ vật trao cho Vân, Kiều như sống lại với những kỉ niệm cũ. Sự hiện diện của những kỉ vật càng gợi lên sự tương phản giữa hạnh phúc rực rỡ trong quá khứ với sự chia li đau đớn trong hiện tại. Lời hẹn ước thề bồi mới hôm nào, thoắt cái đã thành chuyện của ngày xưa, của quá văng. Sự cảm nhận của thời gian có màu sắc tâm lí ấy đã tô đậm thêm nỗi đau đớn của nàng Kiều khi ý thức sâu sắc được sự cách biệt giữa quá khứ và hiện tại.

Cố níu giữ tình yêu khi trao kỉ vật trong thế giới tồn hiện tại chưa đủ, Kiều còn cố níu một lần nữa trong tương lai ở thế giới bên kia. Song cái thế giới của mai sau… của linh hồn cũng không hơn gì thế giới của hôm nay, của cuộc đời thực. Vẫn là lời của Kiều tâm sự, cầu khẩn với Vân tưởng như những lời từ thế giới bên kia vọng về, mà sao vẫn thấm đầy nước mắt:

Mai sau dù có bao giờ
Đốt là hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân, bồ liễu đền nghi trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.

Dẫu đã sang thế giới bên kia nhưng linh hồn Kiều đã vẫn còn mang nặng lời thề, vẫn còn mong muốn, khao khát qua những làn gió nhẹ hiu hiu trở về gặp lại người yêu, vẫn khát khao nhận được sự đồng cảm của con người nơi trần thế. Từ lúc tâm sự, giãi bày, thuyết phục Vân nhận lời trao duyên, đến lúc trao kỉ vật, rồi đến khi sống trong thế giới của hồn oan, Kiều càng ngày : Càng đau xót nhưng cũng càng ngày càng quyết liệt, cố níu giữ tình yêu của ninh bằng mọi cách. Thật quả là; Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Bản chất thủy chung son sắt với tình yêu đã làm cho nàng Kiều, ngay cả khi đã hóa thân vào hồn oan, cũng tỏ ra rất người, rất trần thế.

Dẫu có quay về với quá khứ, vẫn hướng tới tương lai của thế giới bên kia nhưng nàng Kiều chủ yếu vẫn là con người sống trong thực tại. Nguyễn Du, bằng cảm quan hiện thực của mình, đã không trình bày cảnh trao duyên một cách đơn giản, sự việc này nối tiếp sự việc kia, mà biết dừng lại ở cái bây giờ, cái cá biệt, không lặp lại của thời gian và không gian đã khám phá thế giới nội tâm của nhân vật. Nàng Kiều cuối cùng lại quay về với chính lòng mình, tột cùng đau đớn khi ý thức sâu sắc bi kịch trong hiện tại của mình. Sự tan vỡ tình yêu là có thật, là không gì cứu vãn nổi. Dồn dập những hình ảnh, những từ ngữ: trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, nước chảy hoa trôi, phận bạc như vôi đã nói lên thật thấm thìa, đầy xót thương về nỗi đau của nàng Kiều. Bi kịch của nàng Kiều lại càng sâu sắc khi trước hiện tại, nàng vẫn không thôi khao khát hạnh phúc tình yêu:

Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Đến đoạn cuối, Kiều như quên hẳn là đang nói với Vân mà như nói với hình mình. Bi kịch tình yêu tan vỡ lên tới tột đỉnh, Kiều thốt lên những tiếng kêu xé lòng:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Tên chàng Kim vang lên hai lần trong một câu thơ, vừa tha thiết, vừa xiết ao trân trọng. Câu cuối cùng là một lời than, lời tự trách mình. Bước ngoặt im lí này thật bất ngờ nhưng lại rất hợp lí, bị quy định bởi chính logic tính cách của Kiều. Nàng Kiều sống hết mình trong nỗi đau tột cùng của mình, hưng trước sau vẫn là một con người giàu lòng vị tha. Kiều ân cần, chu đáo với chàng Kim, nhưng vẫn tự cho mình là người đã phụ chàng. Kiều quên nỗi bất hạnh của mình để cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người khác. Kiều thương chàng Kim hơn cả chính bản thân mình, Kiều không đổ lỗi cho hoàn anh mà tự nhận trách nhiệm về mình. Có thể nói, chỉ một chữ phụ thôi mà đã im sáng lên vẻ đẹp nhân cách cao thượng, giàu lòng vị tha của nàng Kiều.

Đoạn Trao duyên, về hình thức, được trình bày như là lời tâm sự, giãi bày của Kiều với Vân, tức là bằng ngôn ngữ đối thoại. Hình thức đối thoại ấy rõ nhất là ở mấy câu thơ đầu, nhưng càng ngày càng mờ nhạt dần. Sự thật, cả cạn thơ chỉ thấy ngôn ngữ của Kiều, không thấy lời đáp lại của Vân. Hình thức đối thoại được dần dần chuyển thành hình thức độc thoại nội tâm. Ngòi bút bậc thầy tâm lí mà Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí Thúy Kiều trong cảnh trao duyên như là một quá trình tự ý thức về bi kịch tình yêu tan vỡ của mình, tự bộc lộ, tự phơi bày tâm sự, tình cảm và khát vọng sâu kín của mình. Và chính vì thế, người đọc như được chứng kiến tận mắt cảnh trao duyên chứ không phải được nghệ thuật lại cảnh này.

Bài văn mẫu 4

Trao duyên nằm ở đầu phần hai: Gia biến và lưu lạc, khép lại những tháng ngày “êm đềm trướng rủ màn che” mở ra mười lăm năm lưu lạc và số phận bất hạnh của nàng Kiều. Trước khi bước vào giai đoạn đầy đau thương ấy, vào đêm cuối cùng trước khi xa nhà, Thúy Kiều đã trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Tình cảnh ấy khiến người đọc không thể cầm nước mắt và cảm thương cho số phận nàng.

Mở đầu đoạn trích là lời cậy nhờ của Kiều với Vân:

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Ngôn ngữ của nàng Kiều sử dụng tỏ ra hết sức tinh tế và chuẩn xác. Chữ “cậy” vốn giống chữ “nhờ” là hành động yêu cầu, mong muốn ai đó làm việc gì đó giúp mình. Nhưng chữ “cậy” lại khác chữ “nhờ” ở sắc thái biểu cảm, “cậy” thể hiện một sự tin tưởng trọn vẹn đến người được nhờ. Chữ “chịu” giống chữ “nhận” nghĩa là đồng ý, nhưng đồng thời chữ này cũng khác chữ “nhận” ở thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được nhờ vào tình thế không thể từ chối. Như vậy với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo, Thúy Kiều đã bước đầu đặt em vào tình thế phải nhận lời.

Không chỉ ngôn ngữ mà cử chỉ, hành động cũng hết sức chân thành: lạy, thưa. Hành động “lạy” vốn chỉ hành động kính trọng, biết ơn của kẻ dưới với người bề trên. Nhưng trong hoàn cảnh này người lạy lại là Thúy Kiều – chị, người được lạy là Thúy Vân – em. Có sự đảo ngược vị thế giao tiếp kẻ chịu ơn đang lạy ân nhân của mình. Kiều đã cúi mình trước em, vì nàng hiểu rằng việc nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trong là bất công, là thiệt thòi với em rất nhiều. Hành động “thưa” cũng là một từ chỉ hành động kính trọng của kẻ dưới với người trên. Trong hoàn cảnh này, nó được sử dụng để thể hiện sự trân trọng, biết ơn của Thúy Kiều trước sự hi sinh của Vân. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu hết sức tha thiết, chân thành Thúy Kiều dành cho em.

Trao duyên vốn là một vấn đề hết sức tế nhị và khó nói nên Thúy Kiều đã phải suy nghĩ, chọn lọc thật kĩ lưỡng ngôn ngữ, cử chỉ, giọng điệu sao cho phù hợp để mở lời trao duyên. Ngay từ cách mở lời trao duyên người đọc đã có thể cảm nhận được sự thông minh, tinh tế am hiểu tâm lí và luôn nghĩ cho người khác của nàng Kiều.

Sau những lời mở đầu hết sức khôn khéo ấy, Thúy Kiều đã tâm sự với em những điều thật lòng để thuyết phục em nhận lời trao duyên. Trước hết nàng tâm sự với em về mối tình với Kim Trọng: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”. Những kỉ niệm tình yêu thật đẹp đẽ, sâu đậm mà nàng chỉ muốn giữ cho riêng mình, từ “khi” được lặp lại hai lần đã cho thấy rõ mong muốn đó. Nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi, thực tại thật đau đớn và phũ phàng với nàng:

Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Hoàn cảnh “giữa đường đứt gánh tương tư” Kiều bị đặt vào tình thế lựa chọn chữ hiếu và chữ tình. Đau đớn và xót xa nhưng một người con có hiếu như nàng nhất định sẽ không chọn chữ Tình mà để cha mẹ phải đau khổ, nàng lựa chọn chữ Hiếu mà trái tim như vụn vỡ khi phải phụ lòng chàng Kim. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đã bị hiện thực phũ phàng, ngang trái làm tan vỡ. Nàng dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em và cũng là thuyết phục em:

Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Thúy Kiều đã đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục em: trước hết em vẫn còn trẻ, tuổi xuân còn dài, thứ hai nàng lấy tình chị em để lay động Thúy Vân, và thứ ba nàng lấy cả chết ra để thuyết phục, dù có chết nàng vẫn “ngậm cười” vì hành động cao đẹp Thúy Vân đã nhận lời với mình. Với ba lí lẽ hết sức thuyết phục như vậy, đã khiến cho Thúy Vân không thể chối từ lời đề nghị của chị. Mặc dù vô cùng đau đớn khi phải trao duyên của mình cho em nhưng Thúy Kiều không hề quan tâm đến sự thua thiệt của bản thân mình, đến nỗi đau mà mình phải chịu đựng, lúc nào nàng cũng chỉ canh cánh một nỗi đau là đã phụ bạc Kim Trọng và tìm cách bù đắp cho chàng. Lời thuyết phục em của nàng vô cùng chân thành, cảm động.

Để tạo nên thành công cho lời thuyết phục trao duyên, ta cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về mặt nghệ thuật. Ngôn ngữ sử dụng tài tình, những chữ dùng đắt giá “lạy” “thưa” “cậy”,… có ý nghĩa quan trọng trong việc thuyết phục Thúy Vân. Lập luận, lí lẽ sắc bén vừa lí trí mà cũng vô cùng tình cảm.

Bằng lớp ngôn từ tinh tế, thông minh Thúy Kiều đã khiến em gái Thúy Vân phải nhận lời trao duyên. Qua đó ta thấy sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều. Đồng thời cũng thấy được tấm lòng thủy chung, người con có hiếu với cha mẹ của nàng Kiều. Đồng thời cũng cho thấy số phận đầy bất hạnh của nàng.

Bài văn mẫu 5

Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với “Truyện Kiều”, một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện”, “Truyện Kiều” phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ “Truyện Kiều”, song “Trao duyên” vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em trai, phải từ bỏ tình cảm của mình với Kim Trọng, trao lại duyên tình dang dở ấy cho Thúy Vân dù trong lòng có bao nỗi đau xót. Nỗi đau ấy được khắc họa rõ nét nhất qua mười hai câu đầu của đoạn trích:

“Cậy em em có chịu lời,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Nhan đề đoạn trích là “Trao duyên” nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “trao duyên” ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến việc mình đã không giữ trọn lời đính ước với người yêu, băn khoăn thức trắng đêm nghĩ cách trả nghĩa cho chàng, cuối cùng đành nhờ cậy em là Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng.

Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. “Cậy” và “nhờ” đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ “nhờ”, Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ “cậy”, bởi vì từ “cậy” này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hi vọng và tin tưởng, nét nghĩa này từ “nhờ” không thể hiện được. Cũng như vậy, thay vì từ “nhận”, tác giả lại dùng từ “chịu” bởi vì khác với từ “nhận”, từ “chịu” không chỉ thể hiện sự đồng ý, nhận lời mà còn kèm theo ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối. Cách tác giả dùng từ rất chính xác, bởi lẽ đây là chuyện rất quan trọng đối với Kiều, nàng hi vọng Thúy Vân đồng ý, nên lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng là hết sức vô lí, nhưng nàng vẫn quyết tâm muốn trả nghĩa cho người yêu, bỏ qua lẽ thường, nàng “lạy” và “thưa” đối với em mình. Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Trong tình thế vừa tình vừa lễ như vậy, Vân sao có thể không nhận lời?

Lạy xong, Kiều mở lời giãi bày hoàn cảnh của mình với em, nói ra ý định muốn em kết duyên với Kim Trọng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Thành ngữ “đứt gánh tương tư” có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về “keo loan” để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm của nàng biến thành một mối “tơ thừa” giao phó cho Thúy Vân, “mặc” cho Thúy Vân định liệu.

Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, nàng không dằn được lòng mình, tâm sự với em:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Từ “khi” được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Những kí ức ấy vốn rất ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại trở thành một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng, đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:

“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ “hiếu” và “tình”, Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể thấu hiểu cho và chấp nhận yêu cầu của mình.

Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng lí lẽ để thuyết phục em:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Để thuyết phục em, Kiều không tiếc viện đến tình máu mủ, cùng với cả cái chết. Các thành ngữ “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn” , “ngậm cười chín suối” được dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em cho bằng được của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng còn quan trọng hơn cả mạng sống, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy được an ủi, mãn nguyện. Chính cách viện đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.

Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân , Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.

Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, “Trao duyên” mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như “Truyện Kiều” đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

Bài văn mẫu 6

Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Truyện Kiều”. Đây là tác phẩm mà Nguyễn Du đã thể hiện được niềm cảm thông, thương xót với số phận “hồng nhan bạc mệnh”. Cuộc đời của Thúy Kiều gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Mười hai câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” là sự mở đầu cho những tai ương mà nàng gặp phải.

Để có tiền chuộc cha và em, Thúy Kiều đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh. Quyết định ấy khiến nàng vô cùng đau đớn khi mối tình với Kim Trọng bị dang dở. Để không phụ lòng người mình yêu, nàng đã trao duyên lại cho người em gái Thúy Vân để cô thay mình nối duyên với chàng Kim:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ngay từ câu thơ mở đầu, người đọc đã cảm nhận được sự trang trọng trong lời nói và hành động của Thúy Kiều. Phải chăng việc trao duyên là việc hệ trọng, khó nói nên cách thức trao duyên cũng trịnh trọng và khác lạ hơn bởi thông thường người ta chỉ trao những đồ vật chứ không có ai lại trao đi một thứ khó xác định, khó nắm bắt như trao duyên.

Tuy là chị nhưng Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ, hành động rất trang trọng đối với Thúy Vân. Nàng không sử dụng từ “nhờ” mà lại dùng từ “cậy”. “Cậy” không chỉ mang nghĩa nhờ vả mà còn mang sắc thái như nài nỉ, ép buộc đồng thời cũng thể hiện sự tin tưởng vào người được nhờ cậy. Song song với lời nói là hành động “lạy”, “thưa” của Thúy Kiều. Việc nhờ cậy phải hệ trọng, khẩn thiết lắm thì Thúy Kiều mới có hành động như vậy. Thông thường chỉ những người có vai vế thấp hơn người cùng giao tiếp mới có những hành động “lạy”, “thưa” nhưng trong trường hợp này, Kiều đã hạ mình xuống để cầu mong em gái chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng bởi lẽ nàng là người mang ơn. Đặt mình trong hoàn cảnh của Thúy Vân thì cô chỉ có thể “chịu lời” chứ không thể từ chối. Nếu Thúy Vân dùng từ “nhận lời” thì Thúy Vân có thể khước từ lời nhờ cậy, cô có thể giúp hoặc không giúp nhưng Thúy Kiều muốn em đồng ý giúp mình nên nàng đã đặt Vân vào hoàn cảnh mà cô chỉ có thể “chịu lời”. Với lời nói và lễ nghi như vậy, làm sao Thúy Vân có thể từ chối giúp đỡ.

Để em gái hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến sự nhờ cậy này, Thúy Kiều đã thuật lại câu chuyện của mình với Kim Trọng:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”

Có lẽ tình yêu ấy sẽ đơm hoa kết trái nếu không bị đứt gánh giữa đường. Có lẽ tình yêu ấy sẽ có một kết thúc tốt đẹp nếu gia đình Kiều không gặp phải gia biến, Kiều không phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Hình ảnh ẩn dụ “gánh tương tư” chỉ mối tình của Thúy Kiều – Kim Trọng. Tình yêu vừa chớm nở chưa được bao lâu thì đã phải chịu sự lỡ dở. Có ai không đau xót cho sự dở dang của mối tình kim cổ đó. Tình duyên của bản thân không thành, đó có thể là “mối duyên thừa” đối với Thúy Vân nhưng Thúy Kiều vẫn “mặc em” chắp nối. “Mặc em” nhưng thực chất là nài nỉ, khẩn cầu em giúp đỡ. Biết rằng em gái sẽ khó xử nhưng nàng vẫn phó thác cho em, mong muốn em dùng keo loan để nối mối tơ duyên.

Nàng chia sẻ câu chuyện tình yêu của mình với Thúy Vân để cô có thể hiểu hơn về hoàn cảnh khó xử mà Thúy Kiều đang gặp phải. Kể từ khi gặp Kim Trọng, hai người đã nảy sinh tình cảm. Họ đã cùng nhau thề nguyền, đính ước. Các từ ngữ chỉ thời gian như “ngày’, “đêm” cùng sự lặp lại ba lần của từ “khi”: “khi gặp”, “khi ngày”, “khi đêm” đã cho thấy đó là một mối tình gắn bó sâu đậm. Chắc hẳn bạn đọc không quên đêm thề nguyền của Thúy Kiều và Kim Trọng:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”

Tình cảm dành cho nhau phải vô cùng sâu sắc thì họ mới cùng nhau thề nguyền. Nhắc đến hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” có lẽ Thúy Kiều đã không kìm được nỗi xót xa, tiếc nuối. Vầng trăng là chứng nhân cho lễ thề nguyền ấy vậy mà giờ đây nàng lại chính là người phụ tấm chân tình của chàng Kim. Đâu phải Thúy Kiều muốn như vậy. Đâu phải Thúy Kiều là con người bạc tình bạc nghĩa. Tai họa, sóng gió bỗng xảy đến bất ngờ, gia đình nàng bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị bắt. Để cứu cha và em thoát khỏi những đòn tra tấn tàn nhẫn của bọn sai nha, nàng đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh. Đọc đến dòng thơ này chúng ta mới có thể hiểu được nỗi khó xử của người con gái tài sắc ấy:

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Là người con cả trong gia đình, đứng giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, Thúy Kiều đã lựa chọn chữ “hiếu” để làm tròn bổn phận của một người con. Cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục chẳng lẽ bây giờ khi gia đình gặp sóng gió nàng lại chạy theo tiếng gọi của tình yêu để bỏ mặc gia đình? Là một người con hiếu thảo, nàng không thể làm như vậy. Công ơn của cha mẹ phận làm con dùng cả cuộc đời để báo đáp cũng không thể trả hết. Thúy Kiều tự nhận thấy tấm thân của mình không đáng giá bằng công ơn của cha mẹ:

“Vẻ chi một tấm hồng nhan
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành”

Sau khi giãi bày, tâm sự với Thúy Vân về mối tình với chàng Kim cũng là lúc nàng đưa ra những lời lẽ thuyết phục:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Đối với Thúy Vân, những năm tháng tuổi trẻ của nàng vẫn còn dài rộng nhưng đối với Thúy Kiều thì những ngày xuân ngắn ngủi đã chấm dứt. Vì thế mà nàng lấy thời gian, “ngày xuân” ra để em thay mình giữ trọn lời thề non hẹn biển với chàng Kim. Để tăng thêm tính thuyết phục, Thúy Kiều còn nhắc đến tình máu mủ của chị em ruột thịt khiến Vân không thể từ chối lời khẩn cầu. Chỉ cần Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng thì dù cho Thúy Kiều ở nơi “chín suối” cũng mỉm cười vui vẻ:

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Hai thành ngữ quen thuộc của dân gian “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” được tác giả sử dụng linh hoạt và tài tình. Đó đều là các thành ngữ chỉ cái chết, chỉ cõi âm phủ tăm tối. Với Thúy Kiều, mạng sống của mình không quan trọng bằng việc trả nghĩa cho chàng Kim. Chỉ cần Thúy Vân “chịu lời” thì dù có ở cõi chết nàng cũng cảm thấy mãn nguyện. Dù không còn sống trên thế gian này nữa thì ơn nghĩa của Thúy Vân nàng sẽ không bao giờ lãng quên. Không chỉ là người con gái hiếu thảo với cha mẹ, Thúy Kiều còn là một người sống có tình có nghĩa, biết hi sinh vì người khác.

Với thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển trong từng câu chữ cùng các thành ngữ, hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã thể hiện thành công tâm trạng của Thúy Kiều khi phải trao lại mối duyên tình cho em gái ở mười hai câu thơ đầu tiên. Bằng giọng thơ xót xa đầy đau đớn, tác giả đã khơi gợi được lòng cảm thương, đồng cảm của bạn đọc bao thế hệ dành cho người con gái “hồng nhan bạc phận”.

Có thể nói mười hai câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa những tâm trạng dằn vặt, những giằng xé trong nội tâm nhân vật Thúy Kiều. Qua đó cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo của nhà thơ khi lên tiếng tố cáo chế độ xã hội vì đồng tiền nên đã đẩy người phụ nữ rơi vào những bi kịch. Vì “sóng gió bất kì” mà Thúy Kiều phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Cũng vì sóng gió bất kì” mà nàng phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Đoạn thơ trên đã góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích “Trao duyên” nói riêng và tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung, đồng thời nó cũng tạo nên những dư âm khó phai mờ trong lòng bạn đọc.

Bài văn mẫu 7

Cuộc đời chìm nổi của những người phụ nữ phong kiến xưa đầy đau thương, họ phải trải qua bao bi kịch đau đớn. Thân phận của nàng Kiều trong “Truyện Kiều” là một ví dụ tiêu biểu cho số kiếp truân chuyên, bất hạnh của những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Trong cuộc đời “đoạn trường”, nàng Kiều đã có mối tình đẹp với chàng Kim, những tưởng sẽ đơm hoa trái ngọt ngào lại phải lỡ dở, dây tơ hồng của mỏng manh chẳng thể chắp nối mối lương duyên vẹn tròn. Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm đã cho thấy rõ những day dứt, đớn đau, tủi hờn của nàng Kiều khi buộc phải trao gửi duyên mình cho em gái. Mười hai câu đầu bài thơ được viết nên thật xúc động:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Bằng tất cả tấm lòng mình, Kiều đã nhờ “cậy” đến em, không biết rồi em có chịu lời không nhưng chị vẫn đặt hết niềm tin vào lời ấy. Từ “cậy”, cất lên nghe sao xót xa mà thương cảm quá, dường như, bao nhiêu nỗi hy vọng , mong chờ và sự tin tưởng chị đều nhờ đến Vân. Tiếng “chịu” như sự nài nỉ, van lơn lại vừa như đặt Vân vào thế không thể từ chối lời nhờ cậy ấy. Dù mình là chị, dù theo thứ bậc Kiều là phận trên nhưng trước tình cảnh trớ trêu này, Kiều đã chọn cách “lạy” và “thưa” em mình, bởi biết nói làm sao được ân tình lớn lao, sự hy sinh mà Vân phải chấp nhận khi lời cậy nhờ của Kiều nói ra. Lúc này đây, trong trái tim Kiều biết bao đau đớn, xót xa, tình yêu dành cho Kim quá lớn mà số phận lại hết sức trớ trêu, nàng không thể thực hiện lời thề nguyền cùng chàng Kim. Không còn cách nào khác để làm vẹn tròn tình nghĩa, Thúy Kiều đau khổ mà nhờ đến Thúy Vân- người duy nhất mà nàng Kiều tin tưởng rằng có thể thay mình nối tiếp mối lương duyên dang dở với chàng Kim. Chỉ hai câu thơ ấu thôi mà ta thấy được một con người đầy tinh tế và sâu sắc nơi Kiều.

Sau khi mở lời, Kiều tâm sự những nỗi niềm của cuộc tình mình với chàng Kim:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.

Gánh tương tư nặng lòng đến vậy mà lỡ “đứt gánh” sao không khỏi đắng cay. Vì chữ “hiếu” Kiều đành chấp nhận bán mình, chữ “tình” Kiều cũng không muốn bội bạc, đành ngậm ngùi:

“Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Hơn ai hết, Kiều hiểu được rằng Vân sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi khi đáp ứng lời nhờ cậy này của nàng . Với Kiều, chàng Kim là mối duyên tốt đẹp, là mối tình mơ ước của cả đời nàng nhưng với Vân đó chỉ là “mối tơ thừa” mà thôi, nhưng biết làm sao được, chị đành phó mặc nơi em định liệu, ủy thác nơi em, tin rằng em sẽ hiểu cho lòng xót xa nơi chị. Lời thì đã nói, duyên thì đã trao, vậy mà bao kỉ niệm thiết tha, hạnh phúc bên người yêu của ngày xưa cứ chực chờ, trào dâng trong tiềm thức nàng, rồi Kiều nghẹn ngào tâm sự:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Khi gặp gỡ Kim Trọng cũng là lúc tình yêu trong nàng chớm nở, “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, Kim Trọng đã đến và mang cho Kiều bao hạnh phúc, vui vầy, đêm tâm giao nâng chén rượu thề nguyền, lời ước thề còn vẹn nguyên. Điệp từ “khi” càng thể hiện hơn nỗi da diết, nhớ thương và cả niềm tiếc nuối nơi Kiều. Vân chưa hề biết mối tình của Kiều với Kim, bởi vậy mà Kiều lựa chọn cách tâm sự cùng em cũng mong rằng Vân sẽ hiểu được những yêu thương và sự trân trọng tình yêu của nàng, để em thấu cảm cho mình lúc này.

“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Tình yêu chưa hạnh phúc được bao lâu, thì gia đình gặp sóng gió. Chữ Hiếu, chữ tình làm sao để “hai bề vẹn hai’. Đó là nỗi đau day dứt khôn nguôi. Vì gia đình Kiều đành lỡ mối keo loan, nhưng cũng không thể buông bỏ, dứt lòng với người thương được, để trọn vẹn đôi bề Kiều mong Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim, dẫu đớn đau, dẫu biết tình yêu vốn là điều không thể miễn cưỡng nhưng Kiều nói lên lòng mình để mong Vân chấp nhận lời thỉnh cầu ngang trái ấy. Phải chăng, Vân cũng hiểu được tấm lòng, sự đau khổ giày xé nội tâm can chị mà nàng im lặng, nghe chị tiếp lời:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

Kiều đưa ra những lời lẽ đầy thấu tình để thuyết phục Vân. Ít ra thì so với chị, thanh xuân của em vẫn còn nhiều, tuổi em đang trẻ. Còn chị đây, khi đã chấp nhận bán mình, thì tuổi xuân cũng sẽ chẳng còn, bao nhiêu sóng gió phía trước còn chưa biết. Thậm chí Kiều đã nói đến cái chết để Thúy Vân có thể hiểu thấu được tâm nguyện thiết tha mà đau đớn nơi nàng. Tất cả những lý do ấy khiến Vân khó lòng chối từ lời trao duyên, Vẫn sẽ hiểu càng thêm hiểu, càng quý và thương chị nhiều hơn.

Chỉ với 12 câu thơ thôi mà quá đó ta thấy được ở Kiều một trái tim thiết tha, chung thủy với tình yêu, một tấm lòng hiếu thảo với những đấng sinh thành cao quý. Sâu thẳm trong tâm hồn ấy là nỗi đau, nỗi day dứt và đắng cay khôn nguôi khi cuộc tình thanh xuân không trọn vẹn nơi Kiều. Đoạn trích “Trao duyên” chính là một nốt nhạc đau thương của bản tình ca đẹp mà buồn thương Kim- Kiều khiến ai đã từng lật những trang sách viết về cuộc đời nàng cũng phải ngậm ngùi thổn thức cho một bi kịch tình yêu đầy ngang trái.

Bài văn mẫu 8

Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam về mảng ngôn từ, tác phẩm được mệnh danh là tác phẩm thuộc thể loại truyện thơ nổi tiếng bậc nhất được xếp vào hàng kinh điển trong kho tàng văn học dân tộc, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của nhân dân Việt Nam ta từ bao đời nay. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm với tổng cộng 3254 câu thơ lục bát, nội dung kể về cuộc đời lắm truân chuyên của nàng Thúy Kiều với 15 năm lưu lạc chốn phong trần. Sở dĩ tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển bởi vì nó chứa đựng nhiều những giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc cùng với những giá trị hiện thực của tác phẩm, thương xót và đồng cảm cho thân phận của người phụ nữ, đồng thời phát hiện và đề cao vẻ đẹp cả về ngoại hình và tâm hồn của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến còn nhiều bất công. Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều là một trong những trích đoạn xuất sắc và thú vị, diễn tả một trong những nỗi đau lớn nhất cuộc đời của Thúy Kiều, nỗi đau từ bỏ tình yêu đầu đời, bán mình chuộc cha, mở ra bước ngoặt lớn đầy biến động trong cuộc đời nàng. Trong đó 12 câu thơ đầu, diễn tả nỗi dằn vặt khổ sở của Kiều khi phải dứt tình trao duyên cho em gái.

Sau biến cố của gia đình, cha và em Thúy Kiều bị bắt và bị hành hạ tra tấn dã man, đòi buộc gia đình Kiều phải đưa ra một khoản tiền lớn thì mới cho thả người. Thế nhưng vốn dĩ của cải của gia tộc đã bị vơ vét bằng hết, nhà chỉ còn lại mấy mẹ con Thúy Kiều, không còn cách nào khác Thúy Kiều đành phải bán mình làm vợ lẽ cho một kẻ là Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha. Việc này khiến Kiều vô cùng đau khổ, không chỉ vậy bán mình làm lẽ cũng đồng nghĩa với việc Kiều phản bội lại lời thề nguyền với Kim Trọng. Vì muốn vẹn toàn đôi đường, Kiều đành nén đau nhờ cậy Thúy Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng trong đau khổ và day dứt vô cùng.

Ở hai câu thơ đầu tiên: “Cậy em em có chịu lời/Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”, Kiều rõ ràng thấu hiểu được rằng việc nhờ cậy này là vô cùng khó khăn không chỉ với nàng mà với cả Thúy Vân, việc bắt ép em gái lấy người mình không yêu là một việc khó có thể mở lời. Thế nên Thúy Kiều đã hết sức cẩn thận, e dè lựa chọn ngôn ngữ thật tinh tế để đưa Thúy Vân vào thế khó, khiến nàng không thể chối từ. Kiều dùng từ “cậy” mà không phải từ “nhờ” bởi từ này vốn vừa có nghĩa là nhờ vả, thì nó còn bộc lộ sự tin tưởng, lòng hy vọng khẩn thiết mà Thúy Kiều gửi gắm, nó cũng thể hiện cả cái nỗi khó xử, đớn đau trong lòng Kiều. Với hai từ “chịu lời”, càng thể hiện rõ sự tinh tế của Kiều trong cách dùng từ, ở đây hai từ này đã thể hiện sự thấu hiểu, thông cảm của Kiều đối với vị trí của Thúy Vân, nàng hiểu rõ rằng chuyện trao duyên này là chuyện khá khó xử và vô cùng miễn cưỡng, có lẽ rằng Thúy Vân sẽ khó lòng mà chấp nhận được. Rõ ràng rằng, Thúy Vân không hề yêu Kim Trọng, phải lấy người mình không có tình cảm vốn đã là chuyện khó khăn, hơn thế nữa Kim Trọng lại còn là tình lang cũ của chị gái, chắc chắn rằng cuộc sống của Vân sẽ không bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn, bởi chàng Kim hễ nhìn đến Vân thì cũng nghĩ ngay đến Kiều. Và quả thật trong suốt 15 năm cuộc đời của Kim Trọng, chàng vẫn luôn tìm Kiều, thử hỏi rằng cảm nhận của Vân liệu được thấu hiểu bao phần? Quả thật đó chính là nỗi bi ai lớn nhất cuộc đời của người phụ nữ dù là xã hội phong kiến hay hiện đại. Tuy Kiều thấu hiểu hết mọi điều, nhưng cớ sự không cho phép nàng nhân nhượng hay dừng lại, Kiều là người hiểu lễ nghi, biết bản thân làm con trước phải trọn hiếu, thế nhưng một bên tình nàng vẫn phải trọn nghĩa, cuối cùng nàng đành chọn cách ích kỷ, trở thành người xấu xa khi dồn ép em gái phải nhận lời trao duyên để vẹn toàn, nghĩ cũng thật đáng thương vô cùng. Và nếu xét lại thì so với cuộc đời 15 năm sóng gió, đau thương tủi nhục của Kiều thì việc Thúy Vân nhận lời trao duyên, thành vợ chồng với Kim Trọng thay chị cũng coi như là gánh vác một phần trách nhiệm với gia đình. Câu chuyện trao duyên khiến Kiều vô cùng đau khổ và xót xa, nàng vốn không biết phải mở lời sao cho hợp lẽ, đành chọn cách “lạy-thưa”, nghe thì có vẻ bất hợp lý thế nhưng trong trường hợp này, Kiều là người phải xuống nước, đồng thời cũng cần buộc Thúy Vân nhận lời thế nên hai từ “lạy-thưa” ấy vừa hay đem đến hiệu ứng đặc biệt. Từ mối quan hệ chị em, Thúy Kiều đã chuyển nó thành mối quan hệ giữa ân nhân và người chịu ơn, thể hiện sự tôn trọng, tấm lòng khẩn cầu tha thiết dành cho Vân, mong nàng có thể dễ dàng chấp thuận hơn.

Sau lời dạo đầu đưa Thúy Vân vào thế không thể chối từ, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày mối tình của mình với Kim Trọng, bộc lộ nỗi đớn đau xót xa trong lòng nàng, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của nàng dành cho mối tình này.

“Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”

Kiều với Kim Trọng không phải là mối tình mới chớm mà thực tế nó đã đến mức sâu nặng, khi cả hai đã cùng nhau tự đính ước chung thân, trao tay nhau chiếc “quạt ước” hẹn chuyện trăm năm, rồi lại cùng uống “chén thề” nguyền một đời có nhau dưới ánh trăng tươi đẹp. Mà trong xã hội phong kiến việc nam nữ trao nhau vật đính ước, lại cùng thề nguyện thì coi như đã định chung thân, vốn là chuyện thiêng liêng gắn bó, không thể nói dứt là dứt, vậy thì chẳng khác nào kẻ bạc nghĩa, là việc làm của kẻ thất phu. Thế nên đối với Thúy Kiều đây là việc hệ trọng khiến nàng day dứt và trắng đêm suy nghĩ sao cho vẹn toàn. Việc Kiều từ bỏ tình yêu, trao duyên lại cho em gái cũng là xuất phát từ nỗi bất đắc dĩ, nàng đã bán thân làm lẽ dĩ nhiên chẳng thể đáp nghĩa Kim Trọng, tất cả cũng chỉ vì cái gọi là ““Sự đâu sóng gió bất kỳ” mà một thiếu nữ 14, 15 như Kiều chẳng kịp trở tay. Thúy Kiều bị đặt trong sự mâu thuẫn gay gắt và khó giải quyết “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”, rồi cuối cùng xét mãi, Kiều vẫn chọn đạo hiếu làm đầu, ngậm đắng cay chối từ tình yêu, nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng còn mình thì hy sinh hạnh phúc, hy sinh bản thân để cứu cha, cứu em. Kiều bị chìm trong mối day dứt, đớn đau vì tình yêu tan vỡ, vì nỗi tiếc nuối cho mối tình “đứt gánh giữa đường”, nghĩa mà xót xa cho thân phận tài hoa bạc mệnh của nàng.

Cuối cùng Kiều đã chọn cách vẹn toàn nhất là mở lời cậy nhờ trao duyên cho em gái “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”, câu thơ vừa thể hiện sự buông bỏ trong lý trí nhưng cũng kín đáo bộc lộ nỗi đau xót trong lòng Kiều. Không chỉ vậy mấy từ “mối tơ thừa” cũng là tấm lòng thương cảm của Kiều dành cho Vân, bởi phải chấp nhận mối duyên thừa của chị, phải thay chị trả nghĩa, không có quyền lựa chọn cho mình một mối tình trọn vẹn. Nhưng rồi chuyện gia biến, không để Kiều có thể cân nhắc vẹn toàn tất cả, đành phải “mặc em”, cũng để Thúy Vân gánh vác một phần nào đó, mặc dù nàng thấu hiểu rằng “Ngày xuân em hãy còn dài”, biết rằng nếu như không có cuộc trao duyên này ắt hẳn Thúy Vân rồi cũng sẽ tìm được một đức lang quân như ý, chứ không phải là chôn vùi cuộc đời bên trách nhiệm trả nghĩa cho chị. Thế nhưng, Kiều đã nắm chắc rằng Vân sẽ không từ chối, không thể từ chối được vì ít nhiều nàng cũng “Xót tình máu mủ thay lời nước non” để giúp Kiều vẹn toàn chữ nghĩa. Chỉ có thế Kiều mới có thể “Chị dù thịt nát xương mòn/Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, bộc lộ sự biết ơn của nàng dành cho Thúy Vân, đồng thời là những dự cảm không lành về bước đường tương lai, nhưng ít nhiều nàng cũng đã yên lòng vì vẹn toàn cả chữ hiếu lẫn chữ tình, dẫu có bề gì cũng không còn tiếc nuối.

Như vậy thông qua 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên ta có thể nhận thấy những nỗi đau thương đầu tiên trong cuộc đời bạc mệnh của Thúy Kiều, dự cảm về một tương lai đầy sóng gió của nàng. Bên cạnh đó thông qua cảnh trao duyên ta có thể nhận ra sự khéo léo, thông minh của Thúy Kiều, giải quyết tình huống trong viễn cảnh khó khăn nhưng vẫn thỏa nguyện. Đoạn trích cũng đem đến cho độc giả sự thương cảm, xót xa cho cuộc đời của Thúy Kiều, nỗi khốn khổ khi phải dằn vặt bản thân trước chữ hiếu và chữ tình.

Bài văn mẫu 9

Nhắc đến văn học trung đại Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. 3254 câu thơ với nhiều đoạn trích khác nhau, mỗi đoạn trích lại gửi gắm những giá trị vô cùng sâu sắc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của “Truyện Kiều”, tái hiện bi kịch tình yêu dang dở của Thúy Kiều và Kim Trọng. Qua đó gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc và khát khao hạnh phúc của con người. Điều này thể hiện rõ nhất qua 12 câu thơ đầu đoạn trích:

” Cậy em, em có chịu lời,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, đem lòng cảm mến rồi quyết định thề nguyền dưới trăng. Tình yêu của họ là duyên phận tác hợp. Duyên phận vốn dĩ là thứ tốt đẹp trời cho, khó cưỡng cầu, càng không nên ép buộc. Thế nhưng, dòng đời xô đẩy, Kiều quyết định “trao” lại mối duyên này. Đoạn trích mở ra nghịch cảnh đầy trớ trêu, chua xót:

“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ ngắn gọn mà chất chứa bao đau đớn, dằn vặt. Từ “cậy” được đặt lên đầu câu thơ nhấn mạnh tình cảnh khó xử, ngặt nghèo của Thúy Kiều. “Cậy” mang ý nghĩa gần giống như “nhờ”, là hành động mong muốn được giúp đỡ. Nhưng “cậy” lại sâu sắc hơn, thể hiện niềm tin tưởng vào người được nhờ. Tương tự “chịu” giống như “nhận” là đồng ý, nhưng “chịu” mang thái độ tình cảm khẩn thiết, gần như là van nài, đặt người được nhờ vào tình thế khó lòng từ chối. Ngôn ngữ Kiều dùng trong lời nói hết sức khéo léo, chân thành.

Không những vậy, lời nói ấy còn đi cùng với hành động “lạy”, “thưa”. “lạy” “thưa” vốn là hành động kính trọng của người bề dưới với bề trên. Kiều là chị, Vân là em, nhưng thời điểm này Kiều lại làm như vậy. Những việc làm tưởng như nghịch lý khó hiểu lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng cũng hiểu được nhờ em trả nghĩa thay mình, nối tiếp mối duyên này là bất công và thiệt thòi cho em. Vì thế, Kiều cúi mình trước Vân. Vào lúc này, Kiều đứng ở vị thế của người chịu ơn với người giúp đỡ mình mà không phải vị thế người chị với em gái. Điều này thể hiện sự thấu tình đạt lý khéo léo của nàng.

Trao duyên với Kiều không phải việc gì quá dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em rồi thật lòng tâm sự, giãi bày, mong muốn Thúy Vân thấu hiểu, thông cảm và nhận lời:

“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Trong nỗi đau xót, bao kỉ niệm tình yêu tươi đẹp ùa về. Nhưng hiện thực trêu người, thành ngữ “đứt gánh tương tư” nhấn mạnh nỗi đau tình yêu dang dở. Mối tình tốt đẹp với chàng Kim chưa kịp viên mãn đã bị sóng gió ập đến ngăn trở. Kiều đau khổ nhưng phải dằn lòng lại, trao gửi cho Vân. Nàng dùng điển tích “keo loan” thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Đồng thời nàng cũng bày tỏ sự áy náy, day dứt khi đem tơ duyên của mình trở thành “tơ thừa” mặc em chắp nối.

Từ “khi” được lặp lại 3 lần gợi nhắc khoảng thời gian tươi đẹp, nhấn mạnh mối duyên tình sâu đậm với chàng Kim. Từ đó khắc sâu nỗi đau khổ, xót xa trong tâm trạng của Kiều khi nói ra những lời này. Nàng đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, đồng thời cũng xót xa cho thân phận trớ trêu của chính mình.

“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Quá khứ tươi đẹp quý giá nhưng hiện tại vô vàn khắc nghiệt. Lời thề nguyền dưới trăng vẫn còn đó nhưng tai họa ập đến, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em. Giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều buộc phải đưa ra quyết định. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở, chưa kịp thành hình đã bị tan vỡ, trái tim nàng đau đớn vô cùng. Nàng hết lòng thuyết phục Vân, mong em hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu ngang trái:

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thúy Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ. Trước hết là Vân còn trẻ, tuổi xuân còn dài. Thứ hai là tình chị em máu mủ ruột thịt. Cuối cùng là cái chết của bản thân. Từng lời lẽ đều thể hiện quyết tâm thuyết phục em của Thúy Kiều. Kiều đã chọn chữ hiếu, nhưng tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng. Kiều kìm nén đau thương, thua thiệt của bản thân. Nàng chấp nhận thịt nát xương mòn, chỉ mong Vân giúp mình nối duyên với Kim Trọng. Sâu trong tâm hồn đang vụn vỡ của Kiều là nỗi đau phụ bạc Kim Trọng và mong muốn bù đắp mãnh liệt cho chàng. Lời thuyết phục Vân của Kiều vô cùng chân thành, cảm động.

Chỉ với 12 câu thơ, Nguyễn Du đã thành công sử dụng thể thơ lục bát cùng những ngôn từ tinh tế. Qua đó khắc họa được bi kịch nghiệt ngã của Thúy Kiều cùng tâm trạng đau đớn, dằn vặt của nàng. Ngòi bút tài hoa cùng tấm lòng nhân đạo của tác giả đã tái hiện đầy xúc động nội tâm nhân vật. Không chỉ bộc lộ sự khéo léo thông minh mà còn ngợi ca tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

12 câu thơ cùng đoạn trích “Trao duyên” từ đó đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị đặc sắc của “Truyện Kiều”. Để rồi bao năm tháng trôi đi, “Truyện Kiều” vẫn sống mãi trong lòng người đọc, trở thành niềm tự hào văn học của cả dân tộc Việt Nam.

Bài văn mẫu 10

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, sinh ra ở miền quê hiếu học Hà Tĩnh, tuy sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng cuộc đời ông lại phải trải qua khá nhiều biến động. Chứng kiến nhiều mảnh đời bất hạnh trong xã hội nên dễ dàng đồng cảm, sự đồng cảm đó được ông đưa vào thơ ca. Nổi bật là tác phẩm “Truyện Kiều”, Kiều tuy tài sắc vẹn toàn, mười phân vẹn mười nhưng lại phải chịu quá nhiều bất hạnh. Đầu tiên là việc phải bán mình để chuộc cha và em trai, từ bỏ mối lương duyên với chớm nở. Ở đoạn trích “Trao duyên”, 12 câu thơ đầu đã thể hiện rõ được tâm trạng của Kiều ngay thời điểm bấy giờ.

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Cảnh trao duyên được tái hiện ngay từ hai câu thơ đầu, cảnh khó xử của các hai chị em Vân Kiều ở đây người đọc cũng có thể thấy được. Một đằng người chị là Thúy Kiều đau đớn trao đi mối duyên cho em, còn người em bị rơi vào tình thế khó xử khi phải chấp nhận mối lương duyên của chị. Ngôn ngữ Thúy Kiều sử dụng vừa nhờ vả nhưng cũng vừa có sự ép buộc trong đó, thể hiện qua các từ như cậy em, có chịu lời. Hành động “lạy” của Thúy Kiều cũng thể hiện sự trang trọng, trang nghiêm khi hạ mình với em.

Tiếp 10 câu thơ tiếp theo, những từ ngữ như rút ra từ gan ruột của Thúy Kiều được lấy ra để van xin em đồng ý. Mối với Kim Trọng là mối tơ duyên nhưng giờ đã “đứt gánh tương tư”, nhận thức được bản thân phải bán mình chuộc cha không thể tiếp tục con đường phía trước cùng Kim Trọng được nữa. Nay chị “chắp mối tơ thừa” mong em có thể tiếp tục mối duyên lành này, giữ trọn lời thề ước của Kim Trọng.

Để cho Thúy Vân hiểu rõ tình cảnh của bản thân lúc này, Thúy Kiều đã giãi bày rằng “đâu sóng gió bất kỳ”. Khi cả Trọng và Kiều thề ước đâu có nghĩ tới sóng gió ập tới nhanh như vậy, bản thân Kiều phải chọn giữa “hiếu tình”, và nàng chọn làm tròn bổn phận của một người làm con. Chữ “hiếu” đã tròn, còn chữ “duyên” nàng đành nhờ cậy em gái, “xót tình máu mủ” mà chấp nhận mối duyên này.

Lời chấp nhận của Thúy Vân lúc này sẽ khiến Thúy Kiều hạnh phúc vô cùng, sự chấp nhận này giống như ban ơn. Cho “dù thịt nát xương mòn” thì vẫn có thể “ngậm cười chín suối”. Bởi những lời lẽ chặt chẽ, đầy tính thuyết phục mà Thúy Vân chẳng có cách nào để từ chối được.

Đọc những câu thơ này ta thấy được tình yêu sâu sắc mà Kiều dành cho Kim Trọng, thêm phần yêu mến Kiều khi nàng chấp nhận hy sinh hạnh phúc của bản thân để cứu lấy cha và em trai, nàng đã làm tròn chữ “hiếu” của một người con.

Đoạn trích “Trao duyên” của tác giả Nguyễn Du chính là bước mở đầu cho chuỗi ngày tháng đầy đau khổ sau này của nàng Kiều. Tuy 12 câu thơ đầu của đoạn trích ngắn ngủi nhưng cũng đủ cho ta thấy được tài năng nghệ thuật trong miêu tả cảnh và tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-12-cau-tho-dau-trong-doan-trich-trao-duyen-cua-nguyen-du-36076/feed 0
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (Dàn ý + 7 mẫu) https://quatangtiny.com/tu-tuong-nhan-nghia-trong-binh-ngo-dai-cao-cua-nguyen-trai-40181 https://quatangtiny.com/tu-tuong-nhan-nghia-trong-binh-ngo-dai-cao-cua-nguyen-trai-40181#respond Fri, 23 Oct 2020 05:20:32 +0000 https://quatangtiny.com/tu-tuong-nhan-nghia-trong-binh-ngo-dai-cao-cua-nguyen-trai-40181

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên
  3. Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
]]>
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (Dàn ý + 7 mẫu), Bài văn mẫu lớp 10: Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi là tài

Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Nam. Đọc những câu thơ hùng hồn, hào sảng, chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng xuyên suốt bài cáo. Nó làm nền cho những tư tưởng khác và làm nên sự thành công của bài cáo.

Sau đây Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn học sinh lớp 10 tài liệu Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 7 bài văn mẫu được chúng tôi tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên toàn quốc. Ngoài ra bạn đọc tham khảo thêm một số dạng bài văn mẫu khác tại chuyên mục Văn 10. Chúc các bạn học tốt.

Dàn ý tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và vị trí tác phẩm đại cáo bình Ngô trong nền văn học.

– Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa: Là tư tưởng quan trọng chủ đạo trong bài. Tư tưởng này mang tính nhân văn và có giá trị nhân đạo sâu sắc.

II. Thân bài

1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa

– Tư tưởng nhân nghĩa xuất phát từ quan niệm Nho giáo: là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.

– Tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Trãi: Chắt lọc những hạt nhân cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là:

+ Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc.

+ Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.

→Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại

2. Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô.

a. Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.

Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục:

– Nền văn hiến lâu đời

– Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể

– Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc

– Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa.

→Khẳng định độc lập dân tộc là chân lí, sự thật hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc

→Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa”

b. Nhân nghĩa thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất nước.

Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác dã man của giặc Minh với nhân dân ta:

– Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,..

– Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất

– Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,…

– Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển mò ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,..

– Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,…

→Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc

→Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng

c. Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.

– Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vô vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không một đội

– Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được thắng lợi to lớn:

+ Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù

+ Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc.

→Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người đều cùng chung một mục đích chiến đấu

d. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc.

– Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa

+ Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh.

+ Cấp thuyền, phát ngựa cho họ trở về.

– Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức

→Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt

→Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Quốc.

III. Kết bài

– Khái quát, đánh giá lại vấn đề

– Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại nay: vẫn còn được ngợi ca và là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên ứng với mỗi hoàn cảnh cụ thể nó lại mang những ý nghĩa giá trị khác.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 1

Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm này của ông.

Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người; nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân” và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngày nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.

Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:

Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”.Tội ác của chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội ác của quân Minh đối với người dân vô tội.

Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ, đứng lên khởi nghĩa, giành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/ Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa, tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật, nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận được sự ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh. Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.

Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho chúng về nước. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.

Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.

Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 2

Năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố kết thúc chiến tranh, nước Đại Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.

Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một chân lí ngay trong hai câu mở đầu.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Tư tưởng ấy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muốn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.

Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa nó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.

Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.

Khi Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tư tưởng nhân nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể và thiết thực là đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lí nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc lấy tai họa:

Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ và ghê tởm đã gây ra biết bao tội ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...

Có nghĩa là chúng đã ngu ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người. Tội ác của chúng tất sẽ bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc lấy thảm họa vào thân.

Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất chính nghĩa và mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kết son sắt tạo ra những chiến lược, chiến thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động sang chủ động tiến công như vũ bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:

Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh
Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Quân thù bị đẩy vào tình thế khốn đốn, cùng đường:

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp.
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giúp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

Kết thúc bài cáo là khúc khải hoàn ca của tư tưởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt :.ngẩng cao đầu chiến thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã: quỳ gối đầu hàng: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu linh. Lại chu cấp cho chúng nào thuyền, nào ngựa để trở về cố quốc. Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo lí truyền thống nhân nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sợ, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn vang mãi ngàn năm trên đất nước này:

Xã tắc từ đây vững bền,
……..
Ai nấy đều hay.

Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống quân xâm lược nhà Minh đã tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và cũng là dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho sức mạnh vô biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.

Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, hình ảnh sinh động, giàu sức biểu cảm. Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ hùng văn có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô đại cáo. Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 3

Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta khiến dân chúng khổ sở, cuộc sống đảo lộn. Lê Lợi đã cùng 18 tướng lĩnh dấy cờ khởi nghĩa. Trong đó, Nguyễn Trãi là một tài năng xuất chúng trong hàng ngũ dũng tướng. Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Một năm sau đó, phụng sự Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”. Tác phẩm đã đứng trên lập trường chính nghĩa để lấy làm tư tưởng xuyên suốt. Tư tưởng nhân nghĩa là vấn đề được đề cập tới đầu tiên khi nhắc tới giá trị của tác phẩm.

Tư tưởng nhân nghĩa là một truyền thống đạo lý tốt đẹp của nhân dân ta. Trong quan niệm truyền thống, tư tưởng nhân nghĩa được biểu hiện ở tình thương giữa con người với con người, nhấn mạnh ở lòng trung thành với vua. Còn đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là để yên dân, là bảo vệ hạnh phúc cho nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hòa bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc, đau thương. Nhân nghĩa không phải là thương người một cách chung chung mà thông qua hành động đó là “trừ bạo” để “an dân”.

Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”, tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trước hết ở việc Nguyễn Trãi gắn nhân nghĩa với bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc.

“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”

Đoạn thơ đã khẳng định niềm tự hào tự tôn dân tộc và ý thức về đất nước chủ quyền dân tộc khi nhấn mạnh đất nước phải có lịch sử, có nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục riêng và có những cái tên hào kiệt riêng. Ngay khi thể hiện ý thức về nhân dân, ý thức về đất nước đã cho thấy lòng yêu nước lòng tự hào dân tộc lớn lao của Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi quả là một nhà tư tưởng tiến bộ.

Truyền thống nhân nghĩa còn gắn với truyền thống yêu sự chính trực, ghét sự gian tà, căm thù sâu sắc bọn bán nước và cướp nước.

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”

Đoạn thơ này đã vạch bộ mặt gian tà, hiểm ác, xảo trá của giặc Minh, chỉ ra tội ác của bọn chúng. Lòng căm thù giặc sâu sắc thể hiện trong việc tác giả vạch mặt tố cáo tội ác “trời không dung đất không tha”

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

Nguyễn Trãi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, gợi hình gợi cảm như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”… Nhân nghĩa còn là sự sẻ chia đồng cảm cảm thông với nỗi đau của người dân mất nước:

“Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.”

Tư tưởng nhân nghĩa trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi là tinh thần yêu chuộng hòa bình, công lý, sự hiếu sinh, hiếu hòa, độ lượng bao dung. Dân tộc ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng bại vong

“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”

Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng bao trùm và xuyên suốt trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”cũng là tinh thần của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Qua đó, Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc. Tư tưởng nhân nghĩa cũng chính là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Từ tư tưởng đó, Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa hiệu triệu quần chúng tham gia khởi nghĩa chống Minh, góp phần to lớn cho cuộc khởi nghĩa chiến thắng hoàn toàn.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 4

Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê và ngày nay, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao thời đại kết hợp lại. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Tuy gặp nhiều oan khuất và bi kịch, suốt cả cuộc đời tận tụy cống hiến của Nguyễn Trãi được bao trùm bởi một tư tưởng vĩ đại: tư tưởng nhân nghĩa, mà qua thơ văn ông, chúng ta có thể thấy điều đó. Bình Ngô đại cáo là một trong số các tác phẩm thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa này.

Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp được thấm nhuần xuyên suốt qua từ câu đầu tiên:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Tư tưởng nhân nghĩa đã được khẳng định ngay từ đầu tác phẩm. Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình. Cả cuộc đời ông đã dành trọn cho những công việc nhân nghĩa, ta có thể coi đó là lí tưởng của ông. Một lí tưởng cao quý. Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác.

Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ, ta có thể thấy lòng Nguyễn Trãi bao la và suy nghĩ của ông thật rộng lớn. Với tư cách một vị quan và trên phương diện thay lời Vua để viết lời tuyên cáo chiến thắng, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yên dân tức là làm cho dân được yên ổn làm ăn, ấm no hạnh phúc trong an bình. Vì thế, quân điếu phạt trước lo trừ bạo, phải dẹp tan giặc giã hung tàn để cho yên dân. Ông thương dân và lo cho dân với tất cả tấm lòng mình, không phải để ban ơn cho dân mà là đền ơn dân như ông từng nghĩ ăn lộc, đền ơn kẻ cấy cày. Đó là một suy nghĩ hết sức tiến bộ và đáng quý biết bao trong thời đại lúc bấy giờ, mà qua bao thời gian, đến ngày nay vẫn vô cùng giá trị.

Trong suốt toàn bài Cáo bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ rõ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Cũng từng chứng kiến sự tan cửa nát nhà, sự man rợ của bọn cuồng Minh sát hại người vô số, nên Nguyễn Trãi đã hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận thay khi những người dân đang gặp cảnh chiến tranh khốc liệt. Những dân đen, con đỏ là những người ở tầng lớp khốn khổ nhất xã hội, những người chuyên đi cày cấy, đi ở, đi làm thuê xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Trãi cùng tình cảm của ông. Sự quan tâm này thật không dễ gì có được ở những người vốn làm quan lại như ông, vì thế đây là điều rất tốt đẹp của tư tưởng Nguyễn Trãi.

Càng thương dân, ông càng căm giận quân xâm lược. Đoạn kể tội giặc của ông với những hình ảnh cụ thể trong bài Cáo bình Ngô đầy nước mắt đồng cảm thương xót cho nhân dân, cho quê hương cho cây cỏ núi sông, đồng thời ngùn ngụt lòng căm thù, tức giận đối với kẻ ngoại xâm và bán nước.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc…
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Trước tội ác đến độ
Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?…
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mách bảo ông rằng, đã đến lúc trừ bạo để yên dân. Tâm trạng của ông, cũng là của Lê Lợi canh cánh suốt ngày đêm nỗi lo làm sao đánh giặc, cứu dân thoát cơn nguy biến và giành lại độc lập cho giang sơn. Tư tưởng nhân nghĩa ở đây xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Lòng yêu nước, thương dân vĩ đại ấy đã khiến Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi: đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai suốt mười mấy năm trời. Bài cáo toát lên một tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc khi nhắc lại lịch sử:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tấm lòng thanh cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho quân dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đối với vị chủ tướng như ông, chiến thắng không phải tất cả, nếu nhân dân cần cuộc sống ấm no thì ta cho họ, ta cũng không nên vì lợi lộc mà quên đi mục đích ban đầu.

Hơn thế nữa, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn đối với những kẻ đã gây họa cho nước Đại Việt. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận có sức mạnh hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hòa hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!

Trong tác phẩm Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa dường như hòa quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra dưới ngòi bút sắc bén của ông. Nguyễn Trãi đã là một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng đẹp đẽ và cao quý như vậy. Ông đã nguyện dành hết tất cả tài đức, khả năng của mình cho việc nhân nghĩa, để trợ dân. Vì thế, sau khi về ở ẩn, khi vua mời ra làm quan, ông đã sẵn sàng ra ngay không nề hà.

Tâm hồn Nguyễn Trãi đong đầy nhân nghĩa, rất thanh cao và trong sáng, có thể coi như một viên ngọc quý. Tên tuổi ông là một dấu son lớn trong trang sử danh nhân Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của ông vượt thời gian – qua bao thế kỉ, bao triều đại, và vượt cả không gian – vang danh trên thế giới, ý nghĩa rộng lớn không biên giới của lòng nhân nghĩa ấy để trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người.

Chúng ta kính trọng Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân nghĩa quý báu đã góp phần lớn lao cho lịch sử dân tộc, lại càng thương thay cho cuộc đời lắm éo le, oan khuất của ông. Nguyên nhân cũng chính vì những kẻ xấu không chịu nổi tư tưởng của ông quá tiến bộ, con người ông quá trong sạch và tốt đẹp, vì sự trung thực của một con người nhân nghĩa – Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã được mọi người đời sau thương mến kính trọng vì tư tưởng và hành động (rất nhân nghĩa) của ông. Chúng ta tin rằng, chúng ta sẽ thực hiện được những điều có ích cho dân, cho nước, như Nguyễn Trãi – tổ tiên chúng ta đã từng theo đuổi – và sẽ có nhiều tấm gương sáng noi theo ông – ngôi sao khuê sáng mãi trên bầu trời Đại Việt.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 5

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Nam, sau bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Đọc những câu thơ hùng hồn, hào sảng, chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng xuyên suốt bài cáo. Nó làm nền cho những tư tưởng khác và làm nên sự thành công của bài cáo.

Tư tưởng nhân nghĩa không phải là tư tưởng quá lạ đối với nước Nam. Đây là tư tưởng đã được Nho giáo nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên với nho giáo thì nhân nghĩa chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nhưng đến Nguyễn Trãi thì quan điểm nhân nghĩa của ông không phải bao hàm nội dung rộng như vậy. Đối với ông – nhà lãnh đạo tài ba thì nhân nghĩa chính là “yên dân”:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Với hai câu thơ trên đã khái quát được tư tưởng nhân nghĩa lớn lao của Nguyễn Trãi đối với dân với nước. Ông không suy nghĩ sâu xa, không như Khổng Tử. Đối với ông nhân nghĩa thực ra là khái niệm rất gần gũi với đời thường. Để có đất nước thống nhất hòa thuận, trước hết cần phải “yên dân”. Khi dân được yên, được sống trong ấm no hạnh phúc thì tất thảy đất nước đó sẽ phát triển như một quy luật. Đây là một tư tưởng rất hiện đại, mà sau này Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát huy “Lấy dân làm gốc”.

Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi “dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù.

Nguyễn Trãi xem những hành động tàn bạo, man rợ của các nước chư hầu cuối cùng sẽ bị trừng phạt thích đáng. Nguyễn Trãi không có tư tưởng cầu hòa, nhân nhượng hay thỏa hiệp mà nhất định phải dùng lòng dân và sức dân:

Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo

Đối với ông thì việc nghĩa luôn chiến thắng việc gian ác và những kẻ xảo quyệt sẽ bị đền tội. Với giọng văn hùng hồn, quyết liệt, ông đã thuyết phục được người đọc về thuyết nhân nghĩa thời bấy giờ, còn có ảnh hưởng cho đến ngày nay.

Nếu như trước đây Lý Thường Kiệt nêu ra định nghĩa về độc lập là việc khẳng định chủ quyền thì sang Nguyễn Trãi, ông đã hùng hồn:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

“Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Tư tưởng ấy rất thiết thực và phù hợp đối với hoàn cảnh của đất nước ta.

Sức mạnh của nhân nghĩa đã tạo nên những chiến thắng vang dội núi sông:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Với những chiến thắng vang dội, oanh liệt đó chính là nhờ sự đoàn kết, lấy ít địch nhiều của nhân dân ta. Không phải dân tộc nào cũng có thể làm được như vậy, dân tộc ta là dân tộc lấy dân làm gốc, mọi việc do dân và làm vì dân.

Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ được thể hiện ở ý chí cũng như sự đoàn kết của nhân dân mà còn thể hiện thái độ đối với quân Trung Quốc khi thất thủ. Quân và dân ta không giết hại mà còn dành cho “đường hiếu sinh”. Chỉ với những hành động đó đã đủ thấy được tinh thần nhân nghĩa, không triệt đường của kẻ khác thật đáng ngưỡng mộ.

Chính tư tưởng nhân nghĩa mang đậm nhân đạo đó đã giúp cho đất nước ta được tự do, độc lập, thoát khỏi ách nô lệ 4000 năm lịch sử:

Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới

Một lời khẳng định chắc nịch, như một hồi chuông vang lên để cho mọi người trên thế giới này biết được rằng đất nước Việt Nam đã có chủ quyền, đã thực sự hòa bình và thống nhất.

Cho đến bây giờ, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố nhưng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó giúp cho đất nước ta có được nhiều thành tựu vang dội như hiện nay. Gấp trang sách lại nhưng còn vang vọng đâu đây tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo của ông.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 6

Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.

Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là “yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.

Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó: “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.

Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập.

Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân. Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc ống yên ổn của nhân dân dân.

Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân. Bởi mọi hoạt động lớn nhất của quốc gia cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là đem lại cuộc sống an nhàn cho nhân dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trên đó còn là lòng bao dung với kẻ thù.

Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sự khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.

Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.

Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng và biết ơn. Việc làm này cũng khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.

Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.

Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới được ấm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.

Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và “Bốn phương biển cả thanh bình”.

Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.Tư tưởng nhân nghĩa trong “bình ngô đại cáo không chỉ có ý nghĩa to lớn xét về mặt nhân nghĩa mà còn có tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong những thời đại sau này nữa. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo – Mẫu 7

Có thể thấy được “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đó chính là một minh chứng hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Thật dễ có thể nhận thấy được rằng xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác giả khai thác, đào sâu. Ta như có thể khẳng định được triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đúng là những quan niệm tiến bộ có giá trị và ý nghĩa trong mọi thời đại. Thực tế cho thấy đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tư tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy dường như cứ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.

“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.

Có lẽ chính cuộc đời ông là tấm gương về khí tiết thanh cao và hơn nữa nó cũng như chính là lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Ta có thể khẳng định toàn bộ bài tư tưởng nhân nghĩa chính là một sợi chỉ đỏ chạy dọc theo toàn bộ bài thơ, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình biết bao nhiêu.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Ta như nhận thấy được “nhân” và “nghĩa’ dường như cũng chính là đạo lí ở đời, và ta như thấy được đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời, là tôn chỉ trong xã hội mọi thời đại. Trong tuyệt tác nổi tiếng “Bình Ngô đại cáo” thì ‘nhân” đã như thể hiện bằng hành động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân ở đâu thật sâu rộng, tích cực. Và hơn nữa là còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân xã tắc được bình yên.

Ta có thể hiểu rằng, trước sự xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để yên dân thì phải trừ bạo. Do đó mà có thể thấy được chính tư tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem lại hạnh phúc cho người dân. Có lẽ cũng chính vì thương nhân dân mà cần dựng cờ khởi nghĩa để trừ hung bạo. Tư tưởng nhân nghĩa đặc sắc và sâu sắc trong “Bình Ngô đại cáo” dường như đã quy cho cùng tất cả là vì dân, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân xuyên suốt tác phẩm.

Tư tưởng ấy dường như rõ ràng, không mơ hồ, mà được tác giả nâng lên thành tư tưởng xã hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Có lẽ chính vì nhân nghĩa nên ông xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh như thiêu lửa đốt, và có những hành động như đã đào hố chôn sống nhân dân vô tội là những việc vô nhân đạo. Hành động thật nhân nghĩa không trừ tượng mà là những việc làm cụ thể đó chính là chống quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.

Ta như thấy được triết lý nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương dân, đó là nền tảng của bản anh hùng ca “Bình Ngô đại cáo’. Và hơn hết chính tác phẩm là quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang trọng, tự hào biết bao nhiêu:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Nguyễn Trãi – Đại anh hùng của dân tộc dường như cũng đã chỉ ra rằng nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng, đây có lẽ cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người Việt Nam. Ta như thấy được chính tư tưởng ấy là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông thường trở thành nền tảng, cũng đồng thời là nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất nước.

Trong tác phẩm, ta như thấy được Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, ông luôn luôn coi trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc. Nhưng dường như không vì sự tàn ác của giặc mà trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó có thể chính là tấm lòng, là trí tuệ Việt Nam sau chiến tranh.

“Bình Ngô đại cáo” chính là áng thiên cổ hùng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và nó dường như cũng chính là văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta hơn một thập kỷ. Đó chính là việc toát lên tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc muôn đời sau.

]]>
https://quatangtiny.com/tu-tuong-nhan-nghia-trong-binh-ngo-dai-cao-cua-nguyen-trai-40181/feed 0
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2: Tưởng tượng một kết thúc khác cho truyện Mị Châu – Trọng Thủy https://quatangtiny.com/tuong-tuong-mot-ket-thuc-khac-cho-truyen-mi-chau-trong-thuy-42280 https://quatangtiny.com/tuong-tuong-mot-ket-thuc-khac-cho-truyen-mi-chau-trong-thuy-42280#respond Fri, 23 Oct 2020 04:06:50 +0000 https://quatangtiny.com/tuong-tuong-mot-ket-thuc-khac-cho-truyen-mi-chau-trong-thuy-42280

Related posts:

  1. Bài văn mẫu Lớp 10: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 5)
  2. Phân tích tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Dàn ý + 11 Mẫu)
  3. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
]]>
Bài viết số 2 lớp 10 đề 2: Tưởng tượng một kết thúc khác cho truyện Mị Châu – Trọng Thủy, Tài Liệu Học Thi mời bạn đọc tham khảo tài liệu Bài viết số 2 lớp 10 đề 2: Tưởng

Bài viết số 2 lớp 10 đề 2: Tưởng tượng một kết thúc khác cho truyện Mị Châu – Trọng Thủy, là tài liệu hữu ích dành cho học sinh khi làm bài viết số 2. 

Tài liệu bao gồm 6 bài văn mẫu lớp 10 được chúng tôi đăng tải chi tiết dưới đây. Mời quý thầy cô và bạn đọc cùng tham khảo.

Một kết thúc khác cho truyện Mị Châu, Trọng Thủy – Mẫu 1

Dưới Âm ti, tại đại sảnh, Diêm Vương đang xem xét sổ sách thì một tên Quỷ Vô Thường chạy vào, bẩm báo:

– Bẩm Diêm Vương, cô nương Mị Châu vẫn cứ đứng ở bến U Linh. Vậy…vậy… phải xử thế nào, thưa Diêm Vương?

– Mặc nàng ta. Nàng ta đứng chờ tướng công nên cũng không làm gì ảnh hưởng đến Âm ti…

Vương mệt mỏi xua xua tay, ý đuổi tên Quỷ Vô Thường kia đi. Tên quỷ biết ý, không dám làm phiền, khép nép đi ra ngoài. Diêm Vương đứng dậy, bước đến chỗ đặt Bảo Kính, miệng khẽ lẩm nhẩm, chợt trên mặt Bảo Kính hiện ra một bạch y cô nương, xinh đẹp vô ngần nhưng đôi mắt hạnh tràn ngập thê lương. Vương khẽ thở dài. Cô nương đó chính là Mị Châu – công chúa Âu Lạc, xuống Âm ti được hơn một tháng, nhưng vẫn không chịu uống bát canh của Mạnh Bà, bởi nàng đang chờ tướng công.

Sông U Linh là một khúc sông dài nghìn trượng, làn nước trong vắt, không có một gợn sóng, nhưng dưới đáy sông đầy rẫy những linh hồn mắc trọng tội, không thể ngoi lên để đầu thai kiếp khác. Sương khói mịt mờ, khung cảnh ảm đạm thê lương. Ngay gần đó là bóng dáng một người con gái, trên người khoác chiếc áo lông ngỗng trắng muốt, những giọt máu bắn lên vô tình tạo thành những bông hoa đào đỏ tươi, đẹp không nói nên lời. Mái tóc mây dài mềm mượt khẽ bay, bạch y cũng lay động, nhìn nàng như một tiên nữ. Nhưng khuôn mặt lại đờ đẫn vô cảm, thủy mâu lạnh lùng nhìn về phía xa xa. Xung quanh nàng tĩnh mịch, yên ắng đến lạ thường. Bỗng có tiếng nói:

– Tội nhân Trọng Thủy ra bến U Linh. Thời hạn một canh giờ.

Hai tiếng Trọng Thủy vang lên khiến Mị Châu chấn động, rồi ngay lập tức lại khôi phục thần sắc như cũ. Có tiếng bước chân nhè nhẹ đằng sau nàng, rồi một giọng nói trầm ấm quen thuộc:

– Nương tử?

Nàng từ từ quay đầu lại. Đôi mắt lạnh lùng hiện giờ đang long lanh ngấn lệ, nỗi vui mừng hiện rõ trên gương mặt. Nàng nghẹn ngào:

– Tướng công! Đúng là chàng rồi. Thiếp đã chờ chàng như lời đã hứa. Cuối cùng chàng cũng đến khiến ta vui mừng khôn xiết.

Nàng nhìn kĩ Trọng Thủy, chàng vẫn ôn nhu tuấn tú như trước, có điều tiều tụy xanh xao hơn mà thôi. Những ngày tháng êm đềm trước kia như hiển hiện rõ mồn một trước mắt nàng, rồi đến cái ngày định mệnh kia, từng chi tiết dù là nhỏ nhất nàng cũng sẽ mãi mãi vĩnh viễn không bao giờ quên được. Nụ cười như đóa hoa hàm tiếu trên cánh môi nàng vụt biến mất, sự mừng vui hạnh phúc cũng biến mất, chỉ còn lại sự lạnh nhạt xa cách và một tia hận ý lóe lên trong đôi mắt đen kịt. Trọng Thủy thấy thần sắc Mị Châu thay đổi, bèn lo lắng hỏi:

– Nàng làm sao vậy?

Nói đoạn chàng đưa tay định nắm lấy vai nàng. Nhưng chợt nhìn thấy một vòng tròn đỏ tươi trên cổ trắng ngần của Mị Châu, chàng bèn rụt ngay tay lại. Giọng chàng khàn khàn:

– Nàng… nàng vẫn trách ta về việc… việc đó sao?

Mắt Mị Châu vẫn không rời màn sương mờ ảo trên dòng U Linh, trên môi khẽ nở nụ cười nhạt, giọng nàng lạnh như băng tuyết:

– Thiếp không dám trách tướng công. Thiếp là nương tử của chàng, coi chàng là trời. Thân là phận nữ nhi, làm sao mà dám oán thán nửa lời.

Những lời nói của Mị Châu như hàng ngàn, hàng vạn lưỡi đao sắc dày vò tâm can Trọng Thủy. Dọc đường xuống bến U Linh này chàng đã suy nghĩ rất nhiều về những việc làm ngày trước của mình, những tội nghiệt chàng gây ra cho Mị Châu, cho bách tính Âu Lạc. Chàng cũng không dám mong chờ nàng sẽ dung thứ cho mình nhưng cũng không muốn nghe những lời này, từng câu từng chữ như rạch nát tim chàng. Chàng biết chàng không còn tư cách để xin tha thứ, mà chàng cũng chẳng muốn van cầu sự tha thứ từ Mị Châu. Nhưng… Chàng đang do dự, muốn nói vài lời hối hận nhưng rồi nhận ra mình là kẻ tội đồ, giờ có nói gì cũng chỉ là lời nói đầu môi. Hai người im lặng hồi lâu, Mị Châu chợt cất tiếng, giọng nói trong trẻo như hoa, như ngọc nhưng cũng thật lạnh lùng:

– Chàng đang hối hận? Chỉ tiếc rằng đã quá muộn.

Trọng Thủy cứng nhắc gật đầu, hai chân vẫn chôn xuống đất không thể cất bước. Chàng nhìn bóng hình Mị Châu, chợt nhận ra nàng cũng cô đơn, cũng đau khổ biết bao. Đúng, giờ có hối cũng đã muộn! Tiếng quạ kêu từng hồi, từng hồi thê thiết, nghe thật não nề, thê lương. Khung cảnh lại trở nên tĩnh mịch, ngột ngạt đến nghẹt thở. Trọng Thủy lên tiếng trước, phá vỡ bầu không khí im lặng:

– Đúng, ta biết giờ mới hối hận cũng đã muộn. Nàng muốn mắng chửi gì ta cũng cam lòng. Bởi ta biết, tội của ta có chết nghìn lần cũng chẳng thể nào được tha thứ. Rồi chàng bật cười to, tiếng cười chát đắng:

– Ha! Ha! Ha!… Tại sao một kẻ như ta, kẻ đã gieo rắc chết cho bách tính Âu Lạc lại đã từng mong chờ có được sự tha thứ? Lại đã mong chờ nàng sẽ trở về bên ta, sống hạnh phúc trên máu xương của người dân Âu Lạc? Đôi bàn tay vấy máu người dân vô tội này sao còn mong chờ được nắm lấy tay nàng? Ta quả là hồ đồ… Ta đã sai, sai từ đầu tới cuối. Đáng lẽ ta không nên chấp nhận cuộc hôn nhân này. Nếu thế thì nàng cũng không vì ta mà chết, người dân Âu Lạc cũng không vì ta mà chịu cảnh nước mất nhà tan, ta cũng chẳng vì nàng mà đau khổ, mà dằn vặt… Không, không… Như thế thì ta sẽ không gặp được nàng, sẽ không được nghe nàng hát, nàng đàn khúc “Nguyệt tâm”, sẽ không được được thấy nàng nói chuyện, sẽ không được vuốt mái tóc mềm mượt hơn mây.

Chàng nói tới đây bất giác nghẹn lời, nước mắt trào ra, từng giọt lệ rơi xuống miệng chàng. Nước mắt đau khổ. Nước mắt của hối hận. Nước mắt của đau đớn đến tận cùng. Một người như chàng mà cũng khóc ư?

Một kết thúc khác cho truyện Mị Châu, Trọng Thủy – Mẫu 2

Sau khi Triệu Đà chiến thắng An Dương Vương, mặc dù trở thành người anh hùng của dân tộc nhưng Trọng Thủy không thoát khỏi sự dằn vặt của lương tâm vì đã trót lừa dối Mị Châu, người vợ yêu quý của mình. Khi nhớ đến người con gái ấy, chàng lại buồn, ra giếng nước – nơi mà Mị Châu thường tắm để nhớ đến những kỉ niệm về nàng. Một hôm, chàng thấy bóng Mị Châu dưới nước, nàng vẫy tay gọi chàng, chàng thấy đôi mắt to, đen, tròn của người vợ yêu đang nhìn chàng… Trọng Thủy nhảy xuống giếng với hy vọng được gặp Mị Châu, mong được nàng thông cảm và tha thứ cho những việc mà mình đã làm. Nhưng ngờ đâu, đó chỉ là ảo ảnh do Trọng Thủy tưởng tượng ra vì luôn nghĩ về Mị Châu. Khi nhận ra mình đã nhìn nhầm, chàng cũng không ân hận, chàng phó thác số phận cho ông trời định đoạt. Chàng muốn chết để đền tội với Mị Châu.

Về phần Mị Châu, sau khi chết, nàng được Rùa Vàng giúp đỡ cho sống ở Long Cung. Dù sống trong thế giới đầy đủ, sung sướng nhưng những kí ức về Trọng Thủy vẫn không hề nhạt dần theo thời gian… Hằng đêm, nàng khóc, khóc vì một phần do nhớ chồng, nhớ quê hương, đất nước. Khóc cũng vì giận Trọng Thủy đã lừa dối, phản bội mình, khóc vì ân hận đã yêu Trọng Thủy một cách mù quáng. Vì Trọng Thủy mà giờ đây nàng đã là tội đồ của dân tộc. Nhiều lúc, Mị Châu thấy tuyệt vọng vì số phận nàng sao mà bi ai đến thế, nàng buồn cho chính bản thân, may mà nhờ An Dương Vương, Rùa Vàng, Thủy Linh công chúa (con của Long Vương) an ủi, lòng nàng cũng nhẹ bớt… Nhưng mỗi lúc nhớ đến Trọng Thủy, nỗi đau trong tim lại trào dâng, từng dòng lệ cay chảy ra từ khóe mắt nàng…

Thần kim quy thấy tình cảm giữa Mị Châu và Trọng Thủy vẫn còn sâu đậm nên ra tay giúp đỡ, cho hai người gặp lại nhau. Xác Trọng Thủy trôi theo dòng nước đến biển Đông, hồn chàng bay theo gió, thần Kim Quy liền nhập thành một, ban cho khả năng sống dưới nước, báo Trọng Thủy tìm đến được Long cung. Trước mắt chàng là một cơ ngơi đồ sộ, nguy nga, lộng lẫy mà chàng chưa từng thấy. Cổng Long cung được canh gác cẩn thận với đội quân hùng hậu. Trọng Thủy đứng đấy ngước nhìn chưa kịp nói thì bị hai vị Thủy thần gần đó chặn lại, hỏi:

– Tên kia, ngươi là ai? Đến đây làm gì? Có biết đây là chốn long cung uy nghiêm không?

Trọng Thủy mới nghe đã sợ, nhưng vì muốn được gặp vợ, chàng trả lời:

– Thưa hai vị, thần là Trọng Thủy, vợ thần là Mị Châu. Thần đến đây do được thần Kim Quy báo mộng rằng Mị Châu đang ở nơi này.

Rồi chàng thành thật kể lại câu chuyện giữa chàng và Mị Châu, đúng lúc đó, Thủy Linh công chúa đang định đi ra khỏi Long cung, gặp chàng thì nói:

– Đây là bạn ta, các người hãy để chàng vào trong.

Trọng Thủy được Thủy Linh công chúa dẫn đến chỗ Mị Châu. Trong Long cung, khung cảnh thật đẹp. Từng đàn cá bơi lội tung tăng, từng rặng san hô đủ màu sắc, đây đúng là chốn thần tiên. Bỗng, Trọng Thủy thấy mình đang ở một nơi rất đẹp, không gian yên tĩnh. Trước mắt chàng, xa xa là một người con gái với mái tóc dài mượt đang ngồi chơi đàn, tiếng đàn sao mà sầu, bi ai đến thế. Dựa vào hình dáng người con gái, dựa vào mái tóc, vào âm thanh của bản nhạc thì chàng không thể nhầm được. Đó là Mị Châu! Chàng kêu to tên vợ, chạy đến bên vợ, nhưng về phần Mị Châu, nàng sợ, hoảng hốt bỏ chạy. Nàng chạy trốn người đã phản bội mình, Trọng Thủy đuổi theo, bắt được nàng, Mị Châu vẫn im lặng, nhìn Trọng Thủy bằng ánh mắt căm thù, oán giận, lẫn chút nhớ nhung, Trọng Thủy nhận ra điều đó, chàng nói:

– Mị Châu, sao nàng chạy trốn ta, ta biết ta có lỗi, ta đã phải bội nàng, nhưng xin hãy hiểu cho ta, ta không còn lựa chọn nào khác. Là phận con, ta phải tuân lệnh cha, ta biết ta sai. Nhưng nàng chớ hiểu nhầm ta không yêu nàng, đừng nghĩ rằng rằng ta cưới nàng chỉ vì âm mưu xâm lăng.

Mặc dù Trọng Thủy đã xin lỗi chân thành nhưng Mị Châu không nói gì, nàng im lặng ngắm nhìn người chồng bấy lâu nay nàng mong nhớ, cũng là người đã phản bội nàng. Tim Mị Châu đau nhói, nàng không biết làm gì để vẹn đôi đường.

Trọng Thủy lại nói:

– Xin nàng đừng im lặng như vậy. Ta biết bản thân mình đã có lỗi với nàng. Điều đó khiến nàng vô cùng đau khổ. Nàng có thể đánh mắng ta, chứ đừng im lặng.

Trong lúc Trọng Thủy giải thích, Mị Châu lén ngắm chàng. Người chàng ốm yếu, xơ xác đi nhiều lo nghĩ quá nhiều, nàng cũng muốn quay lại với Trọng Thủy nhưng lại sợ. Mị Châu với hai hàng lệ đẫm tuôn trào, nói:

– Trọng Thủy chàng ơi, thiếp biết chàng nói thật, nam nhi đại trượng phu phải đặt sự nghiệp lên đầu. Nhưng mối thù của chúng ta vẫn còn đó. Bây giờ thiếp đã là tội đồ của dân tộc, nếu quay lại tội thiếp nặng gấp bội phần.

– Sau những chuyện đã xảy ra, ta đã nhận ra lỗi lầm của mình. Đi, hãy đi cùng ta đến gặp cha nàng cùng thần Kim Quy, ta sẽ xin cho hai vị cho chúng ta được sống hạnh phúc bên nhau, dù trải qua bao nhiêu gian khổ đi chăng nữa, ta chỉ muốn sống cùng nàng tới bạc đầu. Đầu tiên, Mị Châu lưỡng lự song cũng đồng ý, hai người đến gặp vua cha. Tại đây, An Dương Vương cùng rùa vàng đang đánh cờ nói chuyện. Sau khi nghe kể về đôi trẻ, an dương vương không biết làm sao. Thấy vậy Rùa Vàng liền nói:

– Thôi thì hai con hãy đi cùng ta đến gặp ngọc hoàng, nếu người đồng ý hai con sẽ được như ý muốn, còn không thì Mị Châu chỉ có thể ở lại đây cùng cha nói rồi. Trọng Thủy, Mị Châu được rùa vàng dẫn đến gặp ngọc hoàng, sau khi nghe chuyện, hoàng hậu cảm động rơi lên, xin ngọc hoàng ân xá cho đôi trẻ, nhưng còn tội của hai người thì sao? Ngọc hoàng phán rằng:

– Tuy tình cảm của hai con vẫn còn lưu luyến nhưng tội thì không thể tha thứ, hai con hãy xuống hạ giới làm việc thiện ba năm, sau ba năm sẽ được đầu thai, sống chung với nhau, còn hạnh phúc hay không thì tùy thuộc vào hai con.

Hai người chưa kịp nói lời chia tay thì đã được ngọc hoàng đưa xuống hạ giới. Mị Châu đầu thai vào một gia đình giàu có và vẫn xinh đẹp nết na. Nhưng trái tim của nàng giờ đây mạnh mẽ hơn, nàng hay giúp người, làm việc thiện. Còn Trọng Thủy đã trở thành một anh ngư dân chăm chỉ, tốt bụng. Thời gian trôi qua thật nhanh, mới đó đã ba năm, thời hạn để hai người gặp nhau đã đến. Mị Châu gặp Trọng Thủy, hai người ôm lấy nhau khóc, nước mắt đã xóa đi hết những tội lỗi trước đây, hai người cưới nhau sống hạnh phúc quá đỗi. Lại nhắc đến Triệu Đà, vì con đi lâu mà không thấy về, nhớ con, hắn đổ bệnh mà chết.

Tình yêu mà Mị Châu và Trọng Thủy trao cho nhau vẫn còn sáng chói như ngọc trai được rửa trong giếng nước nơi trọng thuỷ thấy bóng vợ mình. Câu chuyện giữa hai người thật cảm động.

Một kết thúc khác cho truyện Mị Châu, Trọng Thủy – Mẫu 3

An Dương Vương – vua của nước Âu Lạc cho xây thành nhưng ngặt nỗi cứ ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Nhà vua bèn sai các quan lập đàn để cầu đảo bách thần, xin thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, nhà vua bỗng thấy có một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía Đông đi tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, An Dương vương rước cụ già vào trong điện, kính cẩn hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã tốn nhiều công sức mà không được, là cớ làm sao?”. Cụ già thong thả đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thi mới thành công”. Nói xong, cụ già từ biệt ra đi.

Sáng hôm sau, có một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo với An Dương Vương rằng muốn xây được thảnh thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu. Quả nhiên, sau khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt trừ yêu quái thì chỉ khoảng nửa tháng là thành đã xây xong. Thành xây theo hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên gọi là thảnh Ốc hay Loa Thành. Rùa Vàng ở lại ba năm thì ra đi. Lúc chia tay. An Dương Vương cảm tạ nói: “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống?” Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho An Dương Vương, dặn hãy lấy làm lẫy nỏ. Giặc đến, cứ nhằm mà bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Nhà vua sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn, lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy. Đó là nỏ thần Kim Quy.

Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy nỏ thần ra bắn, một phát chết hàng vạn lên giặc. Chúng hoảng sợ quay đầu chạy về đến núi Trâu, cầm cự được vài ngày rồi rút về nước. Dân chúng Âu Lạc hân hoan mừng chiến thắng vẻ vang của vị vua tài giỏi.

Thấy không nuốt nổi Âu Lạc bằng phương cách tấn công, Triệu Đà nghĩ ra một âm mưu thâm hiểm khác. Hấn cho con trai là Trọng Thuỷ qua cầu hôn Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương Không chút nghi ngờ, nhà vua vui lòng gả và còn cho phép Trọng Thuỳ được ở rể trong Loa Thành.

Theo lời cha dặn, Trọng Thuỷ ngầm để ý dò xét khắp nơi và rắp tâm phát hiện bằng được bí mật của nỏ thần Mị Châu nhẹ dạ, lại thực lòng yêu thương chồng nên đã đưa Trọng Thuỷ vào tận nơi cất giấu nỏ thần Trọng Thuỷ chế ra chiếc lẫy giống y như thật rồi đánh tráo, thay vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thuỷ nói với vợ: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta trở lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?” Mị Châu ngây thơ đáp: “Thiếp có cái áo lông ngỗng thường mặc, khi gặp biến, đi đến đâu sẽ rắc lông ngỗng ở ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau”.

Trọng Thuỷ về đến nhà, Triệu Đà lập tức cất binh sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo hàng chục vạn quân giặc đã tràn sang, cậy có nỏ thần, An Dương Vương vẫn ngồi ung dung đánh cờ và cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Đà tiến sát cổng thành, vua mới sai lấy nỏ thần ra bắn nhưng không linh nghiệm nữa.

Thuan trận, hai cha con đành lên ngựa, nhằm hướng phương Nam mà chạy, nhưng chạy đến đâu quân giặc cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi theo đến đó. Ra tới sát bờ biển, An Dương Vương cùng đường bèn kêu lớn: “Sứ Thanh Giang ở đâu mau đến cứu ta!” Ngay lập tức, Rùa Vàng hiện lên, chỉ tay vào Mị Châu mà nói với An Dương Vương rằng: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!” Hiểu ra cớ sự, An Dương Vương nổi giận, tuốt gươm định chém Mị Châu thì vừa lúc ấy, Trọng Thuỷ cũng đến nơi. Chàng lao vào đỡ nhát kiếm oan nghiệt của An Dương vương thay cho người vợ thân yêu. Bỗng nhiên, mặt nước rẽ ra, Rùa Vàng đón An Dương Vương xuống biển. Mị Châu nước mắt chan hoà, vùng chạy theo cha nhưng những đợt sóng giận dữ tung bọt trắng xóa đã ngăn bước chân nàng. Nàng gục xuống bên xác chồng, nức nở.

Một kết thúc khác cho truyện Mị Châu, Trọng Thủy – Mẫu 4

Truyền thuyết kể rằng vua An Dương Vương xây Loa Thành cứ gần xong lại đổ, bèn lập đàn trai giới, cầu khấn thần linh. Ngày mồng bảy tháng ba, thần hiển linh thành một cụ già từ phương Đông tiến thẳng tới trước cửa thành. Cụ già nhìn thành mà than rằng: “Tiếc cho công sức của biết bao người!” Vua mừng rỡ đón cụ già vào điện, thi lễ và xin cụ già cho biết nguyên nhân vì sao việc xây thành lại chiếm nhiều công sức mà cứ xây xong lại đổ. Cụ già nói với nhà vua là sẽ có sứ Thanh Giang (một sứ giả đến từ dòng sông Xanh linh thiêng) đến giúp. Nói rồi, cụ già từ biệt nhà vua.

Quả nhiên, ngày hôm sau, nhà vua gặp được sứ Thanh Giang. Vị sứ giả này chính là Rùa Vàng (Thần Kim Quy) vật tổ linh thiêng của người Việt. Rùa Vàng đã giúp nhà vua xây thành chỉ nửa tháng là xong. Thành rộng hơn ngàn trượng xây hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành (Quy Long Thành, Côn Lôn Thành).

Rùa Vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về, nhà vua cảm tạ và xin Thần Rùa kế sách giữ nước. Rùa tháo vuốt đưa cho nhà vua để chế làm lẫy nỏ và dặn: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận”.

Vuốt Rùa được Cao Lỗ chế làm lẫy nỏ thần có thể bắn một phát trúng cả ngàn tên giặc khiến cho Triệu Đà bao lần xâm lược Âu Lạc đều thất bại phải xin hoà.

Không bao lâu, Đà xin cầu hôn. An Dương Vương gả con gái là Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thuỷ với mong muốn cuộc hôn nhân này sẽ nối lại hoà hiếu bang giao hai nước. Không ngờ cuộc hôn nhân này lại nằm trong mưu đồ xâm lược của Triệu Đà. Trọng Thuỷ sau khi lấy được Mị Châu đã dỗ nàng cho xem trộm nỏ thần rồi ngấm ngầm làm một cái lẫy nỏ khác giống hệt đánh tráo lẫy nỏ làm bằng vuốt Rùa Vàng. Xong việc, Trọng Thuỷ lấy cớ về phương Bắc thăm cha, đem lẫy nỏ thần về phương Bắc cho Triệu Vương. Trước khi đi, Trọng Thuỷ còn đề phòng “Bắc Nam cách biệt” hỏi Mị Châu cách tìm nàng khi có biến. Mị Châu mang áo gấm ra nói rằng nàng sẽ dứt lông ngỗng trên áo rải dọc đường làm dấu.

Trọng Thuỷ về nước, Triệu Đà cất quân đánh Âu Lạc, An Dương Vương chủ quan cậy có nỏ thần nên quân giặc đến gần vẫn điềm nhiên đánh cơ nói cười như không. Đến khi cầm nỏ mới biết lẫy thần đã bị mất, nhà vua lập tức hiểu hết sự tình.

Nhà vua nhìn Mị Châu đầy trách móc, Mị Châu biết tội bèn quỳ xuống xin cha trừng phạt. Không nỡ giết con, An Dương Vương sai người lấy ngựa đem Mị Châu chạy trốn, còn mình thì nhanh chóng tập hợp quân sĩ quyết một phen tử chiến. Khi quân hai bên đánh nhau đến bờ biển, thế giặc mạnh không thể chống đỡ, An Dương Vương cùng đường, gọi: “Sứ Thanh Giang đâu! Mau mau giúp ta!” Rùa Vàng hiện lên, rẽ nước đưa nhà vua xuống Thủy cung.

Triệu Đà chiếm được Loa Thành. Trọng Thuỷ nhớ lời dặn bèn theo vết lông ngỗng mà tìm. Đến bờ biển, Trọng Thuỷ nhìn thấy Mị Châu đang nắm chặt chuôi kiếm đứng đợi. Trọng Thuỷ tiến lại gần, Mị Châu tuốt kiếm chĩa về phía Trọng Thuỷ mà rằng: “Chàng vì nghĩa vụ quốc gia mà trở thành kẻ lừa dối, phản bội. Thiếp vì yêu chàng mà đem trái tim đặt nhầm lên khối óc. Nhưng thiếp thề rằng, tấm lòng thiếp vẫn trong sáng và trung thành với vua cha và xã tắc. Nếu có lòng phản trắc, sau khi chết xin làm mồi cho cá. Ngược lại, xin được làm ngọc trai dưới biển Đông”. Dứt lời, nàng vung kiếm tự vẫn. Trọng Thủy đem xác Mị Châu về chôn cất tại Loa Thành. Xong xuôi, chàng quá ân hận và thương nhớ Mị Châu bèn nhảy xuống giếng tự vẫn.

Người đời sau đem ngọc trai biển Đông về rứa ở giếng nước Trọng Thủy, viên ngọc bỗng sáng khác thường. Cảm thông cho tấm lòng yêu thương vợ của chàng, sự thuỷ chung của Mị Châu, Rùa Thần đã hội tụ hồn và xác của Trọng Thuỷ, dùng nước tạo nên hình hài Mị Châu rồi nhập hồn nàng vào.

Trọng Thuỷ, sau khi được sống lại và được Rùa Thần báo mộng rằng Mị Châu đang ở thuỷ cung, đã ngày đêm bơi lặn tìm nàng. Sau bao khó khăn gian khổ, chàng đã tìm được thuỷ cung. Đến cổng, chàng bị hai thuỷ thần giữ lại và hỏi:

– Nhà ngươi là ai, xuống đây có việc gì! Đây là chốn thanh bình, không cho phép người trần mắt thịt với bản chất xấu xa xuống đây làm nhiễu loạn.

– Thưa hai vị thuỷ thần – Trọng Thuỷ đáp – Sau cái chết của vợ, con vô cùng đau khổ, nhớ nàng da diết, trong lúc tuyệt vọng lầm tưởng bóng nàng ở dưới giếng khơi, con đã nhảy xuống giếng đuổi theo nàng. Sau khi chết con được Rùa Thần cứu sống và báo mộng Mị Châu (vợ của con) đang ở chốn này, con khẩn thiết hai vị cho con được vào.

Nghe những lời nói chân thành của Trọng Thuỷ và cũng được Rùa Thần dặn trước, hai vị thuỷ thần cảm động cho Trọng Thuỷ vào. Vào bên trong, chàng cảm thấy thật ngỡ ngàng, kinh ngạc trước cảnh đẹp còn hơn cả hoàng cung. Trước mặt chàng, cá nối đuôi nhau vui đùa nhảy múa, xa xa là khu vườn đầy loài hoa kỳ là. Ngồi ở trong đó chính là Mị Châu. Vừa nhìn thấy nàng, Trọng Thuỷ đã nhận ra. Nghe lời gọi da diết của Trọng Thuỷ, tình yêu lại trỗi dậy, nhưng nàng không tin được Trọng Thủy có thể tìm được đến đây.

– Mị Châu! – Trọng Thuỷ nói – Xa nàng bao nhiêu lâu nhưng ta vẫn nhung nhớ. Ta ăn không ngon, ngày đêm tưởng nhớ nàng, vì quá yêu nàng mà ta đã lầm tưởng bóng nàng dưới đáy giếng rồi nhảy xuống tự tử. Nay được gặp lại nàng, lòng ta sung sướng biết bao.

Mị Châu đáp:

– Tại sao ngươi lại tìm đến đây? Ta bị ngươi lừa dối trở thành kẻ tội đồ của đất nước. Ta đã không còn giá trị cho ngươi lợi dụng nữa.

Nghe những lời đó, Trọng Thuỷ bỗng nhói đau, xót xa ân hận.

– Nàng ơi! Tình yêu của ta thần linh có thể chứng giám. Ta thật ân hận khi nghe theo lời vua cha. Nhưng nàng hãy hiểu cho ta khi phải lừa dối nàng, lòng ta đau như cắt. Nhưng đó là mệnh lệnh cua cha ta, là áp lực của của cha và của cả thần dân của ta. Ta không thể làm khác được.

Nghe đến đây, Mị Châu mắt ướt lệ, giọng nghẹn ngào:

– Thiếp tin vào tình yêu của chàng, tin rằng những tình cảm trước kia chàng dành cho thiếp là chân thật không giả dối. Thiếp cũng biết một đấng nam nhi phải lấy sự nghiệp, giang sơn của mình làm trọng. Nhưng nếu thiếp vẫn theo chàng thì có lẽ thiếp sẽ bị ngàn đời nguyền rủa, vạn lời phỉ nhổ, muôn đời không dung. Thiếp đã vì tình cảm mà đem đất nước giao cho kẻ địch.

Thanh minh, thuyết phục Mị Châu một hồi mà không được. Trọng Thuỷ đi đến quyết định táo bạo.

– Ta thề rằng sẽ không bao giờ lừa dối nàng nữa. Nếu nàng vẫn chưa hẳn tin ta, vẫn sợ những lời đàm tiếu thì nàng hãy cùng ta đi gặp vua cha của nàng xin người tha thứ và nếu có thể ta và nàng sẽ lên gặp thượng đế xin người cho chúng ta được ở bên nhau.

Mị Châu hơi do dự, sợ sệt nhưng vẫn đồng ý:

– Số phận thiếp đã do trời quyết định, nay chờ vào sự an bài của ông trời vây.

Nói rồi, hai người mạnh dạn tìm gặp An Dương Vương. Ông đang chơi cờ cùng với Rùa Thần. Rùa Thần thấy hai người đi cùng nhau thấy làm vui, An Dương Vương tỏ ý tức giận nhưng trong lòng ông vẫn thương con. Không đợi Mị Châu và Trọng Thủy phân trần, An Dương Vương đã nói:

– Ta khó lòng tha thứ cho các ngươi nhưng nếu ông trời quyết định thì ta chẳng có gì để nói nữa cả.

Trọng Thuỷ, Mị Châu vui cảm tạ An Dương Vương rồi xin Rùa Thần dẫn lên Thiên Đình. Trước mặt Thượng Đế hai người cùng đồng tâm:

– Chúng con là Trọng Thuỷ và Mị Châu, chúng con biết chúng đều gây ra tội lỗi, chúng con rất ân hận và xin cam kết từ nay chúng con sẽ tu tâm tích đức bù đắp lại lỗi lầm của mình. Xin Thượng Đế tha thứ và cho chúng con được ở bên nhau.

Thượng Đế suy nghĩ hồi lâu rồi dõng dạc nói, giọng của người vừa uy nghi vừa vang rền như sấm:

– Tuy các ngươi đã có tội, nhưng đã biết hối cải. Ta cũng động lòng trước tình cảm của hai ngươi nhưng tội lỗi thì khó mà xoá được. Vậy ta phạt hai ngươi xa nhau ba năm tu thân tích đức rồi mới được chung sống với nhau.

Trọng Thuỷ và Mị Châu cảm tạ ân điển rồi xuống trần gian. Ba năm sau họ gặp lại nhau và chung sống vui vẻ hạnh phúc.

Một kết thúc khác cho truyện Mị Châu, Trọng Thủy – Mẫu 5

An Dương Vương sau khi xây xong thành Cổ Loa thì được thần Kim Quy tặng cho một chiếc móng để làm nỏ thần. Nỏ thần giúp vua đánh bại kẻ thù phương Bắc xâm lược. Triệu Đà bị thất bại liền lui quần về chờ cơ hội thích hợp. Ít lâu sau, Triệu đưa con trai mình là Trọng Thủy sang cầu thân với Mị Châu – con gái An Dương Vương. Một thời gian qua đi, khi đã có được lòng tin yêu của Mị Châu, Trọng Thủy bèn dò hỏi chuyện về chiếc nỏ thần và đánh cắp đem về cho cha. Có nỏ thần trong tay, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thấy giặc đến chân thành nhưng vẫn chủ quan vì nghĩ rằng đã có nỏ thần. Thua cuộc, An Dương Vương cưỡi ngựa đem theo Mị Châu tiến về phía biển. Nhưng đi đến đâu thì thấy quân giặc theo đến đấy. Vua cầu cứu thần Kim Quy, thần hiện lên báo rằng: “Giặc ở sau lưng nhà vua đấy”. An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mị Châu, rồi nhảy xuống biển tự vẫn. Trọng Thủy tìm theo về lông ngỗng thì thấy xác Mị Châu, hối hận mà tử tự.

Trọng Thủy nhảy xuống giếng sâu tử tự nhưng chàng không chết. Lúc tỉnh dậy, chàng thấy mình đã đến một vùng đất xa lạ. Chàng bước đi mà không biết bản thân sẽ đi về đâu. Khi đã đi rất lâu, Trọng Thủy đã thấm mệt thì bỗng nhiên nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ. Chàng bèn bước đến rồi gõ cửa. Một bà lão ra mở cửa và hỏi:

– Cậu là ai? Đến đây có việc gì?

Trọng Thủy đáp:

– Tôi là người qua đường, chẳng may lạc đến nơi đây, không biết có thể xin vào nhà ngồi nghỉ một lát được không?

Bà lão tốt bụng mời Trọng Thủy vào nhà, cho chàng uống nước. Bỗng nhiên, Trọng Thủy nhìn thấy chiếc áo lông ngỗng giống như của Mị Châu ở trên ghế. Chàng bèn hỏi bà lão xem trong nhà còn ai. Khi biết được bà còn sống cùng con gái, chàng liền xin bà cho mình được gặp mặt. Bà lão bèn gọi con gái của mình ra.

Trọng Thủy nhìn thấy Mị Châu, chàng vô cùng ngạc nhiên. Mị Châu sửng sốt khi gặp lại Trọng Thuỷ. Nhìn vẻ đau khổ và uất hận còn đong đầy trong đôi mắt đẫm lệ của Mị Châu, Trọng Thuỷ bật khóc, tiếng khóc nghẹn ngào, thống thiết của chàng khiến sỏi đá cũng phải mủi lòng. Trọng Thuỷ đã quỳ xuống, van xin Mị Châu tha thứ cho tội lỗi của mình:

– Nàng ơi! Hy vọng nàng hãy tha lỗi cho ta, ta không thể nào làm khác được, đó là lệnh của vua cha! Ta biết nàng tin yêu ta nên không giấu diếm điều gì, nhưng ta đã lợi dụng sự tin yêu để phản bội nàng.

Mị Châu vẫn im lặng không nói gì. Trọng Thuỷ càng đau khổ và quặn thắt ở trong tim, chàng giãi bày hết nỗi lòng của mình:

– Quả là lúc đầu, ta rắp tâm lừa dối cha con nàng, lừa dối cả đất Âu Lạc, nhưng sau một thời gian chung sống, ta thực sự yêu nàng. Tình yêu của ta thần linh có thể chứng giám nó không hề vụ lợi. Ta thật ân hận khi nghe theo lời vua cha. Nhưng xin nàng hãy hiểu cho ta không thể làm khác được, lòng ta vô cùng bối rối, trong lúc tâm trí hỗn loạn, ta đã có một quyết định sai lầm không thể nào bỏ qua. Nàng có biết không, ta đã phải chịu dày vò, dằn vặt. Lúc ta nhận ra sự nghiệt ngã của chiến tranh phi nghĩa thì đã quá muộn màng. Ta quyết định dùng cái chết để tạ tội. Nghe đến đây, mắt Mị Châu đã ướt lệ, giọng nghẹn ngào:

– Ta đã tin tưởng vào tình yêu của chàng. Nhưng chàng đã nhân tâm lừa dối ta. Mối thù giết cha, cướp nước không thể nào xóa bỏ. Chúng ta cũng không thể quay lại như trước kia được nữa.

Trọng Thủy nghe vậy vô cùng đau xót. Chàng nói với Mị Châu:

– Ta là kẻ có tội, đã tìm đến cái chết một lần nhưng lại may mắn sống sót và được gặp lại nàng để xin lỗi. Nay cũng không mong ước gì hơn. Chỉ xin nàng tiếp tục sống, quên đi quá khứ đau buồn.

Nghe đến đây, Mị Châu đã cảm thấy mềm lòng. Nhưng nàng vẫn không quên đi nỗi đau mất nước, liền nói với Trọng Thủy:

– Mọi việc tuy đã là quá khứ, ta có thể tha thứ cho lỗi lầm của chàng. Nhưng đôi ta không thể trở lại chung sống như xưa. Vậy mong chàng hãy rời đi để từ nay không còn gặp lại.

Trọng Thủy biết rằng ý Mị Châu đã quyết, lại nhận được sự tha thứ từ nàng. Chàng đành nói lời từ biệt với Mị Châu rồi ra đi. Kể từ đó hai người không còn gặp lại nhau. Về phần Triệu Đà, sau khi con trai chết. Vì quá thương nhớ con mà đâm ra sinh bệnh mà chết.

Một kết thúc khác cho truyện Mị Châu, Trọng Thủy – Mẫu 6

An Dương Vương khi xây thành Cổ Loa, xây tới đâu, thành đổ tới đó. Nhờ có thần Kim Quy giúp đỡ mới xây xong. Trước khi từ biệt, thần có tặng cho một chiếc móng dặn làm thành nỏ thần. Nỏ được làm xong, bắn bách phát bách trúng. Bấy giờ Triệu đà ở phương Bắc rắp tâm xâm lược nước ta. Nhưng vì vua nước Âu Lạc có được nỏ thần nên đành phải lui về chờ đợi cơ hội thích hợp. Triệu Đà tìm cách cầu thân cho con trai với Mị Châu. Khi lấy được lòng tin của Mị Châu, Trọng Thủy đã hỏi nàng về bí mật của nỏ thần. Sau đó, Trọng Thủy lấy cớ về thăm cha rồi đánh cắp nỏ thần. Triệu Đà đem quân tiến đánh nước Âu Lạc một lần nữa. Giặc đến chân thành nhưng An Dương Vương vẫn thản nhiên ngồi chơi cờ. Khi giao chiến, nỏ thần không phát huy tác dụng như trước khiến nước Âu Lạc thua trận. An Dương Vương phải đưa Mị Châu chạy trốn về phía biển Đông. Quân giặc đuổi theo, vua được thần Kim Quý báo cho kẻ thù ngay bên cạnh, liền rút kiếm chém chết Mị Châu.

Mị Châu sau khi chết được vua Thủy Tề thương xót giữ lại sống ở dưới thủy cung và nhận làm con nuôi. Trọng Thủy nghe tin vợ chết, hết sức hối hận liền nhảy xuống giếng tự tử. Linh hồn Trọng Thủy sau những ngày lang thang khắp nơi, cuối cùng lạc xuống thủy cung nơi Mị Châu ở.

Trọng Thủy lạc vào thủy cung đúng lúc vua Thủy Tề đang tổ chức tiệc mừng thọ. Thấy có người đột nhất, vua sai linh bắt vào hỏi tội. Trọng Thủy được được giải vào, nhìn thấy Mị Châu – lúc này đang ngồi cạnh vua Thủy Tề thì vô cùng ngạc nhiên.

Vua Thủy Tề liền cất tiếng hỏi:

– Ngươi là ai? Từ đâu lại đến đây?

Trọng Thủy bèn trả lời:

– Thần là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà – vua nước Triệu. Khi còn sống làm quá nhiều việc sai trái nên đã tìm đến cái chết. Thần trên đường đi tìm vợ mình là Mị Châu thì lạc xuống đây, xin người thứ tội.

Vua Thủy Tề nghe xong, vô cùng ngạc nhiên, quay sang hỏi con gái:

– Mị Châu, con và hắn có quen biết nhau sao?

Mị Châu khẽ đưa tay lau nước mắt, đáp:

– Thưa phụ vương, con quả thật có quen biết hắn. Hai bên có mối thù sâu nặng. Hắn đã lừa dối con, lấy cắp bảo vật quốc gia đem về cho cha mình. Cha hắn là Triệu Đà đem quân sang xâm lược đất nước của con. Nay gặp lại ở đây, kính mong phụ vương cho con gặp riêng hắn để giải quyết mối nghiệt duyên này.

Vua Thủy Tề nghe xong, sai người cởi trói cho Trọng Thủy. Vua ra hiệu cho người hầu đi theo Mị Châu để đề phòng xảy ra chuyện. Cả hai im lặng một lúc lâu, Mị Châu mới nói:

– Khi còn sống, ngươi lừa dối và hãm hại ta chưa đủ hay sao mà còn theo ta đến tận đây?

Trọng Thủy nhìn Mị Châu, vẻ mặt đầy ăn năn:

– Kìa Mị Châu, nàng hiểu lầm ta rồi. Từ khi nàng mất đi, ta vẫn luôn tự trách móc bản thân. Nay gặp được nàng ở đây, chỉ mong có thể nói lời xin lỗi với nàng.

Mị Châu quay lại, nhìn Trọng Thủy với ánh mắt đầy giận dữ:

– Ngươi tưởng rằng chỉ một lời xin lỗi là xong ư? Vậy nỗi đau vong quốc, nỗi đau bất nghĩa, nỗi đau bị lừa dối, mỗi ngày mỗi đêm đều như hàng ngàn mũi tên ra sức đâm vào trái tim ta thì làm sao có thể quên đi?

Trọng Thủy liền nắm lấy bàn tay của Mị Châu, rồi nói:

– Ta biết lỗi lầm của ta dù có chịu đâm nghìn nhát kiếm cũng không thể rửa hết tội. Nay ta xin tự hủy đi hồn phách của mình để chuộc lỗi với nàng.

Nói rồi, Trọng Thủy tự hủy đi hồn phách của mình. Mị Châu hốt hoảng đỡ lấy Trọng Thủy. Nước mắt của Mị Châu rơi xuống khuôn mặt của chàng. Mị Châu vừa khóc vừa nói:

– Chàng hà tất phải làm như vậy. Chúng ta đã không thể quay lại như xưa được nữa.

Trọng Thủy mỉm cười nhìn Mị Châu và nói:

– Ta biết chúng ta không thể quay lại như trước. Sau khi chết đi, hồn phách của ta đã đi tìm nàng khắp nơi. Nay đã gặp lại nàng và nói lời xin lỗi, ta không còn ân hận điều gì nữa. Chỉ mong nàng hãy hứa với ta có thể tiếp tục sống tốt.

Mị Châu dù rất đau khổ nhưng vẫn hứa với Trọng Thủy. Sau đó, hồn phách của Trọng Thủy dần tan biến.

]]>
https://quatangtiny.com/tuong-tuong-mot-ket-thuc-khac-cho-truyen-mi-chau-trong-thuy-42280/feed 0
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4: Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại câu chuyện Bố của Xi-mông https://quatangtiny.com/hay-tuong-tuong-minh-la-xi-mong-ke-lai-cau-chuyen-bo-cua-xi-mong-39246 https://quatangtiny.com/hay-tuong-tuong-minh-la-xi-mong-ke-lai-cau-chuyen-bo-cua-xi-mong-39246#respond Fri, 23 Oct 2020 03:37:04 +0000 https://quatangtiny.com/hay-tuong-tuong-minh-la-xi-mong-ke-lai-cau-chuyen-bo-cua-xi-mong-39246

Related posts:

  1. Bài văn mẫu Lớp 10: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 5)
  2. Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 4)
  3. Bài viết số 1 lớp 8: Đề 1 đến Đề 3 (Dàn ý + 27 mẫu)
]]>
Bài viết số 2 lớp 10 đề 4: Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại câu chuyện Bố của Xi-mông, Bài văn mẫu lớp 10: Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại câu chuyện

Bài viết số 2 lớp 10 đề 4: Hãy tưởng tượng mình là Xi-mông, kể lại câu chuyện Bố của Xi-mông, là tài liệu vô cùng hữu ích cho học sinh lớp 10 khi làm bài viết số 2. 

Tài liệu gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu hay nhất sẽ được chúng tôi giới thiệu dưới đây. Mời quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo.

Dàn ý kể lại chuyện Bố của Xi-mông

1. Mở bài

– Tôi là Xi-mông, là con của mẹ Blăng-sốt và bố Phi-líp yêu thương.

– Thế nhưng, các bạn biết không, trước đây tôi đã vô cùng đau khổ vì bị coi là đứa trẻ không có bố.

2. Thân bài

* Hôm ấy là ngày đầu tiên tôi đi học

– Bị bạn bè trêu như thế nào?

– Bản thân đau đớn ra sao? (trong suy nghĩ, hành động…)

– Cảm giác sợ hãi, muốn lẩn tránh, xa lánh bạn bè.

* Tôi đã bỏ lên bờ sông, trong đầu vương vấn ý định tự tử ngay lúc ấy.

– Kể lại tâm trạng vô cùng tuyệt vọng lúc ở bờ sông.

– Cảnh vật lúc đó thế nào ? Nó khiến “tôi” cảm giác ra sao?

* Đang tuyệt vọng, bỗng nhiên có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi. Đó là bác thợ rèn Phi-líp.

– Kể lại việc bác thợ rèn nói chuyện với mình ra sao.

– Bác đưa mình về và nói chuyện với mẹ thế nào.

* Vô cùng sung sướng khi Bác Phi-líp đồng ý nhận làm cha của mình.

– Muốn khoe với các bạn và tự hào vì mình có bố.

3. Kết bài

– Đây là câu chuyện có ý nghĩa nhất đối với bản thân tôi.

– Kể từ ngày ấy tôi luôn hạnh phúc và tự hào vì được sống trong tình thương yêu của cả bố mẹ tôi.

Kể lại chuyện Bố của Xi-mông – Mẫu 1

Tôi là đứa trẻ bất hạnh vì không có bố. Tuy lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn thấy thiếu thốn tình cảm của một người bố. Điều mà tôi sợ nhất là ngày ngày đến trường, lũ trẻ nghịch ngợm cứ quây quanh tôi mà la toáng lên: “Ê, ê! Thằng con hoang không có bố!”.

Hồi ấy tôi khoảng bảy hoặc tám tuổi, người xanh xao, gầy gò và tính cách thì nhút nhát. Điệu bộ của tôi vụng về ngượng nghịu đến phát tội. Tan trường về nhà, tai tôi nghe đầy lời đám trẻ xầm xì không ngừng. Chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Bằng trò trêu ghẹo độc ác vô tội vạ của con nít, chúng chặn trước chặn sau, bao vây dồn tôi vào giữa. Tôi chỉ biết đứng chịu trận, vừa ngạc nhiên, vừa hoang mang sợ hãi chẳng biết chúng muốn gì. Mặc dù mẹ dặn là tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi không thể kìm được cơn giận dữ, lao vào đánh đấm chúng túi bụi. Đương nhiên là tôi bị chúng tẩn cho ra trò. Tôi về mách mẹ. Mẹ ôm tôi vào lòng vuốt ve và an ủi nhưng rốt cuộc thì cuối cùng cả hai mẹ con chỉ biết cùng khóc.

Một hôm, tình trạng ấy lại tái diễn. Tôi nổi giận, vừa túm tóc tên nhóc vừa giơ chân đá. Tôi còn nhào đến, dữ tợn cắn vào má tên nhóc một phát, mở màn trận đấm đá tay đôi ác liệt, giữa đám giặc con đứng vòng ngoài vỗ tay reo hò. Tàn cuộc, tôi u đầu sứt trán, tay chân quần áo đầy đất cát. Một thằng lõi còn quát tôi:

– Về mách với bố mày đi!

Tim tôi đau nhói. Chúng nó đông hơn, chỉ lấy thịt đè người cũng đủ chết và tôi chẳng thể mở mồm biện minh được gì. Thật sự tôi chẳng có bố. Tôi nghẹn ngào, nhưng vì niềm kiêu hãnh, tôi cắn răng không khóc trước mặt lũ ranh. Tôi cố nén dòng nước mắt đang trào lên, nhưng niềm tức tưởi òa thành tiếng nấc không ngừng. Lũ ranh vỡ trận cười thỏa thích. Chúng tay nắm tay nhau, reo hò nhảy múa quanh tôi bằng điệp khúc:

“Thằng không bố! Ê, thằng không bố”. Tôi buồn bã bỏ học, lang thang ra bờ sông vắng. Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, bỗng dưng tôi muốn chết… Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có bố. Tôi tuyệt vọng, chạm chân vào nước, đăm chiêu nhìn dòng sông lững lờ trôi. Vài con cá nhảy lên mặt nước xanh để đớp ruồi. Tôi nín khóc, thích thú nhìn cảnh ngộ nghĩnh đang diễn trước mắt. Tuy nhiên, giữa lúc giông bão trong lòng tôi tạm lắng, như ngọn gió thình lình táp mạnh vào thân cây rồi ào đi, nó lại nghe niềm đau cào cấu. “Tôi muốn buông mình cho chết vì làm con không bố”. Tôi định nhảy ùm xuống, mặc cho dòng nước cuốn trôi đến đâu thì đến, chết lại càng hay! Lũ trẻ sẽ chẳng còn trêu chọc tôi được nữa và nỗi khổ tâm của tôi sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương. Gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu trời xanh cao vời vợi. Những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát bên nhau trông giống bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại. Chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại. Rồi tôi nghĩ đến mẹ, Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng, sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi.

Trời thật ấm, ánh hồng trải mình trên cỏ, và dòng nước trong như gương. Tôi tận hưởng giây phút êm ả, đoạn mệt nhoài buông mình mơ màng trên thảm cỏ. Có con nhái xanh từ đâu nhảy dưới chân tôi. Tôi chồm người chụp lấy, nhưng con nhái vụt mất. Tôi rượt theo đến lần thứ tư mới bắt được. Nhìn con nhái cố sức ngọ nguậy trên tay để trốn thoát, tôi bật cười. Con nhái dồn sức xuống đôi chân sau, cố bật mạnh lên như chàng lực sĩ đang cử tạ. Tròng mở to như muôn lọt khỏi vòng mắt màu vàng viền bên ngoài và hai chân trước chòi đạp như thể hai tay đang quơ ra cầu cứu. Hình ảnh ấy khiến tôi nhớ món đồ chơi của mình. Món đồ chơi được ghép bằng những mảnh gỗ nhỏ đóng từng đoạn chồng lên nhau. Trên ấy là hàng lính tí hon, thao tác tùy theo mảnh gỗ chuyển động. Nghĩ đến đây, tôi nhớ nhà, nhớ mẹ và tủi thân bật khóc. Tay chân tôi run rẩy, tôi buông người quỳ xuống và cầu nguyện như hằng đêm trước khi đi ngủ. Chưa cầu nguyện xong, điều đau khổ lại trào dâng trong lòng khiến tôi òa khóc lớn. Bất ngờ, có bàn tay ai nặng trịch đặt lên vai nó. Theo đó là giọng nói trầm trầm:

– Bé con ơi, việc gì khiến con buồn đến thế…

Tôi quay lại. Một người thợ với hàm râu đen và mái tóc dợn từng sợi, đang chăm chú nhìn tôi. Tôi tức tưởi:

– Tụi nó đánh con, vì con không có bố.

Người thợ mỉm cười:

– Sao kỳ cục vậy?… Ai cũng có bố mà con.

Tôi đau thắt người, trả lời.

– Nhưng con không có.

Nghe câu nói, người thợ bối rối và bảo tôi:

– Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Mẹ con sẽ chỉ cho biết bố ở đâu.

Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:

– Mẹ ơi, mẹ!

– Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông…

Tôi nhào ôm cổ mẹ, mếu máo.

– Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con… Tụi nó đánh con vì con không có bố.

Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Tôi chạy đến chân chân người thợ nói:

– Chú làm bố con được không…?

Ngột ngạt bao trùm, không ai nói một lời. Tôi liền tuyên bố:

– Nếu chú không chịu làm bố của con, con sẽ nhảy xuống sông.

– Được chứ sao không, nhóc con.

Tôi làm quen:

– Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?

– Phi-líp!

Tôi ghi nhớ và quả quyết nói với chú:

– Bây giờ chú là bố của con!

Còn gì hay hơn thế nữa? Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi mặt vào bé ngực vạm vỡ của chó.

Ngày hôm sau đi học, lũ bạn lại xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bố tớ là thợ rèn Phi-líp!”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Không đúng! Mày phải có một ông bố đàng hoàng như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành nín nhịn, chờ tan buổi học. Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bố Phi-líp của tôi, kể mọi chuyện cho bé nghe. Tôi thấy vẻ mặt bố trầm ngâm hẳn. Bố lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Con hãy về nhà đi! Con sẽ có bố, ông bố thực sự, ông bố đàng hoàng của con!”.

Sau đó, một điều tuyệt vời xảy ra: Bố Phi-líp đến gặp mẹ tôi, ngỏ lời cầu hôn với mẹ Blăng-sốt của tôi. Bố bảo tôi cần có bố thật sự, cần người bảo vệ. Bố Phi-líp đã đem lại cơ hội cho mẹ tôi được làm vợ một người đàn ông tử tế. Khỏi phải nói tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-líp mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa chắc chắn cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, cứ hết nhìn tôi lại nhìn Phi-líp. Rồi mẹ lấy chiếc khăn choàng trên vai, lau nước mắt.

Hôm sau đến trường, khi cả lớp chuẩn bị đọc bài thì tôi đứng lên. Mặt tái xanh và môi run run, nhưng tôi nói rõ ràng từng chữ:

– Bố tao… bố tao là Phi-líp, làm thợ rèn. Đứa nào láng cháng, bố tao sẽ kéo đứt tai.

Không một ai trong đám trẻ dám mở miệng cười. Người thợ rèn Phi-líp nổi tiếng chúng đều biết, và đứa nào cũng đều hãnh diện có người cha oai phong như thế. Bố Phi-líp đã đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Tôi rất thích đi dạo dọc bờ sông mỗi chiều để tôi âu yếm nói: “Bố Phi-líp của con! Con yêu bố lắm!”

Kể lại chuyện Bố của Xi-mông – Mẫu 2

Quá khứ của tôi đã có những ngày buồn đau và tuyệt vọng. Nhưng nếu không có những ngày như thế, có lẽ tôi sẽ không cảm thấy hạnh phúc tuyệt vời như chính lúc này đây.

Câu chuyện của tôi xảy ra vào ngày đầu tiên khi tôi bước chân vào lớp một. Hôm ấy tôi mừng vui lắm và thật háo hức vô cùng. Tôi đến trường vui tươi và phấn khởi. Thế nhưng khi tôi vừa chực bước chân vào lớp thì một đám bạn xúm đến vây quanh lấy chân tôi. Một đứa trong đám bắt đầu ném vào tai tôi bao lời chua chát mà cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào quên. Tôi bực giật nhưng đành câm lặng bởi đúng là lúc ấy… tôi không có bố. Tôi bật khóc, vậy mà lũ bạn tôi vẫn chưa chịu thôi cái trò chơi quái ác. Buổi học đầu tiên với bao mong đợi đã không thành. Tôi buồn nản và vô cùng thất vọng bỏ ra phía bờ sông.

Trời ấm áp và dễ chịu. Ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương. Tôi muốn nằm ngay ra đó và ngủ đi một giấc nhưng lại không sao ngủ được. Không thể nào quên được những câu nói vừa qua. Đầu tôi choáng váng, chân tay mệt mỏi rã rời. Tôi muốn chìm ngay xuống dưới lòng sông để quên đi tất cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại trù trừ không muốn làm ngay. Mắt tôi rệu rã nhìn theo những đám bọt trên sông.

Đang chán ngán, tôi bỗng thấy một chú nhái con màu xanh lục nhảy nhót dưới chân. Tôi vung tay tóm lấy mà không được. Tôi đuổi theo, vồ hụt ba lần liền rồi mới tóm được hai chân sau của nó. Tôi bật cười nhìn con vật cố giãy giụa để thoát thân. Nó thu mình lại trên đôi cẳng lớn rồi bật phắt lên, đột ngột duỗi cẳng, ngay đơ như hai thanh gỗ; trong lúc giương tròn con mắt có vành vàng, nó dùng hai chân trước đập vào khoảng không, huơ lên như hai bàn tay. Trò nghịch với chú nhái bỗng gợi cho tôi nhớ về một đồ chơi thuở nhỏ. Và thế là tự nhiên tôi nghĩ đến nhà, đến mẹ. Tôi thấy buồn vô cùng và lại khóc. Người tôi rung lên, tôi sợ, quỳ xung và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ nhưng không đọc hết. Nỗi buồn càng lúc càng giăng kín lòng tôi. Tôi chẳng còn nghĩ được điều gì nữa, chẳng nhìn thấy cái gì nữa. Tôi chỉ ngồi ôm mặt và cứ nức nở mãi không thôi.

Thế rồi, bỗng nhiên tôi giật nảy mình. Một bàn tay chắc nịch của ai đó vừa đặt lên vai tôi và tai tôi nghe những lời nói ồm ồm nhưng đầy chia sẻ:

– Có điều gì làm cháu buồn phiền đến thế, cháu ơi?

Tôi quay lại. Một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn tôi bằng ánh mắt nhân hậu vô cùng. Tôi trả lời, giọng nghẹn ngào trong khi mắt vẫn còn ươn ướt:

– Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không có bố.

– Sao thế – bác ta mỉm cười bảo – ai mà chẳng có bố.

Tôi nói tiếp (một cách khó khăn) trong tiếng nấc:

– Cháu… cháu không có bố.

Tôi nhận ra bác công nhân bỗng nghiêm mặt lại. Và hình như bác đã nhận ra tôi. Bác nói:

– Thôi nào, đừng buồn nữa, cháu ơi, và về nhà với mẹ cháu, với bác đi. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố.

Ngay lúc ấy, tôi không biết lời nói kia có thật hay không. Thế nhưng trên đường về, lòng tôi tràn đầy hy vọng.

– Thưa bác, đây rồi! Nhà cháu ở đây – tôi nói:

Mẹ tôi mở cửa bước ra khi bác công nhân đang mải ngắm ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng và hết sức sạch sẽ của mẹ con tôi. Thấy mẹ tôi, bác e dè, cầm mũ một bên tay và nói:

– Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông.

Không để cho mẹ kịp trả lời, tôi bỗng ôm chầm lấy mẹ rồi òa khóc:

– Không, mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.

Đôi má của mẹ tôi cứ thế đỏ bừng lên và đôi mắt gợi một nỗi buồn sâu thẳm. Mẹ ôm tôi vào lòng, hôn lấy hôn để trong nghẹn ngào nước mắt khiến tôi càng nức nở hơn. Nhưng rồi như vừa chợt nghĩ đến một điều gì trước đó, tôi bỗng chạy đến bên bác công nhân và nói:

– Bác có muốn làm bố cháu không?

Tôi hồi hộp đợi chờ, trong khi ấy mẹ tôi ngã vào tường và hai tay ôm ngực. Không thấy trả lời, tôi lại nói, mạnh mẽ và dứt khoát:

– Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở lại nhảy xuống sông chết đuối.

Đến đây, bác công nhân mới nở nụ cười rồi đáp:

– Có chứ, bác muốn chứ.

Tôi ngây thơ và sung sướng vô cùng. Tôi hỏi tiếp ngay:

– Thế bác tên gì để cháu còn trả lời chúng nó khi chúng nó muốn biết tên của bác?

– Phi-líp – Người đàn ông đáp.

Tôi im lặng một giây để ghi nhớ cái tên ấy vào đầu. Rồi hết cả buồn, tôi vươn hai cánh tay ra nói:

– Thế nhé! Bác Phi-líp, bác là bố cháu.

Tôi sung sướng quá! Bác Phi-líp bước đến nhấc bổng tôi lên, hôn vào hai má tôi, rồi bác sải từng bước dài bỏ đi vội vã.

Sau hôm ấy, tôi lại đến trường. Vừa bước vào cửa lớp, tôi lại nghe một tiếng cười ác ý. Buổi học hôm ấy qua nhanh, lúc tan học, đứa bạn hôm trước lại định trêu chọc tôi. Nhưng tôi lớn tiếng quát vào mặt nó:

– Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp.

Khắp xung quanh tôi lại bật lên những tiếng la hét vô cùng thích thú:

– Phi-líp gì?… Phi-líp nào?… Phi-líp cái gì?… Mày lấy đâu ra Phi-líp của mày thế?

Nhưng tôi không trả lời. Tôi một mực tin tưởng và đưa con mắt thách thức bọn kia. Cũng may đúng lúc ấy thầy giáo đến. Bọn bạn kia nhìn thấy thầy bèn giải tán. Còn tôi, tôi cảm ơn thầy rồi cũng ra về. Nhưng khác hẳn mọi hôm, hôm nay tôi hãnh diện và vui mừng lắm.

Câu chuyện của tôi là thế. Bây giờ thì bố Phi-líp đã về ở với mẹ con tôi và lũ bạn cũng không còn trêu tôi nữa. Ngẫm lại, những chuyện ngày xưa thật đáng buồn. Thế nhưng sau tất cả tôi phải cảm ơn, cảm ơn rất nhiều bố Phi-líp của tôi.

Kể lại chuyện Bố của Xi-mông – Mẫu 3

Những năm tháng tuổi thơ của tôi thật nhiều buồn tủi. Nguyên nhân của những nỗi buồn ấy là bởi vì tôi không có bố. Tuy được mẹ rất thương yêu nhưng tôi vẫn thấy thiếu thốn tình cảm của một người cha. Tôi rất ngưỡng mộ những đứa trẻ có cha đi cùng, vui đùa và dắt đi học. Ngày đó, điều làm tôi sợ nhất là những lời châm chọc của đám trẻ con trong khu và cả những đứa bạn ở trường.

Mặc dù mẹ đã dặn tôi là phải tránh xa chúng nó ra nhưng đã vài lần, tôi đánh nhau với chúng. Và rồi lần nào tôi cũng bị chúng đánh cho ra trò. Mỗi lần như vậy, tôi lại ấm ức trở về nhà và kể cho mẹ tất cả. Mẹ tôi ôm tôi vào lòng vuốt ve, an ủi nhưng rốt cuộc thì cả hai mẹ con lại cùng khóc.

Một lần, sau khi bị đám trẻ chế giễu vì không có bố, tôi đã không kìm được cơn tức giận xông vào đánh chúng. Thế là lại bị chúng đánh cho một trận, tôi cảm thấy uất ức liền chạy ra bờ sông và khóc nức nở. Trời ấm áp và dễ chịu, ánh mặt trời êm đềm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương, tôi muốn nằm ngay ra đó và ngủ đi một giấc nhưng mà không sao ngủ được. Không thể nào quên được những câu nói vừa rồi, đầu tôi choáng váng, chân tay mệt mỏi rã rời. Tôi muốn chìm ngay xuống dưới lòng sông để quên đi tất cả. Nhưng không hiểu sao tôi lại ngần ngại không muốn làm ngay. Mắt tôi rệu rã nhìn theo những đám bọt nước đang trôi lềnh bềnh trên mặt sông.

Tôi chìm ngập trong cảm xúc đau thương, gối đầu lên đôi bàn tay, tôi nằm ngửa nhìn trời. Trên cao là bầu trời xanh cao vời vợi, những đám mây đủ mọi hình thù lãng đãng trôi. Ô kìa! Rõ ràng ba đám mây trắng ở sát bên nhau trông giống bố mẹ cùng dắt tay đứa con thơ. Tôi chợt bật khóc nức nở và gọi thật to: “Bố ơi! Bố ở đâu? Sao bố không về với con?”. Không một lời đáp lại, chỉ có tiếng gió thổi xào xạc trong đám sậy ven sông. Tôi úp mặt xuống cỏ ướt, dần dần tỉnh lại, và tôi nghĩ đến mẹ. Mẹ Blăng-sốt yêu quý của tôi! Nếu tôi không về nhà đúng giờ, mẹ sẽ lo lắng và sốt ruột biết chừng nào! Nếu tôi chết, chắc mẹ sẽ khóc hết nước mắt, có khi mẹ cũng sẽ chết theo tôi. Hình dung ra cảnh tượng ấy, tôi tự sỉ vả mình là đồ nhu nhược, đồ hèn! Không! tôi chẳng việc gì mà phải chết cả! Tôi phải đi học, lớn lên còn đi làm kiếm tiền nuôi mẹ nữa chứ! Người mẹ dịu dàng, chịu thương chịu khó đã nuôi tôi khôn lớn. Mẹ là tất cả những gì tôi có trong cuộc đời này.

Bỗng có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi và một giọng nói ồm ồm cất lên: “Có điều gì làm cháu phải buồn phiền đến thế,cháu ơi!”. Tôi ngoảnh lại nhìn, thì ra là bác Phi-líp, thợ rèn ở đầu làng. Bác Phi-líp có mái tóc xoăn và bộ râu rậm, đôi mắt nhăn nheo với khuôn mặt vuông vức. Thân hình bác to lớn và vạm vỡ làm sao! Càng ngắm bác tôi lại càng thấy thèm một người cha như vậy.

Tôi òa lên khóc nức nở, nghẹn ngào:

– Bác ơi! Chúng nó trêu chọc cháu, chửi cháu là đồ con hoang, đồ không có bố!

Lúc này, hình như bác Phi-líp đã nhận ra tôi nên an ủi tôi, hứa sẽ cho tôi một ông bố và bác khuyên tôi nên về nhà ngay kẻo mẹ mong. Khi về đến nhà tôi thấy mẹ đang rất lo lắng. Tôi chạy ngay đến ôm chầm lấy mẹ và lại khóc nức nở. Dường như mẹ đã hiểu chuyện gì xảy ra với tôi nên cũng ôm tôi vào lòng, đôi má đỏ bừng và hai hàng lệ tuôn rơi. Thế rồi tự nhiên trong đầu tôi nảy ra một ý định, tôi chạy đến bên bác Phi-líp và nói:

– Bác có muốn làm bố cháu không?

Bác Phi-líp vẫn im lặng còn mẹ tôi thì có vẻ thẹn thùng. Một phút im lặng trôi qua, bác Phi-líp liền cười và đáp:

– Có chứ, bác rất muốn.

Tôi sung sướng ôm ghì lấy cổ bác Phi-líp, dụi mặt vào lồng ngực vạm vỡ của bác.

Ngày hôm sau đi học, lũ bạn xúm lại trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận dữ, tôi kiêu hãnh đáp: “Bố tớ tên là Phi-líp”. Lũ bạn nhao nhao: “Không đúng! Mày phải có một ông bộ thật sự giống như chúng tao cơ!”. Tôi không hiểu thế nào là một ông bố đàng hoàng nên đành im lặng, chờ cho tan buổi học.

Lúc đi ngang qua lò rèn, tôi rẽ vào gặp bác Phi-líp, kể mọi chuyện cho bác nghe. Tôi thấy vẻ mặt bác trầm ngâm hẳn. Bác lẩm bẩm: “Thôi được! Thôi được! Cháu hãy về đi! Cháu sẽ có một ông bố thật sự!”

Mấy hôm sau, một điều bất ngờ ghê gớm đã xảy ra với tôi: bác Phi-líp đến tìm gặp mẹ tôi và ngỏ lời cầu hôn với mẹ. Khỏi phải hỏi cũng biết tôi vui mừng đến chừng nào! Thế là từ nay, đố đứa nào dám ức hiếp tôi nữa. Bố Phi-lip mạnh mẽ và tốt bụng sẽ là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời tôi. Mẹ tôi thì ngạc nhiên lắm, hết nhìn tôi lại nhìn bố Phi-líp. Cuối cùng thì điều gì đến cũng sẽ đến.

Bố Phi-líp đã dọn đến ở hẳn với hai mẹ con tôi. Mấy người thợ rèn khen hành động của bố là đúng, bố chỉ cười. Tôi thích được ngồi trên đôi vai rắn chắc của bố vào mỗi chiều đi dọc bờ sông – cái nơi mà tôi định từ bỏ cuộc đời này.

Kể lại chuyện Bố của Xi-mông – Mẫu 4

Tôi là Xi-mông – một đứa trẻ bất hạnh vì sinh ra đã không có bố. Mặc dù được lớn lên trong vòng tay yêu thương chăm sóc của người mẹ nhưng với tôi vẫn không thể nguôi ngoai. Thậm chí mỗi lần đến trường tôi đều vô cùng sợ sệt vì sự chòng ghẹo của đám bạn.

Tôi vẫn còn nhớ như in cái khoảng thời gian đen tối đó, có thể nói là đen tối nhất cuộc đời khi tôi chỉ khoảng bảy tuổi. Mỗi lần tan trường về tôi lắng nghe lũ trẻ kia xầm xì không ngừng chúng ranh mãnh theo dõi từng bước của tôi. Rồi chúng trêu ghẹo, vô cùng độc ác. Thế nhưng tôi vẫn phải cam chịu và chẳng bao giờ dám phản kháng lại. Có một lần tôi đã xông vào bọn chúng và tất nhiên mình tôi sao có thể chống lại chúng nó, lúc ấy tôi chỉ biết khóc mà thôi.

Nhưng cũng có khi vì quá tức giận mà tôi đã đánh nhau với thằng nhóc đó, không chỉ đấm đá mà tôi còn cắn nó. Và đáp lại tôi bị một trận đánh tơi bời. Một đứa nào đó hét to: “Về mách với bố mày đi”.

Tôi cảm thấy đau lòng lắm. Chúng nó đông hơn còn tôi thì chỉ có một mình và cũng một phần là chúng nói đúng tôi là một đứa trẻ không có bố. Tôi nghẹn ngào nhưng vì sĩ diện nên cắn răng nhịn khóc. Còn lũ trẻ ấy nó vui thích nắm tay nhau mà reo hò: “Đồ không có bố!”. Tôi bỏ học lang thang trên bờ sông vắng. nhìn những dòng nước chảy cuồn cuộn bỗng dưng tôi muốn chết. Tôi muốn dìm mình xuống sông vì không có cha. Tôi úp mình trên bãi cỏ và nghĩ về nhà, về mẹ và lại cảm thấy buồn bã. Bầu trời thật đẹp dòng nước trong như gương tôi tận hưởng những giây phút êm ả rồi buông mình trên tấm thảm cỏ. Một con nhái xanh từ đâu nhảy đến chân tôi và phải đến lần thứ tư tôi mới có thể bắt trọn được nó. Nhìn nó quẫy đạp trong tay tôi bỗng dưng nhớ đến món đồ chơi của mình. Tôi bật khóc nức nở. Bỗng có bàn tay ai đặt nặng trịch lên vai tôi, một giọng nói trầm trầm vang lên:

– Cháu ơi, có việc gì khiến cháu buồn đến thế?

Tôi quay lại thì thấy một người thợ với hàm râu đen và mới tóc rợn từng sợi đang chăm chú nhìn tôi, Tôi vừa nức nở vừa nói:

– Tụi nó đánh con vì con không có cha

Người thợ mỉm cười:

– Sao vậy? Ai mà không có bố?

Tôi đau thắt người mà trả lời:

– Nhưng con không có… bố.

Nghe câu đó người thợ bối rối và bảo tôi:

– Nín khóc đi con. Chú sẽ dắt con về với mẹ. Rồi con sẽ có một người bố.

Về đến trước căn nhà nhỏ xinh xắn. Tôi gọi to:

– Mẹ ơi!

– Thưa cô, tôi gặp cháu đi lạc ngoài bến sông… – Bác công nhân lịch sử nói với mẹ tôi.

Tôi chạy đến nhào lên ôm cổ mẹ, mếu máo và nói:

– Không phải mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông. Tại tụi nó đánh con… Tụi nó đánh con vì con không có cha.

Mặt mẹ tôi ửng đỏ, ôm vội con vào lòng mà nước mắt tuôn trên má. Chợt nhớ ra điều gì, tôi chạy đến bên người thợ nói:

– Chú làm bố con được không…?

Không ai nói một lời. Tôi liền tuyên bố:

– Nếu chú không chịu làm bố của con, con sẽ nhảy xuống sông.

– Được chứ sao không, nhóc con!

Tôi hỏi tiếp:

– Chú tên gì để có ai hỏi thì con nói?

– Phi-líp!

Tôi dành một giây để ghi nhớ vô lòng và quả quyết nói với chú:

– Bây giờ chú sẽ là bố của con!

Tôi hạnh phúc ôm ghì lấy cổ chú Phi-líp, dụi vào ngực vạm vỡ của cha.

Ngày hôm sau đi học, lũ bạn xúm vào trêu chọc tôi. Thay vì uất ức hay giận giữ tôi đáp:

– Bố tao tên là Phi-líp.

Lũ bạn lại nhao nhao:

– Phi-líp nào cơ?

Tôi không nói gì nữa. Tôi đưa con mắt thách thức nhìn chúng, sẵn sàng chịu hành hạ còn hơn là cúi đầu bỏ chạy.

Kể lại chuyện Bố của Xi-mông – Mẫu 5

Tôi tên là Xi-mông, một đứa trẻ không có bố. Dù được sống trong tình yêu thương của mẹ nhưng tôi vẫn cảm thấy tủi thân mỗi khi bị bạn bè trêu chọc. Hôm ấy, sau buổi học tôi lang thang ra bờ sông. Trời ấm áp và dễ chịu vô cùng. Tôi thèm cái cảm giác được nằm ngủ ở trên mặt cỏ dưới nắng ấm. Nhưng chẳng hiểu sao, tôi lại nghĩ đến nhà rồi nghĩ đến mẹ và thấy buồn vô cùng. Tôi run lên, quỳ xuống đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng tôi chẳng đọc được gì mà chỉ biết nức nở. Bỗng nhiên có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi, một giọng nói ồm ồm vang lên:

– Có điều gì khiến cháu buồn phiền vậy?

Tôi quay lại thì nhìn thấy một bác công nhân cao lớn đang đứng trước mặt mình. Râu tóc đen, quăn đang nhìn tôi với vẻ nhân hậu. Tôi nhìn bác bằng đôi mắt đẫm lệ, rồi trả lời:

– Chúng nó… đánh cháu… vì… cháu… không… có bố!

Bác mỉm cười và hỏi lại tôi:

– Sao thế? Ai mà chẳng có bố!

Tôi lại nói tiếp:

– Cháu… cháu không có bố!

Bác công nhân nghiêm mặt lại nhìn tôi, hình như bác nhận ra tôi là con của ai. Bác nói:

– Thôi nào, đừng buồn nữa. Về nhà mẹ với bác. Rồi cháu sẽ có một ông bố!

Tôi ngạc nhiên lắm. Nhưng vẫn đứng dậy đi cùng với bác. Bác nắm lấy tay tôi dắt đi trên con đường. Thỉnh thoảng, bác lại nhìn tôi mỉm cười. Chẳng mấy chốc mà về đến nhà. Tôi chỉ vào ngôi nhà trước mắt rồi nói với bác:

– Đây rồi!

Xong đó, tôi cất tiếng gọi to:

– Mẹ ơi!

Mẹ tôi xuất hiện. Bác công nhân nhìn mẹ tôi. Khi nhìn vào đôi mắt của bác, tôi cảm thấy có một cái gì đó rất nghiêm trang mà bản thân không thể hiểu. Bác bỏ mũ ra cầm ở tay, giọng bác ấp úng:

– Đây, thưa chị, tôi dắt về trả cho chị cháu bé bị lạc ở gần bờ sông.

Nghe vậy, tôi nhảy lên ôm lấy cổ mẹ rồi òa khóc và bảo:

– Không mẹ ơi, con đã muốn nhảy xuống sông cho chết rồi, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại con không có bố.

Mẹ tôi ôm lấy tôi và hôn lấy hôn để trong khi khuôn mặt đầy nước mắt. Chắc mẹ tôi đã đau lòng lắm khi nghe tôi nói vậy. Tôi nhảy xuống khỏi mẹ, chạy đến bên bác công nhân rồi hỏi:

– Bác có muốn làm bố cháu không ạ?

Im lặng như tờ. Tôi ngạc nhiên khi thấy mẹ tôi dựa vào tường, hai tay ôm ngực. Tôi hỏi lại:

– Nếu bác không muốn, cháu sẽ quay trở ra nhảy xuống sông chết đuối.

Bác công nhân cười với tôi rồi trả lời:

– Có chứ, bác muốn chứ.

– Thế bác tên là gì để cháu trả lời khi chúng nó muốn biết tên bác? – Tôi mỉm cười nhìn bác.

– Phi-líp!

Tôi im lặng đi một giây, cố ghi nhớ cái tên ấy. Không còn buồn nữa, tôi vươn hai cánh tay nói tiếp:

– Thế nhé! Bác Phi-líp sẽ trở thành bố cháu.

Bỗng nhiên, bác công nhân bế bổng tôi lên, đột ngột hôn vào hai má của tôi làm tôi cảm thấy buồn buồn. Rồi bác bước đi rất nhanh.

Ngày hôm sau, khi đến trường, tôi nghe thấy một tiếng cười ác ý vang lên. Tan học, khi lũ bạn lại muốn trêu chọc tôi liền quát thẳng vào mặt chúng:

– Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp!

Xung quanh tôi bật lên những tiếng la hét thích thú:

– Phi-líp gì? Phi-líp nào? Phi-líp là cái gì? Mày lấy đâu ra Phi-líp của mày thế?

Tôi không nói gì nữa. Tôi đưa con mắt thách thức nhìn chúng, sẵn sàng chịu hành hạ còn hơn là cúi đầu bỏ chạy. Mặc cho những tiếng giễu cợt xung quanh, tôi vẫn đứng đó. Chỉ đến khi thầy giáo đến, lũ bạn mới thôi hò hét, còn tôi thì được trở về nhà.

]]>
https://quatangtiny.com/hay-tuong-tuong-minh-la-xi-mong-ke-lai-cau-chuyen-bo-cua-xi-mong-39246/feed 0
Văn mẫu lớp 10: Tóm tắt truyện Tấm Cám (12 mẫu) https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-tom-tat-truyen-tam-cam-41398 https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-tom-tat-truyen-tam-cam-41398#respond Fri, 23 Oct 2020 03:21:29 +0000 https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-tom-tat-truyen-tam-cam-41398

Related posts:

  1. Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 4)
  2. Tả một cây cổ thụ (Dàn ý + 36 mẫu)
  3. Tuyển tập truyện ngắn cho trẻ em (23 truyện)
]]>
Văn mẫu lớp 10: Tóm tắt truyện Tấm Cám (12 mẫu), Tài Liệu Học Thi mời bạn đọc tham khảo Bài văn mẫu lớp 10: Tóm tắt truyện Tấm Cám. Hy vọng với tài liệu này, các em học

Mời quý thầy cô cùng các bạn học sinh cùng tham khảo Bài văn mẫu lớp 10: Tóm tắt truyện Tấm Cám để nắm được nội dung chính của truyện Tấm Cám

Tài liệu bao gồm 12 bài văn mẫu vô cùng hữu ích dành cho các em học sinh lớp 10 khi tìm hiểu về tác phẩm này, được chúng tôi đăng tải chi tiết dưới đây. 

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 1

Truyện kể về hai nhân vật chính là Tấm và Cám. Tấm hiền lành, tốt bụng, chăm chỉ nhưng bố mất sớm nên phải ở với dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ tên là Cám. Tấm luôn bị mẹ con Cám đối xử tàn nhẫn, bất công, phải làm hết mọi công việc trong nhà.

Một lần dì ghẻ sai Tấm và Cám đi bắt tép, ai được nhiều sẽ thưởng. Tấm chăm chỉ bắt nên được giỏ được đầy còn Cám rong chơi nên giỏ trống không. Thấy vậy, Cám lừa Tấm và trút hết giỏ tôm tép vào giỏ của mình.

Tấm ngồi khóc nức nở thì được bụt hiện lên giúp đỡ. Nhờ sự giúp đỡ của Bụt mà Tấm có người bạn để tâm sự là cá bống, có quần áo mặc đi chơi hội, được bầy chim sẻ giúp đỡ. Ít lâu sau, nhà vua mở hội, xem ai đi vừa chiếc giày tìm thấy ở khúc sông hôm hội làng sẽ được làm hoàng hậu, và Tấm đi vừa vì đó chính là đôi giày nàng đánh rơi.

Thấy vậy, mẹ con Cám ghen tị, nên nhân một lần Tấm về giỗ cha đã tìm cách hại chết Tấm. Sau lần ấy, Cám vào cung tiến vua thay Tấm. Tấm lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, và cuối cùng là trong quả thị để trở thành con gái của bà cụ.

Sau bao nhiêu khó khăn, cô Tấm được trở lại làm người và quay trở về sống hạnh phúc bên vua. Còn mẹ con Cám nhận trừng phạt thích đáng là cái chết.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 2

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mồ côi cha mẹ sớm, Tấm phải sống với dì ghẻ và cô em cùng cha khác mẹ tên là Cám. Tấm vất vả, khổ cực, làm việc luôn tay; còn Cám thì được cưng chiều, chỉ biết rong chơi.

Một hôm, Tấm và Cám cùng đi vớt tép và ai hớt được nhiều sẽ có yếm đỏ. Cám mải rong chơi, không có tép nên đã lừa trút hết giỏ tép đầy của Tấm. Tấm khóc. Bụt hiện lên bảo nhìn trong giỏ xem có gì không. Tấm tìm thấy một con cá bống. Tấm nuôi cá bống, mỗi ngày cho nó ăn cơm. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu ở xa để ở nhà giết thịt cá bống. Tấm về không thấy cá bống liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm hãy tìm xương cá bỏ vào bốn cái lọ đem chôn dưới chân giường.

Vua mở hội làng nhưng dì ghẻ không cho Tấm đi. Bà ta trộn gạo lẫn thóc, bắt Tấm phải ở nhà nhặt xong mới được đi xem. Tấm tủi thân ngồi khóc. Bụt hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp Tấm rồi bảo Tấm đào bốn cái lọ dưới chân giường lên để lấy quần áo đẹp đi xem hội và một con ngựa để cưỡi. Tấm đi qua cầu, chẳng may đánh rơi một chiếc giày xuống nước, mò mãi không được. Khi ngựa của vua đi qua cứ đứng lại, vua liền sai quân lính xuống mò thì vớt lên một chiếc giày xinh đẹp. Vua truyền lệnh ai ướm vừa sẽ cưới làm vợ. Mọi người thi nhau ướm thử, kể cả mẹ con Cám. Tới lượt Tấm, chiếc giày vừa như in cùng với chiếc giày trong túi Tấm. Tấm trở thành hoàng hậu.

Nhân ngày giỗ bố, Tấm xin phép vua về thăm nhà. Dì ghẻ lập mưu lừa Tấm trèo lên cây hái cau rồi đốn cây giết Tấm để Cám vào cung thay chị. Tấm chết hóa thành chim vàng anh ngày nào cũng ở bên vua. Mẹ con Cám liền giết vàng anh, bỏ lông ra góc vườn. Nơi ấy lại mọc lên hai cây xoan đào. Vua thích hai cây xoan đào, liền mắc võng nằm ngủ. Mẹ con Cám liền chặt hai cây xoan đóng thành khung cửi. Lúc Cám dệt vải, khung cửi kêu tiếng Tấm, Cám sợ hãi, đem đốt khung cửi rồi đổ tro đi thật xa. Nơi ấy lại mọc lên một cây thị xanh tốt nhưng chỉ có duy nhất một quả và ở tít trên cao. Bà cụ đi chợ trông thấy yêu mến quả thị liền bảo thị về ở với bà. Quả thị trên cao rơi vào túi bà. Bà đem quả thị về nhà. Tấm từ trong quả thị chui ra, nấu cơm, nấu nước, dọn dẹp giúp bà cụ. Bà cụ rình bắt được liền xé vỏ quả thị đi. Từ đó, Tấm sống với bà cụ như hai mẹ con.

Một hôm nhà vua kinh lí đi qua, thấy miếng trầu cánh phượng giống hệt Tấm têm ngày trước liền gọi hỏi. Vua nhận ra liền rước Tấm về cung. Cám thấy chị đẹp hơn xưa, sinh lòng ghen ghét. Tấm chỉ cho Cám cách làm da trắng. Cám làm theo và chết. Nghe tin Cám chết, mẹ Cám cũng chết theo.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 3

Tấm Cám là một trong nhiều truyện tiêu biểu cho loại truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam. Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Bố mẹ mất sớm, Tấm phải ở với dì ghẻ (mẹ Cám). Tấm vất vả, khổ cực, còn Cám thì được cưng chiều.

Một hôm, Tấm và Cám cùng đi vớt tép, Cám mải rong chơi nên chiều về giỏ không. Cám đã lừa trút hết tép trong giỏ của Tâm. Tấm khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm xem trong giỏ còn gì không. Tấm tìm thấy một con cá bống. Tấm thả cá Bống xuống giếng, mỗi ngày cho Bống ăn cơm. Mẹ con nhà Cám rình, biết được, đã lừa cho Tấm đi chăn trâu thật xa, ở nhà giết thịt cá bống. Bụt bảo Tấm tìm nhặt xương cá, bỏ vào bốn cái lọ, chôn ở bốn chân giường.

Đến ngày hội làng, mọi người nô nức đi xem hội. Mẹ con Cám trước khi đi còn trộn thóc lẫn gạo bắt Tấm nhặt. Tấm tủi thân ngồi khóc. Bụt hiện lên, sai đàn chim sẻ nhặt giúp Tấm. Rồi bảo Tấm đào bốn cái lọ xương bống dưới chân giường lên. Trong lọ có quần áo đẹp, khăn, nón, giày… và một con ngựa hồng rất đẹp. Tấm vui sướng, tắm rửa, thay đồ, cưỡi ngựa đi xem hội.

Khi ngựa qua cầu, chẳng may Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống sông. Tấm mò mãi mà không được. Lát sau, ngựa của nhà vua qua cầu cứ hí lên không chịu đi. Vua sai quân lính xuống sông mò, thì bắt được một chiếc giày xinh đẹp. Vua truyền lệnh: hễ ai ướm giày vừa chân thì vua sẽ lấy làm vợ.

Mọi người thi nhau ướm thử. Đến lượt Tấm, chiếc giày vừa vặn. Vua cho kiệu rước Tấm về cung. Ít lâu sau, nhân ngày giỗ bố, Tấm xin phép vua về thăm nhà. Dì ghẻ lập mưu lừa Tấm trèo cau rồi đốn gốc giết Tấm, để Cám vào cung thay chị.

Tấm chết, biến thành vàng anh. Vua rất yêu chim. Mẹ con Cám giết vàng anh, đổ lông ra góc vườn. Nơi ấy mọc ra hai cây xoan đào. Vua rất thích hai cây xoan đào, mắc võng ngủ, không để ý gì đến Cám. Mẹ con Cám chặt hai cây xoan làm khung cửi. Khung cửi kêu tiếng người khiến Cám sợ hãi chặt khung cửi, đốt, đem tro đổ ra thật xa.

Nơi xa ấy lại mọc ra cây thị tươi tốt. Nhưng cây thị chỉ có một quả thơm và ở trên cao. Một bà cụ đi chợ trông thấy, đọc câu: “Thị ơi, thị hỡi! Thị rụng bị bà. Thị thơm bà ngửi, chứ bà không ăn”. Quả thị liền rụng vào bị bà. Bà cụ đem về. Tâm ở trong quả thị chui ra, nâu cơm, nấu nước, dọn nhà dọn cửa cho bà. Bà cụ rình bắt được, xé nát vỏ quả thị đi. Từ đó Tấm sống với bà cụ như hai mẹ con.

Một lần, nhà vua kinh lí đi qua ghé vào quán nước, nhận được Tấm. Vua đón nàng về cung. Cám thấy chị đẹp hơn xưa đem lòng ganh ghét. Cám liền hỏi chị cách để xinh đẹp hơn rồi làm theo và chết. Mụ dì ghẻ cũng uất lên mà chết theo con.

Truyện “Tấm Cám” phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, nói lên số phận của những con người mồ côi, bất hạnh và thể hiện khát vọng chiến thắng cái ác giành và giữ hạnh phúc.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 4

Ngày xửa ngày xưa, có một cô Tấm xinh đẹp, dịu dàng, chịu thương chịu khó nhưng không may mắn sống trong sự ghẻ lạnh, cay độc của bà dì ghẻ sau khi bố mất sớm. Tấm phải một mình làm lụng vất vả quần quật suốt cả ngày không một phút nghỉ ngơi, trong khi cô Cám – là con của bà mẹ kế lại vô cùng lười biếng, ỷ lại, không đụng tay vào bất cứ công việc gì. Một hôm, Tấm và Cám ra đồng bắt tép. Cám do mải chơi nên chẳng bắt được một con nào, chính vì thế, Cám âm mưu cướp hết tất cả số tép bắt được của tấm, chỉ còn lại một con cá bống.

Tấm tủi thân quá ngồi khóc nức nở. Ông Bụt thương tình cho tấm lòng của cô Tấm, hiện lên và mách nàng mang con cá bống về nuôi. Con cá bống từ ngày ấy trở thành người bạn thân thiết tri kỷ của Tấm và được cô chia sẻ từng phần cơm ít ỏi mỗi ngày. Mẹ con Cám thấy vậy đem lòng đố kỵ lừa Tấm đi chăn trâu thật xa và giết chết con cá bống. Tấm về không thấy con cá bống đâu, đau lòng và khóc nức nở. Bụt lại hiện lên và chỉ nàng tìm nhặt xương cá, bỏ vào bốn cái lọ và đem chôn ở bốn chân giường. Nhờ có sự cứu giúp của Bụt, cô Tấm đã có xiêm y đẹp lộng lẫy để đi dự tiệc ở hoàng cung và sau này có dịp nên duyên chồng vợ với nhà vua, trở thành hoàng hậu. Mẹ con Cám thấy vậy lòng ganh ghét đố kỵ càng dâng cao. Trong lòng luôn nung nấu ý định trả thù và giành giật vị trí hoàng hậu đài các sang trọng của Tấm. Và đỉnh điểm là trong một lần Tấm về quê giỗ cha, hai mẹ con dụ Tấm trèo lên cây cau và chặt đứt cây, Tấm chết. Sau đó, Cám vào cung tiến vua thay Tấm, còn cô Tấm lần lượt biến thành con chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi và cuối cùng là trong quả thị để trở thành con gái của bà cụ hàng nước. Trong một lần nhà vua tình cờ ngao du đi sang đây, tình cờ thấy miếng trầu được têm khéo léo, tỉ mỉ, công phu, chàng đã ngay lập tức nhận ra vợ của mình, và cả hai cùng nhau đoàn tụ trong hạnh phúc

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 5

Tấm là chị em cùng cha khác mẹ với Cám. Sau khi cha và mẹ qua đời, Tấm sống với mẹ con dì ghẻ dưới sự đay nghiệt, ức hiếp, phân biệt đối xử. Vào một hôm dì bảo Tấm và Cám ra đồng bắt cá, ai bắt được nhiều hơn sẽ được phần thưởng là một cái yếm đỏ.

Chiếc yếm đỏ là niềm khao khát của tất cả những cô gái mới lớn lúc bấy giờ. Nó tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, tinh khôi, tràn đầy sức sống của thiếu nữ nông thôn thuần khiết. Tấm đã quen với việc mò cua bắt ốc nên chẳng mấy chốc sau khi xuống bùn, chiếc giỏ của nàng đã đầy ắp biết bao nhiêu là tôm cá. Còn Cám thì đủng đỉnh dạo từ ruộng nọ đến ruộng kia, đến chiều mà trong giỏ vẫn chẳng thấy gì. Chính vì thế, Cám âm mưu lừa Tấm và ăn cắp hết số cá của Tấm. Tấm tủi thân bật khóc nức nở, ông Bụt hiện lên bảo nàng đem con cá bống còn sót lại về nuôi. Thế là từ hôm ấy, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm của mình đem ra sau giếng cho con cá bống. Người và cá ngày một thân thiết trở thành tri kỉ của nhau. Hai mẹ con Cám thấy Tấm lạ bèn sinh nghi, rình được con cá bống và âm mưu giết làm thịt. Khi nhìn thấy cục máu đỏ hỏn nổi giữ lòng giếng, Tấm vừa ấm ức vừa tủi thân, và ngồi khóc. Ông bụt hiện lên bảo đem xương cá bỏ vào lọ rồi chôn dưới góc giường. Những mảnh xương ấy biến thành bộ xiêm y lộng lẫy cùng chiếc xe ngựa đẹp kì diệu đưa nàng Tấm đến tham dự lễ hội. Chiếc giày nàng đánh rơi trên đường về được vua nhặt được và nhà vua tuyên bố chủ nhân của đôi giày ấy sẽ là hoàng hậu. Sau rất nhiều cuộc thử giày nhưng chẳng có ai ướm vừa chân cả. Đến lượt Tấm, chiếc giày vừa như in và Tấm được vua rước vào cung làm vợ.

Ngày giỗ cha, Tấm về nhà soạn cỗ cúng. Mẹ con Cám lừa Tấm trèo lên cây cau rồi đốn ngã cây làm Tấm chết, Cám vào cung tiến vua thay Tấm. Tấm chết hóa thành con chim vàng anh suốt ngày quanh quẩn bên vua, Cám liền bắt làm thịt ăn. Lông chim vàng anh biến thành cây xoan đào, Cám đốn cây và lấy gỗ làm khung cửi. Cám lại đốt khung cửi rồi ném tro đi thật xa. Từ đống tro ấy mọc lên một cây thị, trên cây có một quả rất to. Một bà lão già đem quả thị ấy về nhà nâng niu trân quý. Và sau này, Tấm bước ra từ trong quả thị, trở thành con gái của bà lão. Một hôm nhà vua tình cờ vào quán nước, nhìn thấy miếng trầu do Tấm têm mà nhận ra vợ. Tấm theo vua trở về cung sống một cuộc sống hạnh phúc viên mãn sau khi trừng phạt thích đáng hai mẹ con Cám.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 6

Tấm là một cô gái hiền lành, xinh đẹp, mồ côi mẹ, sống với dì ghẻ và một cô em cùng bố khác mẹ tên là cám. Tấm bị mẹ con cám ghen ghét, ngược đãi. Mỗi lần tấm bị ngược đãi, bụt lại hiện lên an ủi và giúp đỡ. Trong một ngày hội, nhà vua gặp tấm và lấy làm vợ. Mẹ con cám giết tấm để đưa cám vào làm vợ vua. Tấm nhiều lần hóa thân: Thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành khung cửi, thành cây thị, nhưng đều bị mẹ con cám tìm cách hãm hại. Cuối cùng, tấm gặp lại vua và hai người sống hạnh phúc bên nhau. Còn mẹ con cám bị trừng phạt thích đáng.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 7

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tấm phải ở cùng dì ghẻ. Hằng ngày, Tấm phải làm việc vất vả từ sáng đến tối nhưng không lúc nào được nghỉ ngơi.

Một hôm, dì ghẻ sai hai chị em đi bắt tép và hứa rằng ai bắt được nhiều hơn sẽ được thưởng một cái yếm đào. Tấm chăm chỉ làm việc còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường.

Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, nghĩa ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào chỉ ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Không ai đi vừa chiếc hài kể cả Cám. Tới lượt Tấm thử thì chiếc hài vừa như in. Tấm được vua đưa vào cung làm hoàng hậu.

Đến ngày giỗ cha, nàng xin về nhà. Dì ghẻ lập mưu giết tâm và đưa Cám vào thay. Lại nói Tấm sau khi chết hóa thành chim vàng anh bay đến cung vua. Vua ngày ngày say mê vàng anh khiến Cám ghen tức. Nhân cơ hội, Cám giết chết vàng anh và vứt lông ra sau vườn. Từ chỗ lông ấy mọc lên một cây xoan đào. Vua đi qua thấy cây xoan đào toả bóng mát liền sai lính mắc võng ở đây. Cám thấy vậy liền chặt cây xoan đào làm khung cửi để dệt áo cho vua. Lúc Cám dệt vải, nghe thấy tiếng kêu của khung cửu giống tiếng Tấm, hoảng sợ liền đốt khung cửi và đem tro đổ ra ngoài cung. Từ chỗ đó mọc lên một cây thị, lớn lên, cả cây chỉ có một quả duy nhất. Có bà lão đi qua thấy quả thị liền bào: “Thị ơi thị rụng bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn”. Kỳ lạ thay, quả thị rụng ngay xuống bị bà. Từ ngày có quả thị trong nhà, bà lão thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất lạ thường. Bà quyết tâm tìm ra nguyên nhân và phát hiện ra nàng Tấm. Bà xé nát vỏ thị. Từ đó, Tấm ở với bà lão, hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống.

Một hôm nhà vua đi qua hàng nước của bà cụ, thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của nàng Tấm liền hỏi bà lão. Khi Tấm xuất hiện, nhà vua nhận ra và đưa nàng về cung.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 8

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Còn Cám đã xấu xa lại lười biếng. Mọi công việc trong nhà đều do Tấm làm hết. Mỗi khi gặp phải khó khăn, Tấm nhận được sự giúp đỡ của Bụt. Sau này, Tấm trở thành hoàng hậu. Nhưng mẹ con Cám vẫn tìm cách hãm hại nàng. Mượn ngày giỗ cha, dì ghẻ gọi Tấm về rồi tìm cách giết chết. Sau khi chết, Tấm lần lượt hóa thân thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị. Để rồi cuối cùng trở lại làm người và được đoàn tụ với nhà vua. Còn mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 9

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Vốn mồ côi cha mẹ từ sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.

Mỗi lần gặp khó khăn, Bụt đều hiện lên giúp đỡ. Bụt giúp Tấm có được cá bống để khi trở về không bị dì ghẻ mắng. Bụt gọi lũ chim sẽ đến nhặt thóc và cho Tấm quần áo đẹp đi dự hội. Sau này, Tấm thử vừa chiếc hài và trở thành hoàng hậu. Nhưng mẹ con Cám vẫn tìm cách hãm hại nàng. Mượn ngày giỗ cha, dì ghẻ gọi Tấm về sai trèo lên cây hái cau xuống cùng cha còn mình thì ở dưới chặt cây. Tấm ngã xuống ao và chết. Dì ghẻ đưa Cám vào cung thay cho Tấm. Sau khi chết, Tấm lần lượt hóa thân thành chim vàng anh. Nhưng đều bị Cám hãm hại nên lần lượt hóa thân thành cây xoan đào, khung cửi, quả thị. Đến cuối cùng vì “ở hiền gặp lành”, Tấm được trở lại làm người và đoàn tụ với nhà vua. Còn mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 10

Truyện “Tấm Cám” kể về nhân vật chính là Tấm, một cô gái hiền lành, xinh đẹp. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải ở với dì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám.

Một hôm, dì ghẻ cho mỗi chị em một chiếc giỏ, sai đi bắt tép và hứa ai bắt nhiều hơn sẽ được thưởng một chiếc yếm đào. Tấm chăm chỉ, chẳng mấy chốc mà gió đã đầy tôm tép. Cám cả buổi chỉ mải rong chơi nên chẳng bắt được con nào. Đến chiều, Cám lừa Tấm lội xuống ao tắm gội, rồi trút hết tôm tép sang giỏ của mình và đem về nhận chiếc yếm đào.

Khi Tấm lên bờ thì chỉ còn chiếc giỏ không. Tấm khóc, Bụt hiện lên bảo Tấm nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Tấm nhìn vào thì thấy có con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt cá lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền khóc lóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường.

Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Mụ dì ghẻ tìm cách không cho Tấm dự hội. Mụ ta lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi hội. Tấm không biết làm thế nào chỉ ngồi khóc. Bụt hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp và bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh aai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Mọi người đều đến thử nhưng không ai vừa. Tới lượt Tấm thì chiếc hài vừa như in. Tấm được vua đưa vào cung làm hoàng hậu.

Đến ngày giỗ cha, nàng xin về nhà. Dì ghẻ lập mưu giết tâm và đưa Cám vào thay. Lại nói Tấm sau khi chết hóa thành chim vàng anh bay đến cung vua. Vua ngày ngày say mê vàng anh khiến cám ghen tức. Nhân cơ hội, Cám giết chết vàng anh và vứt lông ra sau vườn. Từ chỗ lông ấy mọc lên một cây xoan đào.Vua đi qua thấy cây xoan đào toả bóng mát liền sai lính mắc võng ở đây. Cám thấy vậy liền chặt cây xoan đào làm khung cửi để dệt áo cho vua. Lúc Cám dệt vải, nghe thấy tiếng kêu của khung cửu giống tiếng Tấm, hoảng sợ liền đốt khung cửi đem tro đổ ra ngoài cung. Từ chỗ đó mọc lên một cây thị, lớn lên, cả cây chỉ có một quả duy nhất. Có bà lão đi qua thấy quả thị liền bào: “Thị ơi thị rụng bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn”. Từ ngày có quả thị trong nhà, bà lão thấy nhà cửa sạch sẽ, tươm tất lạ thường. Bà quyết tâm tìm ra nguyên nhân và phát hiện ra Tấm. Bà xé nát vỏ thì và bảo Tấm ở hẳn với bà.

Một hôm, nhà vua đi ngang qua, thấy hàng nước liền ghé vào nghỉ ngơi. Vua nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng liền ngạc nhiên hỏi bà lão: “Trầu này ai têm?”. Bà lão nói rằng trầu do con gái mình têm và gọi Tấm ra. Vua nhận ra vợ mình thì vô cùng hạnh phúc liền rước Tấm vào cung. Cám thấy chị trở về xinh đẹp hơn xưa liền tò mò hỏi chị. Tấm chỉ cho Cám cách tắm nước sôi để tránh hơn. Cám làm theo và chết bỏng. Dì ghẻ nghe tin cũng uất ức mà chết theo.

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 11

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm vốn hiền lành, xinh đẹp lại chăm chỉ. Cha mẹ mất sớm, Tấm phải sống cùng dì ghẻ và Cám. Mọi công việc trong nhà đều đến tay nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi, tìm cách hãm hại.

Một hôm nọ, dì ghẻ đưa cho hai chị em một cái giỏ và bảo rằng: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ!”. Tấm làm việc chăm chỉ để lấy được chiếc yếm. Còn Cám chỉ mải chơi nên đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Cám bèn lừa nói với Tấm rằng: “Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng”. Tấm nghe lời Cám, đến khi lên bờ, nhìn vào rổ thì không còn thấy tôm tép đâu. Tấm chỉ biết ngồi khóc. Bỗng nhiên, Bụt hiện lên bảo Tấm rằng hãy nhìn vào trong gió xem có thấy gì không. Thì ra, trong giỏ vẫn còn một con cá bống. Tấm đem cá bống về nuôi, ngày ngày cho ăn. Mẹ con Cám biết được liền lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa để bắt lên giết thịt. Tấm trở về không thấy cá bống đâu, liền bật khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm lấy xương cá bống bỏ vào bốn chiếc lọ, chôn vào bốn chân giường. Ít lâu sau, vua mở hội, mẹ con Cám sắm sắm sửa quần áo đẹp để đi chơi hội. Dì ghẻ không cho Tấm đi, mụ nghĩ ra cách lấy thóc và gạo trộn lẫn với nhau, bắt Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo rồi mới được đi. Tấm không biết làm thế nào lại ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai chim sẻ nhặt thóc giúp. Chim sẻ nhặt một thoáng đã xong. Sau đó, Bụt liền bảo Tấm đào bốn chiếc lọ ở bốn chân giường lên. Bốn chiếc lọ biến thành quần áo đẹp giúp Tấm đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài xuống nước. Khi ngựa của vua đi ngang qua cứ đứng lại không chịu đi tiếp. Vua sai người xuống nước thì thấy chiếc hài. Vua truyền lệnh cho toàn dân ai đi vừa hài sẽ được làm vợ vua. Tấm đi vừa đôi hài và trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày kế giết chết. Tấm chết đi lần lượt hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị, cuối cùng trở lại làm người sống cùng bà hàng nước. Một hôm, vua tình cờ đi quá liền ghé vào hàng nước. Nhìn thấy miếng trầu têm cánh phượng liền dò hỏi bà. Cuối cùng, vua và Tấm đã được đoàn tụ. 

Tóm tắt truyện Tấm Cám – Mẫu 12

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm mồ côi cha mẹ từ sớm, nên phải ở cùng dì ghẻ. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng vất vả nhưng vẫn bị mẹ con Cám ngược đãi. Mỗi lần như vậy, Bụt đều hiện lên giúp đỡ.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội, dì ghẻ trộn lẫn thóc với gạo, bắt Tấm ở nhà nhặt xong mới được đi. Tấm không biết làm thế nào liền ngồi khóc. Bụt hiện lên giúp Tấm – nhờ đàn chim sẻ nhặt thóc, có quần áo đẹp đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc hài. Nhà vua nhặt được, đem lòng yêu mến người mang hài, truyền cho ai đi vừa sẽ lấy làm vợ. Duy chỉ có Tấm đi vừa nên trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ cha, Tấm về nhà thì bị mẹ con Cám bày mưu giết chết. Tấm hóa thành chim vàng anh bay vào cung vua. Nhưng cũng bị Cám giết chết, từ chỗ lông chim mọc lên một cây xoan đào. Vua thấy cây tỏa bóng mát thì sai người mắc võng, hằng ngày đều nằm nghỉ dưới gốc cây. Cám thấy vậy liền chặt cây làm thành khung cửi dệt vải. Khi Cám đang dệt thì khung cửi kêu lên: “Cót ca cót két/Lấy tranh chồng chị/Chị khoét mắt cho”. Cám sợ hãi đốt khung cửi. Từ chỗ tro đó mọc lên một cây thị chỉ có duy nhất một quả. Có bà lão hàng nước đi quả thấy quả thị liền bảo: “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn”. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau. Khi trở về hoàng cung, Cám thấy chị xinh đẹp hơn xưa liền hỏi chị cách để xinh đẹp. Cám làm theo lời Tấm thì chết bỏng. Tấm sai người đem xác Cám đi làm mắm rồi đem cho dì ghẻ. Dì ghẻ biết mắm được làm từ xác của con mình thì lăn đùng ra chết.

]]>
https://quatangtiny.com/bai-van-mau-lop-10-tom-tat-truyen-tam-cam-41398/feed 0