Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa (3 mẫu), Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa là tài liệu vô cùng hữu ích mà
Hôm nay, chúng tôi sẽ giới thiệu đến cho tất cả quý thầy cô và các bạn học sinh một số bài văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa.
Đây là tài liệu vô cùng hữu ích giúp cho tất cả các bạn có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 12 của mình và chuẩn bị bước vào kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa.
Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 1
Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động, tình huống tâm trạng và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật. Ở Chiếc thuyền ngoài xa, kết thúc sự kiện người đàn bà được mời đến tòa án huyện để giải quyết bi kịch gia đình lại là “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Như vậy, các chi tiết chính của câu chuyện đều được định hướng “chuẩn bị” cho sự nhận thức mới mẻ của Đẩu. Đó là các chi tiết:
Người đàn ông đánh vợ cần tìm hiểu chi tiết này từ phương diện tâm lí, tính cách nhân vật. Vì sao khi mới ra thuyền, người đàn ông “lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới” của người đàn bà những chỉ khi hai người đã đi khuất vào sau chiếc xe rà phá mìn “to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng” thì lão “lập tức trở nên hùng hổ”? Vì sao trong khi “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà” giọng lão lại “rên rỉ đau đớn”? Vì sao chuyện lão đánh vợ diễn ra thường xuyên và việc lão đánh vợ ở bãi xe tăng hỏng có phải là ngẫu nhiên không?
Thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà: “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đây là một thái độ lạ lùng. Phải chăng bà ta bị đòn nhiều đến mức quen rồi, không còn biết đau nữa? Hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã được suy tính kỹ lưỡng, sáng suốt? Trong hoàn cảnh con đông mà cuộc sống trên mặt nước đầy nhọc nhằn, bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào buông tha, liệu bà ta có cách lựa chọn một gợi ý rằng cuộc chiến đấu chống đói nghèo, tăm tối còn gian nan hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo, chừng đó con người còn phải chung sống với cái xấu, cái ác?
Phản ứng của cậu bé Phác: “Sự giận dữ căng thẳng”, “nhảy xổ” vào người bố, “giành được chiếc thắt lưng, liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” người bố. Đây là sự phản ứng tự nhiên của một tâm hồn trẻ thơ yêu mẹ hay là sự căm phẫn mù quáng? Cậu bé hành động như thế là đúng hay sai?
Người bố đánh Phác rồi bỏ đi, người mẹ “dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Bà gọi tên con “ôm chầm lấy nó”, rồi lại buông ra “chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Có phải bà mẹ đau đớn vì rốt cuộc đã không sao tránh được cho con cái khỏi bị thương tổn vì cảnh bạo lực trong gia đình (Phác đã chứng kiến cảnh bà bị đòn)? Bà xấu hổ, nhục nhã vì phải giấu giếm con cái tình trạng khốn khổ của mình, vì mình bất lực hay xấu hổ, nhục nhã vì không dạy được con? Tại sao lúc chịu đòn đau đến mấy bà cũng không kêu xin, khóc lóc mà bây giờ khi không bị đòn bà lại khóc? Bà “vái lấy vái để” đứa con là để “tạ tội” với nó hay cầu xin nó đừng căm thù bố, đừng trở nên độc ác như bố nó?
Đẩu mời người đàn bà đến công sở để trao đổi chuyện gia đình bà. Anh khuyên bà nên bỏ chồng nhưng bà kiên quyết chối từ. Qua chi tiết này có thể thấy rõ Đẩu là người tốt bụng, đầy thiện chí nhưng lại nông nổi. Anh hiểu luật pháp nhưng không thực sự hiểu đời sống nên cho rằng giải phóng cho người phụ nữ kia khỏi sự trói buộc với người chồng vũ phu là giải pháp đúng đắn. So với anh, rõ ràng người đàn bà làng chài lạc hậu, thất học nhưng bù lại, bà hiểu đời sống, hiểu con người. Bà nói với Đẩu “Lòng các chú tốt, nhưng các chú (…) đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Bà hiểu nỗi bế tắc, khốn khổ của người chồng và hơn cả, bà hiểu thiên thức làm mẹ. Phải chăng vì cái thiên chức đó, vì những niềm vui nhỏ bé bình dị “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”, “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” mà bà chấp nhận tình trạng bị hành hạ?
Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 2
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc tới Nguyễn Minh Châu là nhắc tới thể loại truyện ngắn, nhắc tới những vấn đề thế sự đời sống thời hậu chiến. Cũng từ chính những đề tài này, nhà văn đã nhào nặn và tạo nên những “đứa con tinh thần” mang trong mình những bài học và thông điệp đầy ý nghĩa. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn mang đậm tính tự sự – triết lý của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo – tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống thông qua chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của anh ta về nghệ thuật và cuộc đời.
Đối với truyện ngắn thì việc xây dựng một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn giữ một vai trò vô cùng quan trọng, tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt, tại tình huống đó cuộc sống, nhân vật được hiện hình đậm đặc nhất và ý đồ của tác giả cũng được bộc lộ rõ nét nhất. Tình huống truyện được chia thành nhiều loại, trong đó Chiếc thuyền ngoài xa được xếp vào kiểu tình huống truyện nhận thức.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” xoay quanh chuyến đi thực tế của nhân vật Phùng tới vùng biển miền Trung, trong chuyến đi ấy nhân vật đã được tác giả đặt vào tình huống với những phát hiện, nhận thức mới mẻ.
Ở phát hiện thứ nhất, chính là vẻ đẹp được coi như tuyệt bích của thiên nhiên vùng biển vào buổi sáng, một vẻ đẹp được cho là “Một cảnh đắt trời cho” Dường như tất cả khung cảnh ấy khiến cho người nghệ sĩ bàng hoàng, chìm đắm và ngây ngất, tất cả như phối hợp với nhau tạo nên một sự hoàn hảo chưa từng thấy trong đời cầm máy của anh. “Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào” Phải chăng kia không còn là thế giới trần ai mà chính là thế giới của tiên cảnh, vẻ đẹp của tiên cảnh? Cả sự vật và màu sắc đều như hài hòa với nhau, cộng hưởng và ánh lên vẻ đẹp rạng ngời đầy huyền ảo và bí ẩn, mơ hồ. Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ phải thốt lên “đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì co thắt vào” vẻ đẹp như tác động tới sâu thẳm bên trong tâm hồn của con người, khiến họ tưởng rằng mình vừa tìm thấy một cái gì đó của sự toàn thiện và toàn mỹ. Và đối với một người nghệ sĩ như Phùng, đứng trước cảnh đẹp đó, Phùng vô cùng xúc động và hạnh phúc. Anh đã liên tục bấm máy ghi lại khoảnh khắc đắt giá mà chắc chắn anh không thể bắt gặp lần thứ hai.
Tưởng rằng bức tranh kia là tất cả những gì mà cuộc sống chúng ta thấy được! Nhưng, Không! Cuộc sống hình như còn có rất nhiều những màu sắc và mức độ khác, nó đa dạng và phức tạp hơn nhiều cái vẻ đẹp toàn bích kia. Với phát hiện thứ hai này, người đọc sẽ đi sâu và khám phá đầy đủ hơn những góc khuất và ngõ tối của cuộc sống. Khi con thuyền từ từ tiến vào bờ, cũng chính là lúc Phùng phát hiện ra một nghịch cảnh xót xa và đau đớn trái ngược hoàn toàn với phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ này. Bước xuống từ con thuyền kia là hình ảnh những con người xấu xí và thô kệch. Từ ngoại hình cho đến tính cách đều toát lên vẻ lam lũ nghèo khổ. Một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi, thân hình to lớn và thô kệch” đúng như vẻ ngoài của những người đàn bà miền biển, mặt mụn rỗ và khuôn mặt thì đầy mệt mỏi. Đi sau bà ấy là một người đàn ông, người đàn ông đi chân chữ bát, tấm lưng cong như lưng của chiếc thuyền. Và không lâu sau, một sự việc xảy ra khiến nhân vật “tôi” há hốc mồm trong một lúc lâu mà không kịp hiểu là chuyện gì. Người đàn ông rút ra chiếc thắt lưng của lính ngụy quất tới tấp vào lưng của người đàn bà, người đàn bà thì chẳng hề kêu van, chẳng khóc và cũng chẳng tìm cách chạy trốn. Người đàn ông vừa đánh vừa chửi rủa “mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”, hình như bao nhiêu tức tối, bao nhiêu bực dọc đều được người đàn ông cất giữ vào trong tiếng gằn, chửi kia, biết bao những cái mà ông ta phải chịu đựng thì giờ đây ông dồn nén mà phát ra thành tiếng chửi đau đớn ấy. Đáng ngạc nhiên hơn là hình ảnh trẻ thơ, thằng Phác đứa con của cặp vợ chồng hàng chài cũng lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ. Những cảnh này xưa nay vốn trái lại với luân thường đạo lý. Nhưng hôm nay đây, Phùng được chứng kiến tận mắt những hình ảnh chân thực nhất. Sau những phát hiện đầy bất ngờ như vậy, dường như trong nhận thức của nhân vật Phùng đã có sự thay đổi. Sự đối lập giữa phát hiện thứ nhất và thứ hai này đã tạo ra những thay đổi ban đầu đối với nhân vật, tuy vẫn còn những bất ngờ chưa thể hiểu được, nhưng dường như người nghệ sĩ đã bắt đầu đã mở ra nhiều hơn là một cách tiếp cận với cuộc sống.
Và cuối cùng, phát hiện được quan trọng nhất tạo ra sự thay đổi nhận thức của người nghệ sĩ chính là cuộc đối thoại của Phùng và Đẩu với người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện. Tại đây, Phùng tiếp tục thay đổi những nhận thức của bản thân mình và Đẩu cũng rút ra được nhưng bài học quý báu. Ban đầu, Phùng và Đẩu nhất quyết khuyên người đàn bà bỏ chồng “Chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Thế nhưng, có phải cứ bỏ chồng là được? Chứng kiến sự thay đổi trong hành động và ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài chúng ta mới thấu hiểu được nhiều nhẽ. Đầu tiên, người ta thấy một người đàn bà sợ sệt, khúm núm, đến tòa án bà ta chỉ dám ngồi ở mép ghế, lúc nào cũng khép nép, thu mình lại trên chiếc ghế. Mỗi câu nói ra là một câu van xin, nài nỉ, lạy lục,….Tất cả những cử chỉ ấy khiến cho người đọc lầm tưởng rằng, người đàn bà ấy đúng là một người ít học, ít hiểu nông cạn và cũng chính từ sự thiếu hiểu biết ấy mà người đàn bà đang phải chịu biết bao những cực khổ từ cuộc sống của mình. Tuy nhiên, ngay sau đó người đàn bà đã thay đổi hoàn toàn thái độ và cách xưng hô của mình với hai vị quan tòa, những người được coi là cầm cân nảy mực, là cán cân công lý đem lại sự công bằng, niềm vui và hạnh phúc cho con người. Từ một người không hiểu biết, người đàn bà đã có những lời tâm sự thể hiện sự sâu sắc, từng trải. Từ cách xưng hô “con- quý tòa” chuyển thành “chị – các chú” thứ bậc dường như đảo lộn hoàn toàn, không còn sự sợ sệt van xin mà đó là một sự ngang hàng, bình đẳng. Người đàn bà như nhìn thấu hết tất cả cuộc đời mình, bà ta kể ra những lý do mà bà không thể bỏ người chồng vũ phu kia được. Bởi rằng, trên thuyền của một người miền biển cần có một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba bão táp, lúc biển động. Người đàn ông để cùng với người đàn bà làm lụng nuôi “đặng một sắp con” chứ có ít ỏi gì đâu. Người đàn bà ấy cũng tự nhận lỗi về phía mình, nhận thấy việc sinh con nhiều đã khiến cho cuộc sống của hai vợ chồng khổ sở và luôn có những trận cãi vã, đánh đập, bà hiểu cho chồng rằng, cũng chính vì cái đói nghèo, khổ cực mà người đàn ông hiền lành ngày nào đã trở thành một người đàn ông vũ phu như bây giờ. Và rồi, người phụ nữ ấy kể với hai vị quan tòa những khoảnh khắc hạnh phúc của mình, niềm vui của người đàn bà thô kệch ấy chính là khi được nhìn đàn con bà ăn no, nhìn chúng nằm trên thuyền no bụng, cũng chính khi bà kể về kỉ niệm ấy, trên miệng người đàn bà đã nở một nụ cười. Có phải không khi người ta cho rằng niềm hạnh phúc của người đàn bà thật giản dị? Cả Phùng và Đẩu khi nghe được câu chuyện của người đàn bà hàng chài thì đều “vỡ” ra một cái gì đó trong đầu óc của mình.
Thông qua những phát hiện ấy, người nghệ sĩ đã thấu hiểu nhiều điều, trong đó có bài học về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật không phải là những gì đẹp đẽ mà xa xôi, nghệ thuật phải đi sâu vào cuộc sống phản ánh cuộc sống và vì cuộc sống của con người. Mỗi chúng ta cần nhìn cuộc sống đa diện đa chiều, chứ đừng nhìn đơn giản xuôi chiều, có được cách nhìn ấy mới làm cho người ta hiểu và thấu cảm nhiều lẽ sống và hoàn cảnh sống trong cuộc đời. Chính nhờ những phát hiện ấy mà sau này, cứ mỗi lần nhìn vào bức ảnh treo trên tấm lịch nghệ sĩ Phùng của chúng ta không chỉ nhìn thấy những làn sương sớm hồng lòe nhòe mà còn thấy cả bóng dáng thô kệch của người đàn bà từ đó bước ra.
Thông qua tình huống truyện nhận thức, Nguyễn Minh Châu đã giúp chúng ta nhận ra nhiều bài học thông điệp có ý nghĩa sâu sắc. Không thể đơn giản, khi nhìn nhận về một vấn đề, đánh giá một hiện tượng. Người nghệ sĩ không thể đứng từ xa nhìn ngắm cuộc đời mà cần có những khám phá đi sâu, kéo sắt nghệ thuật gần với cuộc sống. Tình huống truyện đã góp phần tô đậm giá trị của tác phẩm.
Phân tích nhân vật Đẩu trong Chiếc thuyền ngoài xa – Mẫu 3
Nguyễn Minh Châu từng nói: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Đọc truyện ngắn của ông, ta thấy nhà văn đã thực hiện thiên chức cao cả ấy một cách rất khéo léo và thành công. Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật Đẩu có sự thay đổi suy nghĩ theo mạch truyện, một sự thay đổi đem lại cho người đọc nhiều chiêm nghiệm, nghĩ suy.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, quê ở làng chài ven biển vùng Quỳnh Lưu, Nghệ An. Nghĩ về ông, có người chia sẻ rằng nhà văn đã “tưới đến cạn kiệt cả máu và mồ hôi của mình cho mảnh đất quê hương” này. Dẫu đến với văn chương khá muộn nhưng nhà văn lại từng bước khẳng định vị thế quan trọng của mình trong dòng chảy văn học hiện đại nước nhà, đem đến những tác phẩm văn xuôi giàu triết lý, suy tư. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn viết năm 1983, thời điểm đất nước vừa bước ra khỏi khói lửa đạn bom, con người phải đối diện với vô vàn những phức tạp của cuộc sống đời thường. Bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chân dung, nhận thức nhân vật Đẩu được nhà văn tái hiện vô cùng chân thực và ấn tượng từ đó khám phá ra sự thay đổi mạnh mẽ trong suy nghĩ của nhân vật này.
Nhân vật Đẩu là một nhân vật phụ trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” song những câu chuyện, những triết lý sâu xa cũng được nhà văn khéo léo gửi tới người đọc qua lời nói, hành động nhân vật. Đẩu là người bạn đồng hương và cũng là người đồng chí từng tham gia chiến đấu với Phùng, mang trong mình lý tưởng sống cao đẹp và khát vọng chiến đấu vì tự do, hạnh phúc của nhân dân đất nước. Khi đất nước trở về những tháng ngày hòa bình, bắt đầu dựng xây một cuộc sống mới, Đẩu cũng mang một vai trò mới khi là Chánh án của Tòa án huyện vùng biển nơi Phùng tới công tác lần này.
Trở về từ chiến trường, Đẩu không chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do dân tộc nữa mà tham gia bảo vệ hạnh phúc của con người, của nhân dân xóm huyện thời bình. Khi thấy người đàn bà hàng chài ngày ngày bị chồng đánh đập dã man mà vẫn cam chịu nhẫn nhịn, Đẩu đã mời mụ lên tòa án huyện để khuyên giải mụ ký đơn ly hôn chồng. Điều đó đã thể hiện Đẩu là một con người hiểu biết luật pháp, sống hết mình, hết lòng vì công việc, nghiêm túc và có tinh thần trách nhiệm vô cùng cao. “Vị Bao công của cái phố huyện vùng biển ấy” có một trái tim nồng ấm tình thương, lòng nhân ái dành cho số phận con người, đặc biệt là người lao động. Sự bất bình vì cuộc sống chẳng mấy êm đềm của gia đình người đàn bà hàng chài và mong muốn người đàn bà ly hôn đã thể hiện sự thấu hiểu, sẻ chia và tinh thần sẵn sàng đấu tranh vì hạnh phúc của những con người bất hạnh ở nhân vật này.
Khi nói chuyện với người đàn bà hàng chài, nghe mụ trả lời câu hỏi đã nghĩ kỹ chưa của mình, Đẩu gật đầu, đứng dậy và “tự nhiên rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Sự phân tích kỹ càng xen nỗi tức giận, căm phẫn ấy đã thể hiện sự quan tâm, sẻ chia ở Đẩu. Anh thật lòng mong muốn người đàn bà có cuộc sống ấm êm, hạnh phúc và không phải ngày ngày gồng mình chịu những đớn đau về thể xác, tàn úa về tinh thần.
Nhưng ở những chi tiết tiếp theo trong cuộc trò chuyện ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để cho nhân vật của mình có một sự tự nhận thức sâu sắc sau khi nghe những tâm tư, suy nghĩ người đàn bà hàng chài thật lòng chia sẻ. Đứng trên cương vị là chánh án một tòa án huyện, hành động vũ phu của người chồng làm Đẩu rất căm phẫn, bất bình nhưng nếu đứng ngoài cương vị là một người đại diện cho luật pháp, những nghĩ suy của một người đàn bà lam lũ, từng trải đã làm Đẩu bừng ngộ. Có lẽ rằng anh đã quá nông nổi, quá thiếu sự thấu trải để hiểu rõ lẽ đời. Những lời người đàn bà hàng chài nói khiến cho “một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”. Sự vỡ lẽ ấy như vừa đánh thức trong tâm thức Đẩu những quan niệm về tình yêu, về hạnh phúc gia đình, về sự sẻ chia yêu thương… mang giá trị nhân bản sâu sắc. Đồng thời, qua những tâm tư, trăn trở của người đàn bà hàng chài, Đẩu cũng hiểu hơn về những nghịch lý của cuộc đời mà xưa nay mình đã nghĩ quá đơn giản, nhiều khi còn không hề nghĩ về nó.
Tuy không phải nhân vật trung tâm xuất hiện xuyên suốt tác phẩm, nhân vật Đẩu vẫn hiện lên với đầy đủ những hành động, suy nghĩ rất đẹp. Qua sự thức nhận của tâm hồn Đẩu, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng gửi gắm những triết lý rất đời, rất thấm thía tới người đọc, để họ cùng nghĩ suy và chia sẻ với tác giả.