Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 11 mẫu), Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu tài liệu Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là tài liệu cực kì hữu ích mà Tài Liệu Học Thi muốn giới thiệu đến các bạn học sinh lớp 12 cùng theo dõi.
A Phủ là một trong những nhân vật điển hình, có giá trị nhân văn và xuất hiện rất nhiều trong các đề thi môn Ngữ văn. Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 11 bài văn mẫu được chúng tôi tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Với tài liệu này sẽ giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích nhân vật A Phủ
- 2 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 1
- 3 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 2
- 4 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 3
- 5 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 4
- 6 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 5
- 7 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 6
- 8 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 7
- 9 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 8
- 10 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 9
- 11 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 10
- 12 Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 11
Dàn ý phân tích nhân vật A Phủ
I. Mở bài:
– Đôi nét về tác giả, tác phẩm
– Giới thiệu nhân vật
II. Thân bài:
* Xuất thân của A Phủ
– Khốn khó, mồ côi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên không lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.
– Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.
* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý
– Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
– Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương, cuốc mương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt
– Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh”.
* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:
– Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”
– Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình không chịu nhục trước thế lực cường quyền.
– Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, không bước nổi”, trong người không còn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt đẹp này.
* Đánh giá
– Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo, quyết liệt.
– Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.
– Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con người miền núi Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng
– Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.
III. Kết bài:
Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 1
“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm về sự vượt lên chính mình. Tô Hoài đã rất thành công khi khắc họa nhân vật này.
A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta ngưỡng mộ hơn.
Tô Hoài đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả ngược dòng kể về hoàn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ. Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang bướng của A Phủ thì nó không thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau của cuộc đời A Phủ.
Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều lĩnh, không chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng cho nhiều cô gái.
Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện quá xa xôi. Một người đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cô độc như thế.
Có lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh, vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ trưa đến đêm.Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, không hơn không kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng cũng không thể làm điều gì hết.
Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên long.
Đến đây chúng ta lại liên tưởng đến nhân vật Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngôi nhà đầy oán hận này.
Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ không có quyền lựa chọn cho mình con đường đi, không được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm trâu làm ngựa cho nhà thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau long. Tô Hoài đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.
Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bò mà thống lý đã bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiển trong tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này.
Có lẽ chính vì ý thức này đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống lý, A Phủ sẽ thành một người công dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi của cách mạng.
Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình tượng điển hình của người nông dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng lại có khát khao sống mãnh liệt.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 2
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tô Hoài viết về đề tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được đông đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài mở đầu khi giới thiệu nhân nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau.
A Phủ xuất hiện trong hoàn cảnh mà thật oái oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ côi không ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hoài là một người có sức khỏe hơn người.
A Phủ còn là một con người có đời sống phóng khoáng, yêu đời và chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.
Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khoáng, sức khỏe hơn người nên anh có nhiều người để ý. Nhiều cô gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí, và với bản năng của mình, A Phủ không than, không van xin lấy một lời, A Phủ không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn, mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Những câu văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ, ông còn sử dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với hàng núi công việc. A Phủ có thể đốt rừng, cày nương, vỡ nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng, có những khi đói rừng, hổ gấu thường tìm đến các đàn trâu bò dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng trong rừng. Nhưng anh không hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng không có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình. Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.
Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh mẽ,nó được nuôi dưỡng từ khi còn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bò thì anh sẵn sàng muốn lấy công chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách để tự giải thoát mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay, anh đã quật sức vùng dậy chạy để thoát khỏi xiềng xích nhà thống lí, thoát khỏi cuộc đời nô lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà còn cứu được cả Mị.
Sau khi vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây, anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng là một hình ảnh đẹp, không chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tô Hoài đã làm nổi bật được hình tượng và khí phách của A Phủ – nhân vật điển hình trong truyện. Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 3
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc không khỏi ấn tượng với nhân vật A Phủ- một chàng trai dân tộc với số phận bất hạnh nhưng có những phẩm chất phi thường.
A Phủ được giới thiệu là một người mồ côi, một thân một mình, bị bán xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đôi. Cho thấy đây là một chàng trai khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện vô lý của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Nguyên nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh nhau với A Sử, Tô Hoài đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp. Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy thế.
Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa phương đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ không công do món nợ không biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bò. A Phủ bị trói vào cọc. Tính mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một con bò, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.
Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên: “A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình bị trói trong đêm tình mùa đông mà không có một ai đến cứu. Có lẽ, giọt nước mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ luôn tìm cách để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tô Hoài và Nam Cao. Nam Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của loài người”, “nó có thể thanh lọc tâm hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dòng nước mắt trên đôi gò má đã xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mông gan góc, khỏe mạnh khác thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tô Hoài cũng nghĩ đến điều này?
Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết. Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”. Lòng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”.
Qua tác phẩm, tác giả Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật A Phủ với hình tượng người lao động khao khát tự do và tình yêu cuộc sống. Từ đó càng cho thấy tài năng và niềm đồng cảm sâu sắc mà tác giả dành cho những con người lao động nghèo khổ, bất hạnh.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 4
Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong tác phẩm này
Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử – con trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.
Từ bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, không còn người thân thích trên đời, bị người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ đã gan bướng, không thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bò tót rất bạo”. Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta đùa vậy thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Không có cha mẹ, không có ruộng nương, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con thống lí Pá Tra.
Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt chảy máu”, “hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa…”, việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính toán thiệt hơn.
Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa con bò hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tôi mượn cây súng. Tôi đi lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí không cho, anh cãi lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kỳ ai. Con hổ hay thống lí cũng thế thôi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ không sợ cả cái chết.
Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh nhai đứt hai vòng dây trói, song không thoát. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.
Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ. Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 5
Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn của tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1953. Truyện kể về hai chặng đường đời của Mị và A Phủ những ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và sau khi sang Phiềng Sa nên vợ nên chồng, gặp gỡ Cách mạng và trở thành chiến sĩ du kích. Trong đó, A Phủ là một nhân vật gây ấn tượng khá sâu sắc.
Tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra, rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hết cả mẹ cha và anh em trong một trận đậu mùa khủng khiếp, phải sống kiếp bơ vơ khi còn rất nhỏ và “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng”. Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới 10 tuổi đầu A Phủ đã tự khẳng định tính cách gan góc: một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người. “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Vì vậy, A Phủ trở thành niềm mơ ước của biết bao cô gái Mèo. Họ kháo với nhau “Đứa nào được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Tuy vậy với tập tục khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời. A Phủ chẳng những bị khinh thường mà thực tế cũng chẳng bao giờ anh kiếm đủ tiền để làm nhà và cưới vợ. Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không sao thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân. A Phủ dám đánh lại con nhà quan phố đám chơi “Chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp…”
Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp. Sau đó, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã man, A Phủ đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. A Phủ không hề khóc lóc van xin trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Cuối cùng trong cảnh xử kiện quái gở khi kẻ phát đơn kiện cùng là người ngồi ghế quan tòa, A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời để trừ nợ. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “cày ruộng, cuốc nương và săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra. Chỉ vì để hổ bắt mất bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây sậy quấn từ chân lên vai”. Và nếu bọn A Sử không bắt được hổ về thì chắc chắn A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét” — Như Mị từng chứng kiến những cảnh tương tự. Tuy vậy, với tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất, sẵn có, A Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Và với sự trợ giúp của Mị A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương, từ đấu tranh tự phát, A Phủ và Mị đã tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc.
Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy đau khổ, tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đấy cũng là giá trị nhân đạo, mới mẻ sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 6
Tô Hoài là nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn hiểu biết sâu sắc phong phú về phong tục tập quán ở nhiều vùng miền và lối trần thuật hóm hỉnh sinh động, ông đã tạo ra những tác phẩm nổi tiếng đi vào lòng người đọc. Một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông chính là “Vợ chồng A Phủ”.
“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Truyện ngắn được in trong tập “Truyện Tây Bắc” xuất bản năm 1953. Truyện kể về cuộc đời của hai nhân vật chính Mị và A Phủ. Hai nhân vật này đã góp phần làm nổi bật giá trị của truyện cũng như mục đích của tác giả khi sáng tác truyện ngắn này. Và nhân vật A Phủ là đại diện cho những chàng trai Tây Bắc gan bướng, cứng cỏi và không sợ cường quyền.
A Phủ có một lai lịch hết sức đặc biệt. Anh mồ côi cha mẹ, không người thân thích. Anh là người duy nhất trong gia đình sống sót qua nạn dịch. Năm mười tuổi, anh bị bắt đem bán để đổi thóc cho người Thái. Sau đó anh trốn lên núi và lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ đây cuộc đời anh mới gặp nhiều sóng gió. Trong tác phẩm anh được xuất hiện trong đêm tình mùa xuân khi đánh nhau với A Sử con trai thống lí Pá Tra. Sự việc này đã phần nào hé mở về cá tính của nhân vật này.
Trước hết A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh và có tài. Anh là niềm mơ ước của nhiều cô gái. Từ đục lưỡi cày, chăn bò tót… anh đều làm rất thạo. Người ở Hồng Ngài ví nếu có anh ở trong nhà không khác gì có một con trâu tốt. Nhưng anh vẫn không lấy nổi vợ. Vì anh nghèo “chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn ở cổ”. Mặc dù vậy, trong đêm tình mùa xuân anh vẫn cầm con quay đi tìm bạn tình. Vì vậy mới sinh sự ở Hồng Ngài.
A Phủ có một tính cách, cá tính rất mạnh mẽ. Năm mười tuổi khi bị bán để đổi thóc cho người Thái, phải ở cánh đồng thấp, anh không chịu được mà trốn lên cánh đồng cao. Chỉ chi tiết này thôi cũng phần nào hiểu được cá tính của anh. Đặc biệt anh không hề sợ con quan. Anh đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. Anh đánh A Sử mà không phải sợ sệt hay kiêng nể chịu lép vế vì là con quan. Anh còn gan bướng cứng cỏi đến mức trong cuộc xử kiện, họ đánh đập chửi rủa anh, anh vẫn “im như một tượng đá”. Khi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí, anh vẫn tự do. Người nhà thống lí không thể trói buộc được anh. Ngày ngày anh rong ruổi nơi bìa rừng khắp chốn. Một mình anh chăn dắt đàn bò đến mấy chục con. Chẳng may một hôm vì mải mê bẫy nhím anh để hổ ăn mất một con bò. Nhưng anh không hề sợ hãi mà điềm nhiên vác nửa con bò về nhà thống lí. Không chỉ thế anh còn nói với thống lí xin đi bắt hổ về. Quả thực mặc dù trở thành nô lệ cho nhà thống lí nhưng anh vẫn không hề mất đi bản lĩnh, vẫn cứng cỏi, không sợ cường quyền. Cá tính mạnh mẽ của anh con được thể hiện qua tâm lý khi anh bị trói đứng. Anh đứng im cho người nhà thống lí trói mình, rồi không chịu được anh dùng răng nhai đứt mấy vòng dây mây. Anh mạnh mẽ đến mức bị trói đứng mấy ngày liền anh vẫn không hề than oán. Chỉ đến ngày thứ ba cảm nhận mình đã đến bên bờ cái chết anh mới tuyệt vọng để hai hàng nước mắt bò trên gò má. Cá tính mạnh mẽ của anh rất có lợi cho việc giác ngộ cách mạng sau này.
Bằng khả năng khắc họa nhân vật tài tình, Tô Hoài đã xây dựng được một nhân vật hết sức tiêu biểu cho những chàng trai miền Tây Bắc – A Phủ. Một chàng trai khỏe mạnh, có tài năng và cá tính mạnh mẽ. A Phủ là một biểu tượng của chàng trai núi rừng mộc mạc, chân chất. Đồng thời, xây dựng nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn này.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 7
Cùng với Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,… Tô Hoài cùng là một trong những ngòi bút xuất sắc và nổi bật khi viết về đời sống của nhân dân Việt Nam trong những năm trước và sau cách mạng tháng tám thành công. Trong đó nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài ở mảng văn học hiện thực ấy là các tác phẩm viết về số phận con người ở miền núi phía Bắc, mà đại diện là tác phẩm Vợ chồng A Phủ với nhân vật chính là Mị và A Phủ, những con người bị cường quyền và thần quyền phong kiến nửa thực dân chèn ép, tước đoạt quyền được hạnh phúc, tự do thậm chí là đe dọa cả sinh mạng. Trong truyện ngắn ngoài nhân vật Mị, thì A Phủ cũng là một nhân vật đáng chú ý, với cuộc đời và những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, đáng trân trọng.
A Phủ là một chàng trai có số phận đáng thương, vốn anh không phải là người ở Hồng Ngài mà là người làng Hắng Bia, cũng có một gia đình đàng hoàng. Nhưng thật không may một năm cả làng dính phải trận dịch đậu mùa, cả nhà còn sót lại mỗi mình A Phủ. Rồi người làng vì đói quá đã bán A Phủ cho người Thái, năm đó A Phủ mới 11 tuổi, thế nhưng với bản lĩnh và tính gan bướng anh không chịu sống như vậy, thế là anh bỏ trốn lên Hồng Ngài, đi làm thuê cho người ta tự nuôi sống bản thân. Vốn là một chàng trai chịu khó, lại lăn lộn từ sớm thành thử A Phủ trở nên rất giỏi và thạo nhiều việc “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Không chỉ vậy anh còn là một chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn, lại chăm chỉ, mà người ta không tiếc lời tấm tắc “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà. Chẳng mấy lúc mà giàu”. Chính vì vậy A Phủ là người tình trong mộng của nhiều cô gái ở Hồng Ngài, thế nhưng tội thay cho chàng trai, vì nghèo, vì mồ côi, vì những tục lệ cưới xin rườm rà mà A Phủ vẫn không thể có lấy một tấm vợ tử tế. Đang ở tuổi trẻ sung sức, trái tim vẫn khao khát những cuộc vui, dù bản thân chẳng có gì ngoài “chiếc vòng bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ”, nhưng A Phủ vẫn tự tin đem khèn, sáo, quả pao, con quay, quả yến đi tìm người yêu khắp Hồng Ngài, rồi cuối cùng đụng phải đám A Sử, đâm sự đánh nhau. A Phủ đánh thắng, nhưng dưới sức ép của cường quyền, thần quyền, anh phải chịu đền tội, đền tiền cho nhà A Sử, rồi vì không có tiền, nên đành chịu làm kiếp nô lệ, người ở để trừ nợ, một cái nợ mà “Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Vì một trận đánh tuổi trẻ phải đền bằng tự do cả cuộc đời, thậm chí là đời con đời cháu, từ một kiếp người thành kiếp con trâu, con bò cho nhà thống lý Pá Tra. Nhưng cái khổ của A Phủ chưa dừng lại ở đó, anh làm nhiệm vụ mang cả đàn ngựa, bò của nhà thống lý đi chăn ở rừng, hàng mấy chục con một, vào mùa rừng đói, phải đem chăn xa A Phủ còn phải ở lại rừng để chăn dắt. Ấy thế rồi trong một lần sơ sẩy, mải bẫy nhím, bò ngựa lại nhiều quá A Phủ không kịp đếm, hổ đã vồ mất một con bò. Không hề sợ hãi, A Phủ xông xáo lần theo vết chân hổ, mò được đến chỗ con bò bị hổ ăn thịt, thì chỉ còn lại một mảnh. A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: “Con hổ này to lắm. Hãy còn ngửi thấy mùi hôi quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào cũng bắn được”. Chàng trai gan dạ và dũng cảm đã sẵn sàng cho một cuộc đi săn đầy hung hiểm, thế nhưng bao đời nay kẻ cầm quyền độc ác thường chẳng suy nghĩ đơn giản giống như A Phủ vẫn nghĩ. Bọn chúng vì A Phủ làm mất một con bò mà trói đứng anh ở cái cột giữa sân với mệnh lệnh tàn nhẫn “Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng chết ở đấy”. Mấy ngày trôi qua, thế nhưng đám tôi tớ nhà thống lý Pá Tra vẫn chưa bắt được hổ về, phe này có lẽ A Phủ phải chịu chết đứng ở cái cột ấy mất thôi. Có thể chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, dù gì cũng phải chết, cuộc đời khổ cực, truân chuyên đã khiến A Phủ cảm thấy tuyệt vọng và bất lực. Ngay lúc gần như đã kiệt quệ thì có một “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ. Đàn ông hiếm khi rơi nước mắt, mà một khi đã rơi tức là phải thấy cay đắng, đớn đau đến tột cùng. Có lẽ A Phủ đang tự xót thương cho số phận quá đỗi hẩm hiu và đắng cay của cuộc đời mình, bất hạnh từ khi nhỏ cho đến khi trưởng thành, rồi cuối cùng phải đền mạng vì làm mất một con bò. Cuộc đời anh thế mà lại không đáng giá bằng một con bò bị hổ ăn thịt. Cũng chính giọt nước mắt ấy đã cứu cuộc đời A Phủ, nó đã đánh động trái tim và bản năng của Mị, cô đã liều lĩnh cắt dây trói để thả người đàn ông khốn khổ sắp chết, mặc kệ những nguy hiểm của bản thân. Ngay lúc nghe được hai tiếng thì thào “Đi đi…” của Mị, thì bản năng, khao khát được sống được tự do mãnh liệt của A Phủ lập tức bùng cháy, hâm nóng thân thể đang chực sụp xuống vì đói vì rét, trở thành động lực khiến anh dùng hết sức bình sinh chạy xuống sườn đồi, thoát khỏi gông cùm của cường quyền độc ác. Khi nhìn thấy Mị đuổi theo, xin đi cùng, A Phủ đã không ngần ngại, giúp đỡ người đàn bà đã cứu mình cùng nhau chạy trốn mà không hề hỏi cớ sự. Rồi từ ấy hai người trở thành vợ chồng, điều đó chứng tỏ rằng A Phủ đã có sự thấu hiểu cảm thông và chia sẻ với cuộc đời của Mị. Chi tiết hai vợ chồng cùng nhau làm cách mạng, đã chứng tỏ ý chí và bản lĩnh của A Phủ, con người có nghị lực phi thường, khao khát tự do mãnh liệt, tự giải thoát cho bản thân bằng những con đường riêng biệt. Mà tính cho đến kết truyện A Phủ đã có đến ba lần tự giải phóng bản thân, một lần lúc bị bán đi, một lần trốn khỏi nhà thống lý và lần nữa là khi tham gia vào cách mạng, trở thành cán bộ, trở thành con người mới.
Ngoài nhân vật chính của tác phẩm là Mị, đại diện tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ ở Hồng Ngài, vùng núi phía Bắc nước ta những năm tháng đất nước còn nhiều đau thương. Thì A Phủ cũng là một nhân vật góp phần quan trọng trong việc xây dựng cuộc đời Mị, cũng như nhấn mạnh thêm những bất công, tàn ác của chế độ phong kiến thần quyền và cường quyền, đồng thời khắc sâu và làm sáng thêm những vẻ đẹp của con người lao động, vượt lên những bất hạnh, đớn đau bằng niềm khao khát sự sống, sự tự do mãnh liệt, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 8
Nằm trong tập Truyện Tây Bắc (1953), truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những”đứa con tinh thần” ưu tú của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của Tô Hoài. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh nhân vật Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về bản lĩnh vượt lên số phận và chính mình.
A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật xuất hiện trước mắt người đọc trong lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, tác giả đã ngược dòng để kể về lai lịch của A Phủ, giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.
A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng. Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực ấy và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ.
Từ khi trưởng thành, A Phủ càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp nhất của mình. Chàng “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo”. Chẳng những lao động giỏi mà A Phủ còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”, “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Chính nghị lực sống và sức khỏe của anh đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến.
Nhưng tiếc thay, A Phủ lại là người không cha không mẹ, không nhà cửa, không ruộng nương và vì tập tục cưới vợ của người Mèo phải có trăm đồng bạc trắng cho nên việc lấy vợ với anh là chuyện quá xa xôi. Một chàng trai khỏe mạnh và cá tính như anh đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc vậy mà cuối cùng vẫn phải một mình cô độc như thế.
Tuy nhiên, dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, A Phủ không có quần áo mới như những anh con trai khác mà “chỉ có độc một chiếc vòng cổ” nhưng “A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Nhiều cô gái kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”.
Chẳng những thế, ở A Phủ còn là một con người trọng tình và đầy nghĩa khí. Gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn xông vào để bênh vực cho bạn của mình. Điều này đã cho thấy A Phủ là một chàng trai gan dạ và chí khí.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Mặc dù bị đánh đập và rất đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì không thể làm gì được.
Cuối cùng kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”.
Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm người đúng nghĩa. Có thế bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.
Chế độ xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc còn tàn độc đến mức, con người có thể nắm giữ mạng sống của con người, có quyền sinh – sát đối với người khác. Là con nợ, là nô lệ cho nên tính mạng của A Phủ sống hay chết là nằm trong bàn tay thống lý Pá Tra. Do đó, chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây sậy quấn từ chân lên vai”. Rất có thể A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét” — những cảnh tương tự mà Mị từng chứng kiến trong nhà thống lý Pá Tra – để thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt.
Tuy vậy, với bản lĩnh gan góc, không chịu khuất phục sẵn có, A Phủ nhất định không chịu chết chôn chân ở cái cọc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp dứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa. “A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa” đành chịu “đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya”. Và dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình.
Hai người dìu nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. Từ đây A Phủ và Mỵ lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương. Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.
Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong tăm tối của đau khổ, tủi nhục, bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 9
Tôi đã từng đọc ở đâu đó “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con người”. Và tôi biết một người nghệ sĩ như thế – một nhà văn viết về Tây Bắc bằng cả tấm lòng của mình, cả niềm thương nỗi nhớ luôn thường trực trong trái tim – Tô Hoài! Trong số những thành công của ông, không thể không nhắc đến “Vợ chồng A Phủ”- truyện ngắn mang giá trị sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh nhân vật A Phủ.
Nếu hôm nay ta có “thấy Nguyễn Nhật Ánh trong tuổi thơ” thì Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài là quyển sách gối đầu của hàng triệu thiếu niên Việt Nam. Tô Hoài – nhà văn có lối viết rất riêng: đậm đà bản sắc dân tộc với những sáng tác thiên về sự thật đời thường. Ông có quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh độc đáo có phần quyết liệt “viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Trong chuyến đi thực tế dài tám tháng tại Tây Bắc với đồng bào các dân tộc thiểu số cùng ăn, cùng ở, cùng chung sống… Chính cuộc sống ấy đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo để nhà văn hoàn thành tập Truyện Tây Bắc
A Phủ là nhân vật được tác giả cho xuất hiện khá đột ngột trong cuộc đánh nhau của thanh niên làng bên với A Sử rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Nhà văn để nhân vật đi vào trang văn bất ngờ, tự nhiên và đầy ấn tượng. A Phủ quê ở Háng-bla và tuổi thơ đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp cướp đi cả gia đình anh. A Phủ gan dạ, vừa ngang bướng đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, ngày qua ngày, mùa qua mùa, A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”, “đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.
Một mình bươn trải, A Phủ đủ mạnh mẽ, gan góc, sống tự do phóng khoáng thì kết thúc bị trói buộc cả cuộc đời tại nhà thống lí. Chính sách áp bức của chúa đất đã đẩy người lao động phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời. Cảnh xử kiện A Phủ là minh chứng rõ ràng nhất về cách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt “tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp” và “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kẻ, chửi, lại hút”, cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Riêng A Phủ chỉ âm thầm chịu đựng, nuốt đắng cay mà chịu đòn đầy đau đớn.
Cảnh Pá Tra trói đứng A Phủ như một tình cảnh bị trói chờ chết như năm nào mà cô Mị đã phải chịu. Mị không lấy làm lạ. Bởi Mị đã quá quen với những tội ác thế này và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi rồi lé mắt trông sang, thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Chính dòng nước mắt đau đớn đã làm sống dậy ý thức và tình cảm của Mị. Ký ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột, nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Tình thương người còn lớn ngàn lần nỗi sợ hãi. Nó tiếp thêm sức mạnh và bản lĩnh để Mị hành động cứu A Phủ. Và Mị đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra và chạy theo A Phủ. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy thôi thúc họ phải đấu tranh để sống và được sống.
Thành công của truyện Vợ chồng A Phủ trước hết là ở cốt truyện cùng hình tượng nhân vật với những nét cá tính khá rõ. Ngoài ra, chất thơ toát lên từ chủ đề của tác phẩm, từ tâm hồn đôn hậu, chất phác của nhân vật chính và thấm đượm trong những bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc là điểm nhấn làm nên ấn tượng tuyệt đối.
Nguyễn Minh Châu từng viết “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người”. Với Tô Hoài, ông không chỉ tìm kiếm, phát hiện mà còn khơi nguồn vực dậy trong tâm hồn Mị sức sống, khao khát sống tưởng như đã bị héo mòn, bị chôn vùi bởi những thế lực tàn bạo. Qua đó nhà văn khéo léo gửi quan niệm về cuộc sống của bản thân vào nhân vật của mình rằng: Con người lao động, trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ luôn giữ bản lĩnh và sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân mình.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 10
Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau; nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.
A Phủ được miêu tả trước hết là một người có số phận bất hạnh, kém may mắn. A Phủ người Háng Bla. Năm mười tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa khủng khiếp, sau đó, “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng.” Thế nhưng A Phủ không cam chịu, anh đã trốn thoát lên núi cao, để rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Số phận của A Phủ đại diện cho biết bao con người nghèo khổ trong xã hội, không có quyền được quyết định cuộc đời mình.
Tuy vậy, vượt lên số phận khốn khó của mình, A Phủ lại có những tính cách tốt đẹp của một người con trai miền núi. Bởi anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, “biết đúc lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo.” “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng phăng phăng.” A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. Anh trở thành niềm khao khát của bao cô gái trong làng: “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà.” Khen vậy, nhưng anh lại chẳng lấy được vợ, vì “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như thế, mà A Phủ vẫn giữ được cho mình sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời. Dẫu cho không có quần áo đẹp, chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ “cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Thể hiện được một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời và tự tin của tuổi trẻ. Nhưng không chỉ dừng ở đó, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lý cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.
Lương thiện là thế, nhưng A Phủ lại là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, nạn nhân của cường quyền độc ác. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập dã man. Nhưng anh đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. Anh chỉ quỳ, chịu đòn, im như tượng đá. Cuối cùng, anh bị buộc nộp vạ một trăm bạc trắng, vì không có tiền nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ. Vậy là anh phải chịu kiếp sống trâu ngựa để trừ nợ, bị trở thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò vãi, nương rừng”. Từ một chàng thanh niên sôi nổi, yêu đời, anh trở nên nhẫn nhục, cam chịu.
Giữa kiếp nô lệ ấy, A Phủ vẫn thể hiện lòng ham sống và khát vọng tự do. Sau khi để hổ bắt mất một con bò, thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò tao”. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây quấn từ chân lên vai. Anh bị trói trong đói rét, trong đau đớn mà chẳng ai ngó ngàng, dù nhà Thống lí “kẻ ra người vào tấp nập”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, anh không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay.” Thế nhưng, cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ anh một cái dây thòng lọng.Sau bao ngày bị hành hạ, hai hõm má anh xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau. Còn gì đau đớn hơn khoảnh khắc ta nhận thức được rằng mình sẽ chết, mình đang dần chết đi. Những giọt nước mắt dần lăn xuống, lấp lánh, vì nỗi khát khao được sống, được tự do. Khát khao ấy đã được thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình. Giữa bóng tối của cuộc đời, A Phủ đang đi tìm cho mình ánh sáng của niềm tin, của tình yêu đời. Để rồi sau này, khi A Phủ và Mị chạy trốn tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.
Có thể nói, thông qua nhân vật A Phủ, chúng ta đã nhận ra được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đó là tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đang áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động. Từ đó bộc lộ niềm cảm thông, yêu thương chân thành, sâu sắc đến những nhân cách đáng quý ấy.
Về nghệ thuật, nhân vật A Phủ được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật giữa những tình huống truyện đặc sắc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật A Phủ mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Anh là một hình tượng điển hình cho cuộc sống ngột ngạt của những người lao động hiền lành, chất phác trên vùng cao, dưới sự thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Họ đẩy những người hiền lành như anh đến bước đường cùng, để rồi anh phải đấu tranh, phải giải phóng mình, vụt chạy, tìm cho mình một con đường khác, một con đường mà ở đó anh sẽ tìm thấy được hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật A Phủ, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.
Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những nhân vật được nhà văn thể hiện. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách của những người vùng cao, mà nhân vật A Phủ là một hình tượng tiêu biểu như thế. Ở anh, tượng trưng cho khát vọng tự do, niềm yêu đời, vượt lên số phận để sống, để sống thật tốt, sống vượt lên những khó khăn của cuộc đời.
Phân tích nhân vật A Phủ – Mẫu 11
Tây Bắc là mảnh hồn thiêng của núi sông, là miền đất hứa có khả năng sản sinh ra năng lượng dồi dào cũng như truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ để họ viết nên những trang thơ, trang văn lấp lánh. “Người mẹ của hồn thơ” ấy đã thả hồn vào bao vần thơ đẹp của Chế Lan Viên, đã lấp lánh “chất vàng mười” trong hình tượng người lái đò của cụ Nguyễn Tuân và phả vào trang viết của Tô Hoài sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người lao động. Đó là phẩm chất, khí phách và tâm hồn của một chàng trai hoang dại A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Tô Hoài đã để A Phủ xuất hiện trong tác phẩm khá đột ngột, thông qua cuộc đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới quay ngược thời gian để kể lại lai lịch của A Phủ.
A Phủ là một chàng trai có số phận bất hạnh. Vì nghèo đói, cả gia đình A Phủ đã chết trong một trận đậu mùa khủng khiếp. A Phủ mồ côi bị người ta bắt đem bán cho một người Thái ở bản dưới.
Chốn về những bản vùng cao, mới 10 tuổi, A Phủ đã phải đi làm thuê để kiếm sống. A Phủ học đủ thứ nghề: “biết đúc lưỡi cày lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. Ngoài cái vòng vía đeo trên cổ, A Phủ không có bạc, không có ruộng. Rồi vì đánh A Sử mà A Phủ bị buộc làm người ở gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra.
Ta thấy như A Phủ đã bị buộc phải điểm chỉ bằng cả bàn tay của mình vào bức văn tự bán chính cuộc đời của mình, sự sống của mình, hơn thế nữa, còn bán cả cuộc sống của những kiếp con, kiếp cháu mình cho bọn nhà giàu để trở thành người ở gạt .Từ đó A Phủ phải làm việc quần quật đủ các việc công việc nặng nhọc và nguy hiểm như: cày ruộng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa, quanh năm suốt tháng chỉ có một mình.
Rồi vì để hổ bắt mất bò, A Phủ bị đánh bị trói. Kiếp sống của A Phủ không đáng giá bằng kiếp sống của một con bò. Để mất một con bò, A Phủ lại bị thống lý Pá Tra trói đứng vào cột chờ chết.
Sức phản kháng bị tê liệt đến mức thống lý Pá Tra bắt A Phủ tự đóng cọc, tự mang dây để hắn trói A Phủ vào cọc. A Phủ chỉ còn biết làm theo thống lý, A Phủ không nghĩ được gì hơn. A Phủ cam chịu và chấp nhận cảnh ngộ của mình. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai mũi má đã xám đen lại” của A Phủ và Mị vô tình nhìn thấy chính là tột cùng cho sức chịu đựng của nhân vật này, A Phủ vốn là một người thanh niên khỏe mạnh mà giờ đây đang từng ngày từng giờ đối diện với cái chết.
Cuộc đời của người nông dân nô lệ ở Hồng Ngài hình như đều kết thúc với cái cọc trong nhà thống lý, khi mọi cố gắng đều trở nên bất lực. Nếu Mị được miêu tả là một người có sức sống mãnh liệt thì A Phủ được tập trung khắc họa ở tính cách bướng bỉnh, ngang tàng, một con người khát khao sống tự do.
Đây cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn của chàng trai lao động miền núi mà Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng. A Phủ sống giữa núi rừng, anh làm được nhiều nghề đến nỗi con gái trong làng vẫn nói: “Đứa nào có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu”, vì A Phủ rất giỏi bẫy hổ, săn bò tót lại biết đúc lưỡi cày, đi săn cái gì cũng làm phăng phăng…
A Phủ nghèo không thể lấy nổi vợ nhưng vẫn có đời sống phóng khoáng, hồn nhiên yêu đời, “đang tuổi chơi trong ngày tết đến dù chẳng có quần áo mới như những chàng trai làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng vía trên cổ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả báo đi tìm người yêu ở các làng trong rừng.
A Phủ cũng là chàng trai bướng bỉnh, ngang tàng khi không chịu được bất công, anh “chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử…A Phủ đã chạy tới nắm cái vòng cổ, kẹp giựt đầu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Sự bướng bỉnh, gan góc thể hiện ở chi tiết A Phủ không khóc lóc van xin mà “quỳ xuống chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.
Nhân vật này cũng khao khát tự do đến mức dù mệt và đói, nhưng được Mị cởi trói thì A Phủ cũng vùng thoát chạy đi. Dẫu đi trong đêm tối họ chưa biết đi đâu nhưng thoát ra khỏi nhà thống lý nghĩa là đã thoát được cái địa ngục trần gian.
Cuối cùng A Phủ và Mị đã tìm đến khu du kích Phiềng Sa, tìm đến tự do. Từ đấu tranh tự phát, họ đã tiến tới đấu tranh tự giác. Có thể nói ở A Phủ là vấn đề tìm được nhận đường, và đó là bài ca ca ngợi quá trình đấu tranh của con người để tìm đến tự do.
Nếu ở nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện những diễn biến nội tâm sâu sắc, thể hiện bút pháp miêu tả tâm lý bậc thầy thì ở A Phủ nhà văn tập trung xây dựng nhân vật qua hành động mang tính chất bộc trực, khẳng khái. Điều đó góp phần thể hiện tính cách nhân vật.
Nhân vật A Phủ trở thành biểu tượng cho quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nông dân miền núi nói chung. Cùng với Mi, A Phủ tượng trưng cho số phận những con người từ trong bóng tối của cuộc đời cam chịu, tủi cực, đã vươn tới ánh sáng của sự tự do, ánh sáng của cách mạng.
Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được thể hiện sâu sắc qua hình tượng nhân vật A Phủ. Đây quả thực là một trong những nhân vật kiểu mẫu mà Tô Hoài muốn lột tả cho bạn đọc của mình.
Tóm lại, nhân vật A Phủ là điểm nhấn to lớn của tác phẩm. Xây dựng nhân vật A Phủ là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả hành động, tính cách của A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, ước mơ tự do mãnh liệt và những phẩm chất trong con người A Phủ đã làm đẹp thêm vẻ đẹp chung của tác phẩm.