Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết (Dàn ý + 4 Mẫu), Để giúp cho các bạn có thêm nhiều cách viết văn nghị luận, sau đây chúng tôi xin mời mọi người cùng tham
Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến tất cả thầy cô và các bạn một số bài văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết, đã được chúng tôi đăng tải tại đây.
Ngoài bánh Chưng thì bánh Tét là một món bánh đặc trưng có trong ngày Tết tại Việt Nam. Sau đây, chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo dàn ý và một số bài văn mẫu Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết.
Xem Tắt
Dàn ý thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết
I. Mở bài:
Tết là một ngày lễ lớn của dân tộc Việt Nam. Tết là khoảng thời gian tụ họp sum vầy sau một thời gian làm việc mệt mỏi. chính vì thế mà tết là một phong tục truyền thống và lâu đời của dân tộc ta. Mỗi dịp tết đến nhà nhà luôn chuẩn bị sẵn sang các thứ cần thiết cho ngày tết như: bánh mứt, hạt dưa, thịt,… và các thứ khác. Một phong tục truyền thống mỗi khi tết đến đó là gói bánh chưng- bánh Tét. Để hiểu rõ hơn về bánh Tét chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về bánh Tét.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc của bánh Tét
Theo tác giả Lê Tân trong bài “Bánh Tét Trà Vinh” cho rằng bánh Tét được làm và ăn quanh năm nhưng thường được nhắc đến nhiều nhất vào dịp lễ hội, đặc biệt là tết cổ truyền. Vì vậy nên theo dân gian lưu truyền ngày xưa cứ tết đến người ta gói loại bánh này và gọi bằng tên “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh Tét”. Tuy nhiên, tên gọi của bánh Tét cũng có thể xuất hiện từ hành động “ Tét bánh”. “Tét” là một hành động cắt bánh, tay phải cầm đầu dây khoanh tròn đòn bánh đã lột (vỏ), “Tét” từng khoanh một đơm lên đĩa.
2. Phân loại
– Bánh Tét ngọt hay còn gọi là bánh Tét chay: được gọi là bánh Tét ngọt hay bánh Tét chay vì nguyên liệu làm nên bánh Tét không có thịt và thường nhân làm bằng trái chuối.
– Bánh Tét mặn: bánh Tét mặn thường có nhân thịt.
3. Nguyên liệu làm bánh Tét
Mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có nguyên liệu làm bánh Tét khác nhau. Nhưng mỗi đòn bánh Tét mặn đều có những nguyên liệu chung như sau: Gạo nếp, Đậu xanh tách vỏ, Thịt heo, Một số gia vị,…
4. Quy trình làm bánh Tét
a. Chuẩn bị
– Gạo nếp trước khi gói bánh thường được ngâm, trước vài tiếng, đãi sạch.
– Đậu xanh ngâm đãi sạch vỏ.
– thịt ba rọi xắt vuông dài làm nhân bánh.
– lá chuối phơi cho héo một chút.
b. Gói bánh
– trước tiên trải lá chuối và đổ nếp lên trên.
– cho nhân thịt vào giữa bánh.
– gói lại thành một đòn bánh rồi buộc dây.
c. Nấu bánh
– Bánh Tét phải luôn được nấu ngập trong nước.
– thời gian nấu tùy và kích cỡ bánh nhưng thông thường từ 6 – 8 giờ.
– Nhiệt độ nấu nằm trong khoảng 90 – 100 độ C.
5. Sự khác biệt giữa các vùng về bánh Tét
– Vùng Bình Dương, Tây Ninh đất cát là xứ rẫy có nhiều đậu nên bánh Tét ở đây làm bằng nếp trộn đậu phộng.
– Đồng Nai có bánh Tét nhân hạt điều
– Cần Thơ nổi tiếng bánh Tét lá cẩm.
– Sóc Trăng có bánh Tét bắp non…
6. Ý nghĩa của bánh Tét
– Bánh Tét thể hiện sự bao bọc của người mẹ dành cho con thể hiện qua lớp chuối bao bên ngoài. Bên cạnh đó, bánh Tét còn thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc.
– Nhân bánh Tét vàng thể hiện lòng biết ơn thiên nhiên đã ban tặng cho ta những thực phẩm quý giá.
III. Kết bài:
– Nêu cảm nghĩ về bánh Tét
– Sự cảm nhận của em khi ăn bánh Tét.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết – Mẫu 1
Không khí ngày xuân không thể thiếu rượu, bánh mứt, phong bao lì xì đỏ, cây nêu và bánh chưng xanh. Đối với cư dân vùng đồng bằng Nam bộ, bánh Tét lại là món ăn không thể thiếu trên bàn thờ gia tiên như tấm lòng thành kính của con cháu sau một năm làm lụng vất vả. Ngồi bên bếp lửa hồng, nghe hơi ấm giữa lòng đêm se se chợt nghe bao ký ức tìm về.
Nếu ở miền Bắc trong ngày Tết, giỗ kỵ, các lễ hội cổ truyền có bánh dày, bánh chưng để dâng cúng tổ tiên, thì ở Nam Bộ bánh Tét được liệt ngang hàng, coi như bánh Tổ. Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, bánh Tét gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… quyện vào nhau thật dẻo mềm, bùi béo giữa màu xanh thẫm và láng mượt của lớp lá chuối mang hương vị tự nhiên của trời đất. Thường được gọi là bánh đòn do có hình trụ dài và tròn đều, cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp có dây quai để xách, vừa tiện vừa đẹp, lại phù hợp với tập quán vì năm mới phải đủ đôi, chẵn cặp mới hạnh phúc, thịnh vượng.
Tương truyền tên gọi “bánh Tét” có xuất xứ từ hành động nắm đầu dây buộc, khoanh tròn đòn bánh đã lột vỏ, “Tét” từng khoanh một đơm lên đĩa. Cũng có thuyết cho rằng bánh Tét là một biến thể của chiếc bánh chưng ngoài Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong. Hay có nơi lại hiểu bánh Tét là một trong những sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam, cái đặc sắc, độc đáo của bánh chủ yếu ở nét khác biệt trong hình khối, màu sắc, hương vị so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác nên cứ mỗi năm tết đến người phương Nam lại gói loại bánh này, gọi là “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh Tét”.
Được người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và Trung chế biến một cách tài tình, lại tuỳ theo địa phương mà thêm thắt gia vị cho hợp khẩu nên đòn bánh Tét phương Nam ngày càng phong phú về chủng loại và hương vị. Nào là bánh Tét nhân ngọt (không có thịt) nhân đậu xanh có trộn đường; bánh Tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh, đòn nhỏ một trái chuối, còn đòn lớn ba trái chuối xiêm chín có thêm đường để tăng độ ngọt cho nhân, khi chín có màu đỏ tím. Tét khoanh bánh ra trông lạ mắt, màu đỏ tím chính giữa nổi bật bên ngoài màu nếp trắng phau rất đẹp. Nào là bánh Tét thập cẩm với phần nhân cao cấp gồm trứng, tôm khô, lạp xưởng, hạt sen, thịt giò Bắc thảo, đậu phộng, nấm đông cô trộn chung với nhân đậu xanh…
Mỗi lần gói bánh Tét, người ta thường gói chí ít 5 – 7 đòn vừa để dành ăn dần, vừa để biếu hàng xóm láng giềng, bà con thân thích. Hay nhất là cứ sau hăm ba ông Táo chầu Trời cả nhà tự xúm xít lại gói bánh. Trước tiên, xếp lá chuối ngang dọc xen kẽ nhau, sau đó cho gạo nếp, đậu xanh đãi vỏ đã nấu chín lên trên, trải đều ra thành hình chữ nhật, sau đó thêm vào giữa một miếng thịt lợn theo chiều dài đòn bánh. Kế đến cho thêm một lớp đậu xanh và một lớp gạo nếp lên trên cùng rồi bắt đầu lăn cuộn bánh. Gấp một đầu bánh lại và bắt đầu nén gạo cho chặt và buộc dây lạt nữa là hoàn tất.
Để nấu bánh, chọn một cái nồi thật cao để xếp những chiếc bánh vào, cho nước ngập mặt bánh rồi đun trên bếp củi. Cách giờ phải thăm và châm nước thêm. Bánh nấu liên tục trong khoảng từ 10 – 12 tiếng đồng hồ mới chín đều. Vì thời gian nấu lâu nên hạt gạo khi chín sẽ mềm và quyện chặt lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”. Lúc này, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đỗ đều chín nhừ, chan hòa, ngấm vào nhau, trở nên thơm ngon độc đáo. Cùng nhau ngồi quây quần bên nồi bánh Tét đượm ánh lửa hồng, chợt nghe trong lòng lâng lâng bao cảm xúc khó tả về một sự thiêng liêng, sự hòa điệu của thiên nhiên và con người giữa đêm thanh vắng chỉ còn tiếng cười nói, tiếng tí tách của những thanh củi và bao câu chuyện vượt thời gian. Người này canh bánh thì người kia ngủ, trong giấc ngủ mơ màng bạn sẽ được nghe thoang thoảng mùi hương tỏa ra từ những đòn bánh chín đầu tiên của mùa Tết. Tự tay vớt những đòn bánh ra và xếp thành từng dãy trên bể nước, dằn cho bánh được ráo cũng sẽ rất thú vị cho những ai tự nấu bánh Tết cho người thân và gia đình.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết – Mẫu 2
Người dân Nam bộ còn lưu truyền câu ca dao:
“Chim kêu ba tiếng ngoài sông
Mau lo lựa nếp hết đông tết về”
Lo lựa nếp để gói bánh Tét trước cúng ông bà tổ tiên, kế biếu bà con lối xóm, sau cùng để ăn cho ba ngày tết. Do vậy, món bánh Tét ngày Tết là loại bánh không thể thiếu được vào dịp xuân về, là nét văn hóa ẩm thực tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Vì thế, một số người mới cho rằng cách gói bánh Tét có thể được đọc trại từ bánh tết mà ra.
Cứ đến khoảng 27, 28 tết là mấy bà nội trợ đã lo chuẩn bị nếp. Một ngày trước khi gói bánh, nếp được đem đi ngâm và gút. Hôm sau, họ cắt mấy tàu lá chuối còn nguyên và xanh um ở mé vườn hay sau hè. Lá chuối được rọc nhỏ lại theo kích cỡ đòn bánh, rồi lau sạch và quét lên tí dầu ăn cho láng. Nếp gút lại thật kỹ, sau đó mới bày lên lá với lớp nếp đến lớp nhân. Người gói bánh tiến hành gói phần lá bên ngoài và gói ở 2 đầu bánh, rồi dùng sức buộc dây lạt thật chặt thân bánh, phần dây thừa được gọi là đuôi bánh. Cách gói phần đầu bánh có hai dạng: Gói theo kiểu hình tròn hay hình tam giác. Người gói bánh cột phần đuôi 2 hay 3,4 đòn bánh lại với nhau thành từng xâu, rồi bỏ vào nồi nước sôi trên lò than, lò củi để luộc chín. Mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh nồi bánh Tét chụm lửa. Hồi còn nhỏ, ai đã từng ngồi như thế thì chắc không thể quên được hình ảnh bập bùng của lò than với âm thanh tí tách, cái háo hức mong đợi khi bánh được vớt khỏi nồi nước luộc và cái hơi nóng tỏa ra làm ấm cả gian nhà bếp. Đó là cảm giác của ngày tết sắp về ở từng gia đình. Độ chừng 3 đến 4 tiếng, người ta vớt bánh ra khỏi nồi nước, treo thành từng xâu trên cái đòn dài của nhà bếp để bánh ráo nước và tránh sự dòm ngó của lũ mèo, chuột. Sáng 30 cúng rước ông bà, họ cắt bánh thành từng khoanh rồi đặt vào đĩa để cúng. Bánh cúng xong thì con cháu mới được ăn. Khi ăn cũng là dịp để thưởng thức sự khéo léo của người nội trợ. Bánh Tét ngon là khi mở ra phần nếp không dính lá, nếp phải dẻo, mịn và trong, phần nhân phải vừa ăn (không quá mặn cũng không quá ngọt) và có mùi thơm. Muốn được như vậy phải biết kỹ thuật gói bánh. Nếp chọn là loại nếp thượng hạng, nếp rặt, không được pha với thứ khác. Còn lá chuối là loại lá còn nguyên vẹn, không được rách để tránh cho bánh bị “xì” khi nấu. Mặt khác, nếp phải được gút kỹ nhiều lần sao cho thật sạch để khi ăn bánh phần nếp mới dẻo, mịn. Kỹ lưỡng hơn nữa, khi gút người ta cho thêm muối vào cho nếp thêm sạch, dễ gút. Nước ngâm nếp phải được để trong lu vài ngày để lắng tạp chất xuống đáy. Điều này giúp bánh được giữ lâu hơn trong ba ngày tết. Khi gói bánh phải gói thật chặt, không được gói lỏng vì dễ làm hư bánh trong khi luộc. Đậu xanh ngâm kỹ, đãi vỏ thật sạch thì nhân mới ngon.
Nói là bánh Tét ngày tết, nhưng dân Nam bộ chia làm 2 loại: Bánh Tét mặn và bánh Tét ngọt. Bánh Tét mặn là loại bánh Tét có nhân đậu xanh với mỡ, thịt ba rọi, một số nơi còn thêm hột vịt muối. Còn bánh Tét ngọt gồm bánh Tét nước tro, bánh Tét nhân chuối, nhân đậu xanh,…Bánh Tét mặn được làm phổ biến vào dịp tết. Người ta chọn mỡ heo hay thịt ba rọi còn tươi, rửa sạch và để ráo nước. Khi gói bánh thì để thịt, mỡ trên lớp đậu xanh. Nếu gói bằng thịt ba rọi, khi cắt bánh, phần chính giữa vừa trong vừa đục, trông rất bắt mắt. Còn bánh Tét nhân mỡ thì phần mỡ trong vắt mới ngon. Ở Tiền Giang, khi làm bánh Tét nhân mỡ, mấy bà lấy mỡ ướp với tí đường, củ hành tím rồi phơi trong thau nhôm chừng 5 đến 6 tiếng. Mỡ ướp hành tím làm cho nhân không nặng mùi, thơm và dễ ăn, khác với ướp tỏi. Phơi mỡ trong thau nhôm để lấy nhiệt cho mỡ dễ chín, săn chắc. Mấy ngày tết, sợ ăn bánh Tét mặn ngán, bà con còn gói thêm bánh Tét ngọt để ăn thêm, đặc biệt ở một số gia đình ăn chay. Bánh Tét ngày Tết bằng nước tro là loại bánh mà nếp được ngâm với nước tro tàu, phần nhân gồm đậu xanh xào chung dừa nạo. Bánh có mùi thơm lạ, màu hơi đen, ăn rất ngon. Gọi bánh Tét chuối vì phần nhân được làm bằng chuối. Người ta chọn loại chuối xiêm chín rục làm nhân. Khi cắt bánh, phần nhân có màu đỏ thẫm, vị ngọt tự nhiên. Ở miệt Bến Tre còn có loại bánh Tét không nhân. Bánh được làm toàn bằng nếp trộn chung với đậu đen hay đậu phộng và nước cốt dừa, ăn rất béo và thơm. Còn ở Tiền Giang, cũng bánh loại này, mấy bà còn cho thêm chuối xiêm chín đã bóp nhỏ vào hỗn hợp đậu, nếp, nước cốt dừa, đậu đen rồi mới gói. Khi cắt ra, bánh gồm nhiều màu, rất bắt mắt và có vị ngọt của chuối, vị bùi của đậu, vị béo của nước cốt dừa, vị dẻo của nếp.
Ở Nam bộ, khi ăn, bánh Tét ngày Tết thường được dùng chung với dưa kiệu, dưa muối cho đỡ ngán. Có người thích ngọt, khi ăn họ còn cho thêm đường trên mặt bánh. Người ta còn dùng bánh Tét thay cơm. Họ chan nước thịt kho tàu dầm tí ớt, trộn thêm dưa giá hay dưa kiệu để ăn chung với bánh. Ăn kiểu này thì ngon và hết sẩy! Vị béo, ngọt của bánh cùng vị chua chua của dưa giá, dưa kiệu và vị mặn mặn, cay cay của nước thịt kho tàu tạo nên một hương vị khó tả và nhớ mãi. Mấy bà nội trợ ở Tiền Giang còn làm thêm món củ cải trắng ngâm với nước tương hoặc nước mắm, bỏ trong hũ sành để ăn kèm với bánh Tét.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết – Mẫu 3
Đối với các gia đình trong mấy ngày tết, thiếu đi những đòn bánh Tét, coi như cái tết không được trọn vẹn. Có lẽ phong tục gói bánh Tét ngày tết đã ăn sâu trong tiềm thức người dân quê tôi.
Làng quê yên bình nằm nếp mình bên dòng Sông Vệ (xã Đức Thắng, Mộ Đức, Quảng Ngãi) những ngày giáp tết lại bận rộn hơn nhiều. Người dân quê tôi lại tất bật lo mọi thứ để chuẩn bị đón tết, vui xuân được ấm cúng. Và đâu đó nồi bánh Tét ngày cuối năm không thể thiếu đối với mỗi gia đình. Nếu trong mỗi chúng ta, đi làm ăn đâu xa, và có những người đã lập gia đình rồi lỡ không về quê nhà đón tết cùng gia đình, thì tết đố thiếu đi một cái gì đó mà khó lòng nói ra được.
Bao lo lắng để ngày về quê kịp đón tết cùng gia đình cũng đến. Trên tay xách đủ thứ quà của người con xa xứ bao năm về quê đón tết, khiến cho đôi tay tôi mỏi nhừ. Hơn 16 giờ đồng hồ ngồi tàu từ Sài Gòn về quê nghèo tỉnh lẻ miền Trung cũng khá vất vả, nhưng trong lòng cảm thấy vui. Vui vì năm này mình được đón tết nơi mình đã sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người.
Xa quê nhiều năm học tập và công tác, hương vị, không khí những ngày giáp tết cũng theo đó mà lùi dần vào quá khứ. Nơi Sài thành, tôi chỉ biết lo công việc cơ quan, rồi tất niên cuối năm ở cơ quan này, ban ngành nọ. Chỉ đến khi nghỉ tết về quê mới cảm nhận được không khí hối hả, tất bật của mọi nhà, mọi gia đình để chuẩn bị đón tết cổ truyền của dân tộc. Đó là khoảng thời gian thấy ấm cùng và hạnh phúc nhất.
Vừa về đến nhà, đã thấy ba, mẹ bày lá chuối và thúng nếp, đậu xanh, thịt và các loại gia vị hành mỡ, cùng đống lạt tre dùng làm dây buộc, chuẩn bị gói những đòn bánh Tét cho ngày tết. Quê tôi dù còn nhiều khó khăn, nhưng mỗi khi tết đến thì mọi nhà không thể thiếu nồi bánh Tét. Đây là những hương vị làm nên không khí ngày tết thêm ấm cúng và mặn nồng.
Đối với các gia đình trong mấy ngày tết, thiếu đi những đòn bánh Tét, coi như cái tết không được trọn vẹn. Vì thế dù khó khăn đến mấy, họ cũng cố lo cho được những đòn bánh Tét để làm cho không khí ngày tết thêm phong phú và vui hơn. Có lẽ phong tục gói bánh Tét ngày tết đã ăn sâu trong tiềm thức người dân quê tôi.
Sau khi gói xong cũng là trời vừa tối, ba tôi lại cho lên bếp lớn mới được kê bằng ba viên đá cỡ lớn giữa sân để bắt đầu nấu. Ánh đèn điện bừng sáng, nồi bánh Tét cũng ngùn ngụt lửa đỏ bừng. Tiếng củi cháy nổ tanh tánh, tôi cùng ba, mẹ và đứa em lại quây quần bên nồi bánh Tét.
Không gian màn đêm nặng mùi khói lửa, ba bắt đầu kể về những chuyện làm ăn năm qua. Kể về những thay đổi cuộc sống của gia đình và các gia đình xung quanh. Câu chuyện ba kể có phần vui hơn những năm về trước, nhờ điều kiện kinh tế được khá hơn, nên quê nhà đón tết với nhiều thứ ấm no hơn.
Những câu chuyện đời trong năm được ba ghi nhớ để dịp cuối năm mang ra kể như một điều gì đó mà bà xưa vẫn hay làm. Cứ thế ba kể trong hơi ấm của nồi bánh Tét đang được nấu chín dần, thỉnh thoảng ba lại dừng lại để đẩy lửa, và câu chuyện ngắt quãng đôi chút. Bên bếp lửa đỏ bừng, sau câu chuyện làm ăn năm qua, ba tôi lại truyền “bí kíp” để làm sao nấu bánh Tét được ngon, dẻo và chín đều, để được lâu.
Ba nói: “Ngoài việc lựa chọn những loại nếp thơm dẻo, ngon và nhân đảm bảo thì cách nấu cũng khá quan trọng. Trước khi nấu, cần cho bánh vào một lượt trong nồi, đổ nước lạnh vào ngập xâm xấp bánh. Sau đó đun lửa cháy đều cho nồi bánh sôi ùng ục quanh đều, giữ đều lửa để bánh chín dần.
Nấu từ 8 đến 9 giờ đồng hồ, bánh Tét mới chín, sau đó nhỏ lửa và để ngâm khoảng vài giờ đồng hồ vớt bánh ra để ráo và treo lên”. Bằng cách nấu này đòn bánh Tét sẽ giữ được lá xanh, cây bánh đẹp và để được lâu ngày, khi dùng cũng rất ngon”.
Quê tôi giờ kinh tế có phần khá hơn, cuộc sống còn hiện đại nên một số gia đình không còn mặn mà gói bánh Tét. Nhưng điều đó không có nghĩa phong tục gói bánh Tét ngày tết bị mai một. Một số gia đình còn nặng lòng với việc gói bánh Tét lại trổ tài gói theo đơn đặt hàng cho mỗi gia đình. Cách làm như thế cũng tiện lợi nhưng tết nhà nào cũng có đòn bánh Tét để cúng ông bà tổ tiên, đãi khách trong những ngày tết.
Bà Nguyễn Thị Hải (xã Đức Thắng, Mộ, Đức, Quảng Ngãi) có thâm niên trong nghề gói bánh Tét theo đơn đặt hàng nhiều năm nay chia sẻ “Trong ba ngày cuối tháng chạp này, mỗi ngày gói trên 100 đòn bánh Tét, để giao cho các gia đình. Trung bình mỗi đòn bán với giá từ 30 đến 40 chục ngàn/đòn. Nhẫm tính mấy ngày tết này kiếm cũng vài triệu đồng để lo sắm sửa mọi vật dụng cho ngày tết của gia đình”.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết – Mẫu 4
Không biết tự bao giờ, đòn bánh Tét đã trở thành món ăn truyền thống và việc gói bánh Tét cũng trở thành một trong những phong tục ngày Tết không thể thiếu của mỗi người Nam Bộ.
Không biết tự bao giờ, đòn bánh Tét đã trở thành món ăn truyền thống và việc gói bánh Tét cũng trở thành một trong những phong tục ngày Tết không thể thiếu của mỗi người Nam Bộ. Nếu ngoài Bắc ngày Tết có bánh chưng xanh thì trong Nam lại là đòn bánh Tét. Và mỗi loại bánh lại có một số phận và nguồn gốc riêng của nó. Nếu chiếc bánh chưng gắn liền với “Sự tích bánh chưng bánh dày” của hoàng tử thứ 18 con Vua Hùng là Lang Liêu tượng trưng cho trời tròn đất vuông thì đòn bánh Tét cũng có những giai thoại ly kỳ về nguồn gốc và ý nghĩa riêng.
Sự tích đòn bánh Tét ngày Tết Nam Bộ. Theo những ghi chép còn sót lại, đòn bánh Tét có nguồn gốc từ chủ nhân vùng đất này. Đó là người Chăm Pa trong lịch sử (tiền thân là người Sa Huỳnh) định hình lãnh thổ quốc gia dân tộc từ cuối thế kỷ thứ II sau Công nguyên (cách ngày nay khoảng gần 2 thiên niên kỷ). Khi ấy, người Chăm có một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao. Nền văn hóa ẩm thực cũng phong phú.
Theo lý giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng, rất có thể, đòn bánh Tét mà người trong Nam dùng trong ngày Tết hôm nay là sản phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt Chăm hay cũng có thể là sự kế thừa những giá trị của lớp tiền nhân đi trước để lại. Khi người Việt vào khai hoang mở hóa vùng đất phương Nam, do sự tiếp thu yếu tố tín ngưỡng đa thần của nền văn hóa Chăm, trong đó có tín ngưỡng Phồn thực, thờ thần lúa.
Từ sự hình tượng hóa của yếu tố Linga của thần Siva (mà nay còn biểu hiện rõ nhất ở khu đền tháp Mỹ Sơn) cùng với tín ngưỡng nông nghiệp vốn có nên các cư dân Việt sau này đã tạo ra chiếc bánh Tét như ngày nay. Rồi dần đà, đòn bánh Tét được sinh thành và “thai nghén” lúc nào cũng không rõ.
Bên cạnh đó, có một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh Tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh Tét trong ngày Tết như sau. Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh Tét ngày nay. Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.
Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.
Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh Tét trong ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam.
……………
Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!