Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình, Xin giới thiệu tài liệu Tuyển tập Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia
Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô và các bạn học sinh bài văn mẫu “Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình” được chúng tôi tổng hợp chi tiết, chọn lọc các bài văn hay nhất và đăng tải ngay sau đây.
Hy vọng đây là tài liêu bổ ích giúp mang lại cho các em học sinh tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo và tải mẫu tại đây.
Dàn ý chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình
I. GIỚI THIỆU:
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu lớn, đặc biệt là trong mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hai truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm.
II. NỘI DUNG:
1. Thế nào là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong văn học?
Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến p và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
2. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện như thế nào trong hai truyện ngắn?
a. Về tác giả: Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.
b. Về hoàn cảnh sáng tác: Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
c. Về hình tượng nhân vật của hai truyện ngắn:
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược:
– Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc:
+ Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết. (Rừng xà nu)
+ Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nứơc, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình)
– Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc:
+ Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay.
+ Chiến và Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
– Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm:
+ Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.
+ Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
+ Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn lao khiến kẻ thù phải run sợ.
Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
3. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt:
– Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình.
– Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước.
– Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
III. KẾT LUẬN: Qua hai tác phẩm, ta thấy:
– Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”.
– Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo./.
Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình – Mẫu 1
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là những mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hừng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hai tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và cam thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống lại giặc ngoại xâm.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hòan cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Nguyễn Trung Thành sinh 1932, khi mới 18 tuổi, năm 1950, ông đã vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo quân đội nhân dân Liên khu V, những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V đã giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên, để sau khi tập kết ra Bắc có thể viết những cuốn tiểu thuyết cho sự nghiệp văn chương của mình thấm đẫm tinh thần cách mạng dân tộc. Còn Nguyễn Thi sinh năm 1928, khi mới 17 tuổi, năm 1945, ông đã tham gia cách mạng rồi gia nhập lực lượng vũ trang. Ông trở thành một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời ì kháng chiến chống Mỹ. Chính từ những năm tháng tham gia chiến đấu đó, Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Những nhân vật chính trong hai câu chuyện đều là là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc. Làng Xô Man- quê hương Tnú ở trong tầm đại bác của giặc, nơi mà từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn”. Còn Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ.
Những con người đó đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc. Tnú có một mối tình với Mai đẹp tựa như trong truyện truyền kì, cuộc đời còn hứa hẹn biết bao hạnh phúc ở trước mắt nhưng chính Tnú lại có một số phận đầy bi kịch. Kẻ thù đã bắt vợ con anh và tra tấn họ đến chết. Tnú tận mắt chứng kiến tất cả và lòng căm thù, long yêu thương đã khiến đôi mắt anh hiện lên như hai hòn lửa lớn. Anh lao thẳng vào lũ giặc nhưng vẫn không thể cứu được vợ con, vì anh chỉ có hai bàn tay trắng, không vũ khí. Bản thân anh cũng bị địch bắt, và thật là đau xót, anh bị chúng đốt cả mười đầu ngón tay bằng chính thứ nhựa xà nu vàng óng, thơm mát của quê hương mình. Đó là một bi kịch vô lí và đớn đau.
Còn Chiến và Việt, những đứa trẻ còn thơ, mới lớn đã phải chứng kiến cái chết đầy thương tâm của ông nội và bố, mẹ vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe dọa, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì đạn bom.
Và những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
Chịu bao thương đau, mất mát nhưng họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú là nhân vật được kết tinh từ vẻ đẹp tiêu biểu nhất của con người Tây Nguyên: gan góc, dũng cảm, mạnh mẽ và rất giàu lòng yêu thương. Trước hết, Tnú rất gắn bó với cách mạng. được cụ Mết chỉ bảo nên ngay từ lúc nhỏ, Tnú đã tham gia việc nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công việc giao liên. Nhiều đêm Tnú phải ngủ lại trong rừng vì sợ lỡ giặc lùng ai dắt cán bộ chạy. Tnú luôn nghe lời chỉ huy của cán bộ. Được anh Quyết dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học tập. Không có bảng, không có phấn, Tnú lấu nứa làm bảng và để ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lết đầy đá trắng làm phấn. Khi Tnú tỏ ra chán nản vì mình tối dạ, học không nhớ được thì một lời động viên của anh Quyết đã truyền thêm sức mạnh tinh thần giúp Tnú cố gắng hơn. Tnú vô cùng gan dạ, dũng cảm. Ngay từ ngày làm giao liên, Tnú không bao giờ chịu đi đừng mòn, cứ xé rừng mà đi, lọt tất cả vào các vòng vây. Qua sông, Tnú không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang. Khi bị giặc bắt, Tnú can đảm chịu những đòn tra tấn, để sau khi vượt ngục vẫn tiếp tục cùng cụ Mết lãnh đạo dân lang Xô Man mài giáo, mài rựa chống lại kẻ thù. Khi bản làng bị càn quét, vợ con Tnú bị giặc hành hạ, giết chết một cách giã man, nhất là khi anh bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu để đốt mười ngón tay thành mười ngọn đuốc. Tnú càng thấm thía nỗi đau thương và căm thù giặc, dần dần nhận thức sâu sắc về kẻ thù và quyết tâm hành động. Anh ra đi “ lực lượng” quyết tiêu diệt cho hết kẻ thù tàn ác, bởi lẽ “ chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục cả”. Ngoài ra Tnú là một con người giàu tình cảm yêu thương. Anh yêu thiết tha bản làng. Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa hững con người mộc mạc, thuần hậu, Tnú thấy gắn bó thân thiết với cảnh và người ở quê hương mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô cùng xú động. Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, nơi mà ngày xưa Mai đã thổ lộ tình cảm yêu mến ngay khi anh mới ở tù về. Anh cũng bồi hồi khi ghe tiếng chày dã gạo của người dân làng, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà, những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa mà suốt cuộc đời anh vẫn nhớ. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chính vì yêu thương rất nhiều nên anh căm tù sâu sắc bọn giặc đã dùng cây sắt đánh chết vợ con anh. Anh cũng yêu thương mọi người. Làng Xô Man đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân thiết. Những cặp mắt tròn xoe rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo vui của mọi người đã thể hiện niềm vui mừng khi đón Tnú về làng. Vô cùng dũng cảm khi đối diện với kẻ thù, tha thiết yêu thương bản làng, quê hương, ấp ôm một kỉ niệm đớn đau về cái chết của vơ con, luôn luôn gắn bó với cách mạng, ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ.
Còn với những đứa con trong gia đình, Trước hết là nhân vật Chiến , người con gái mang vẻ đẹp kiểu Út Tịch, một vẻ đẹp rất riêng của người phục nữ Nam bộ mà Nguyễn Thi vẫn hằng ưa thích: hồn nhiên, chất phác, tảo tần, biết lo toan việc nước, việc nhà trọn vẹn mọi bề trước sau, đánh giặc thì xông xáo, gan góc, dũng cảm mà trở về với cuộc sống thường nhật lại rất giàu tình cảm và long yêu thương. Trong kí ức của Việt, chị Chiến như là sự hiện thân, sự kế thừa của má. Chị Chiến cũng mang vóc dáng của mẹ mình” hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to và chắc nịch”. Đặc biệt nhất là cai đêm hai chị em sắp xa nhà đi bộ đội. Phải tự mình đứng ra lo liệu việc nhà, thu xếp để cùng Việt lê đường, Chiến mới bộc lộ hết tính cách người lớn, đảm đang, tháo vát, biết thay mẹ quán xuyến, cắt đặt mọi việc trong nhà đâu ra đấy, từ việc em út, nhà cửa, ruộng vườn, cho đến cả cái giường, ván và nơi gửi bàn thờ má. Chưa bao giờ Việt lại thấy chị Chiến liệu việc nhà giống má đến như vậy:” Chà, chị Chiến bữa nay nói in hệt má vậy. Cũng ở trong giường mà nói với ra, cũng nằm với thằng út em, ở trên cái giường đó”. Chính Chiến đêm ấy cũng thấy mình như đang hòa vào mẹ. Cho nên không phải ngẫu nhiên đén sáng hôm sau. khi nghe Chiến trình bày láịư sắp đặt của mình, chú Năm đã phải khen “ Khôn, việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mới mở được rộng, gọn bề gia đàng bề nước non…” Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm tuy tuổi đều còn nhỏ, nhưng so với Việt, Chiến chỉ hơn Việt một tuổi mà đã người lớn hơn hẳn Việt. Chiến cũng gắn bó với lớp người đi trước nhiều hơn. Chị có thể bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của gia đình. không chỉ giống má, Chiến còn học được cả cách nói “ trọng trọng” của chú Năm. Ví truyền thống cách mạng của cả gia đình là một dòng sông và mỗi người là một khúc sông của dòng sông ấy thì so với lớp người đi trước, Chiến là một khúc sông sau. Khúc sông bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước. Đấy cũng là chõ để Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất chồn đã không có dịp nào được cầm súng, còn Chiến đã được đi bộ đội để đánh giặc trả thù nhà với quyết tâm : Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. và Chiến đã lập được nhiều chiến công lớn, bắn chìm tàu chiến của địch trên sông Dịch Thuỷ, trở thành một tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân tỉnh Bến Tre….
Việt là hình tượng nhân vật xuất hiện nhiều hơn cả và cũng chịu đựng nhiều nét tâm lí, tính cách khá độc đáo. người đọc thích nhân vật này trước hết ở cái vẻ ngoài lộc ngộc, vô lo vô nghịch của cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Nhưng sự trẻ con vô tư vẫn không ngăn cản Việt trở thành một dũng sĩ giết Mỹ. Ngược lại chính nó càng làm cho phẩm chất anh hùng của Việt ngày thêm độc đáo. Đọc truyện ta chưa thấy lúc nào Việt hết ngây thơ, nhưng ta vẫn chưa thấy lúc nào Việc phải chịu khuất phục trước sự tàn bạo của quân giặc. Ngay từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng giặc đã giét cha mình. Đến lúc bị thương nặng, nằm lại một mình giữa chiến trương mênh mông bóng tối, đôi mắt không còn nhìn thấy gì và hai bàn tay còn tê nhức đến dại đi, vậy mà lúc tỉnh lại, nghe tiếng trực thăng trên đầu và tiếng pháo cày trước mặt vẫn ăn thua sống mái vói quân thù: “ trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, Việt coi việc đi đánh giặc nó cũng tự nhiên như chuyện đi bắt ếch hay đi bắn ná thun thôi, đánh giặc kì cho đến lúc đền được nợ nước, trả xong thù nhà thì cũng là chuyện tự nhiên thường tình, chứ có gì đâu mà phải bắn hay nghỉ ngơi. Việt chính là hiện thân của khí thế tiến công của thời ậi và cùng với chị Chiến “những người con trong gia đình” đã thật sự cứng cáp, trưởng thành, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
Và chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn lao khiến kẻ thù phải run sợ. Như vậy, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt: Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “Trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình. còn trong những đứa con trong gia đình, Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước. Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
Nghệ thuật sử thi với những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước đã góp phần phản ánh sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng yêu nước. Đó là những lời ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu, hi sinh.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Hai tác phẩm với Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
Chủ nghĩa anh hùng qua Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình – Mẫu 2
Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc trong bất kì hoàn cảnh khốc liệt nào. Đó là vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng tiêu biểu cho cả dân tộc. Cũng xoay quanh đề tài này, không ít những nhà văn nhà thơ đã cho ra đời những tác phẩm đi cùng thời gian. Không nằm ngoài nó, cùng viết về đề tài người anh hùng cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai nhà văn Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành cũng đã góp cho làn gió văn học Việt Nam hai tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm. Đó chính là hai tác phẩm Rừng xà nu và Những đứa con trong gia đình.
Đầu tiên, là Rừng xà nu. Tác phẩm được Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965 – thời điểm mà của nước sục sôi đánh Mỹ, hoàn thành ở khu căn cứ chiến trường miền Bắc Trung Bộ qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trung Thành, tác phẩm cất lên như một bản anh hùng ca tráng lệ, là một biểu tượng cho tinh thần bất khuất kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào ta nói chung. Thông qua những nhân vật anh hùng, dũng cảm tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một Tây Nguyên với thiên nhiên và con người có sức sống bất diệt trong huỷ diệt.
Truyện kể về cuộc đời Tnú, một người con trai lang Xô Man đi lực lượng đã ba năm nay được về phép thăm làng. Lồng trong tác phẩm là câu chuyện nổi dậy của dân làng Xô Man. Làng Xô Man của Tnú nằm trong tầm đại bác của đồn giặc đã trở thành làng chiến đấu. Bé Heng đưa anh về làng, cả làng mừng vui đón anh. Tối hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả buôn làng nghe về cuộc đời của Tnú: mồ côi cha mẹ, lớn lên trong tình yêu thương của dân làng, mới bảy, tám tuổi đã cùng Mai đi tiếp tế làm giao liên cho cán bộ Quyết trong rừng. Có lần Tnú bị bắt, bị giam cầm, bị đánh đập tra khảo dã man nhưng anh vẫn nhất quyết không khai. Vượt ngục trở về thì anh Quyết đã hi sinh. Nghe lời anh, Tnú đã cùng đám thanh niên cầm giáo mác chuẩn bị vũ khí chiến đấu. Bọn giặc ập tới khủng bố, thanh niên trốn hết vào rừng, chúng bắt vợ con Tnú tra khảo cho đến chết, Tnú xông ra cứu nhưng không kịp, anh bị bắt và bị đốt cháy mười đầu ngón tay. Dân làng, dưới sự chỉ huy của cụ Mết cầm giáo mác đứng lên tiêu diệt bọn ác ôn cứu Tnú. Sau đó, Tnú tham gia lực lượng vũ trang. Được chỉ huy cho về thăm làng một đêm. Sáng hôm sau, cụ Mết, Dít tiễn Tnú lên đường trước cánh rừng xà nu bát ngát nối tiếp nhau chạy tới tận chân trời.
Tiếp theo là Những đứa con trong gia đình, ra đời vào năm 1966 qua giọng văn của Nguyễn Thi – một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ sĩ giải phòng miền Nam. Với một kết cấu thuật lại qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt đứt nối sau những lần ngất đi, tỉnh lại càng làm cho truyện giàu cảm xúc, diễn biến linh hoạt, không tuân theo trật tự thời gian. Thêm vào đó, ngôn ngữ của nhân vật thấm đẫm màu sắc Nam Bộ, sinh động, ấn tượng tạo nên màu sắc địa phương độc đáo của tác phẩm.
Truyện được viết chủ yếu dựa trên dòng hồi tưởng của nhân vật Việt. Kí ức của nhân vật mở ra trong từng trang của quá khứ, một quá khứ không xa xôi, đó là những ngày sống trong gia đình với ba, má, chị Chiến với bao kỉ niệm tốt đẹp. Truyện kể về chiến sĩ Việt bị thương trong một trận đánh. Việt tấn công xe bọc thép bằng thủ pháp và tiêu diệt được nó. Bị ngất đi, lạc đồng đội, nằm giữa một khu rừng xa vắng, Việt tỉnh lại nhiều lần sau cơn ngất. Anh nhớ lại những kỉ niệm về gia đình, về ba má, về chị Chiến, nghĩ đến đồng đội, nghĩ đến sự sống và cái chết. Những suy nghĩ đã góp phần nói lên phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân. Lần thứ nhất tỉnh dậy, thấy trời đất tối đen, trận địa thì phẳng lặng, mùa xác chết tanh tưởi, hôi hám của lính Mĩ, rồi hố bom, công sự, Việt lê từng bước với những vết thương rỉ máu. Cảnh ngộ trong hiện tại thật bi đát, nhưng người chiến sĩ vẫn vượt lên. Anh vẫn hồi tưởng về những kỉ niệm đẹp về gia đình, về tình chị em. Lần thứ hai tỉnh dậy, nghe tiếng ếch nhái kêu, Việt nhớ lại những ngày cùng chị Chiến đi bắt ếch, Việt thường dành phần nhiều cho mình. Một lần đi đánh Mĩ trên sông Địch Thuỷ, bắn được một thằng Mĩ, Việt cũng đòi tranh công và chị Chiến lại nhường cho em. Lần thứ ba tỉnh dậy, tiếng súng của kẻ thù vẫn nổ. Xe bọc thép chạy mỗi lúc một gần, pháo nổ càng gần hơn. Bị thương nên Việt rất đau đớn, mắt không nhìn rõ được vật gì, anh nghĩ tới hoàn cảnh nếu không may bị địch bắt và giết chết. Việt không sợ chết những lại suy nghĩ nhiều nếu chết mà không được sống chung với anh Tánh và không còn được đi bộ đội thì buồn lắm. Lần thứ tư tỉnh dậy, Việt vẫn nghe tiếng súng từ xa vọng lại. ý nghĩ trở về sâu sắc nhất là ngày đầu nhập ngũ, lúc đó Việt mới mười tám và chị Chiến mười chín. Hai chị em tranh nhau đi bộ đội để trả thù cho má. Những chi tiết cuối cùng rất cảm động, hai chị em cùng đi bộ đội, họ bàn bạc đem bàn thờ má qua gửi nhà chú Năm. Câu chuyện kết thúc khi Việt gặp lại đơn vị và được đưa đi điều trị chu đáo. Việt lại nhớ đến chị Chiến với biết bao những tình cảm xúc động nhớ thương.
Đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trước tiên thể hiện ở những nhân vật mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, từ đau thương trỗi dậy để chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc. Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ. Trong khi đó Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc. Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. Cùng với đó, những đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra cho họ đều tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc. Tnú thì chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Chiến và Việt lại chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc. Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tnú lên đường đi lực lượng dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì với họ, chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.