Đề thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2020 – 2021 sở GD&ĐT Kiên Giang, Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT môn Toán Sở GD&ĐT Kiên Giang năm học 2020 – 2021 có đáp án được
Đề thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2020 – 2021 Sở GD&ĐT Kiên Giang là tài liệu ôn thi vào lớp 10 hữu ích dành cho các bạn học sinh.
Việc luyện tập với đề thi sẽ giúp các bạn củng cố lại kiến thức và rút kinh nghiệm trong quá trình làm bài thi xét tuyển vào lớp 10 sắp tới. Sau đây là nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
Đề thi vào lớp 10 môn Tiếng Anh năm 2020
Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Tiếng Anh năm 2020
1-D | 2-C | 3-A | 4-D | 5-B | 6-B | 7-C | 8-A | 9-D | 10-C |
11-D | 12-B | 13-A | 14-C | 15-D | 16-A | 17-C | 18-B | 19-C | 20-A |
21-D | 22-B | 23-C | 24-D | 25-D | 26-C | 27-C | 28-D | 29-C | 30-C |
31-B | 32-A | 33-B | 34-C | 35-D | 36-B | 37-C | 38-B | 39-C | 40-A |
41-D | 42-C | 43-A | 44-B | 45-C | 46- | 47- | 48-D | 49-A | 50-B |
Đề thi vào lớp 10 môn Toán năm 2020
Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Toán năm 2020
Trắc nghiệm:
Câu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
Trắc nghiệm | A | C | C | D | A | D | B | C | D | B | A | D | C | B | D |
Tự luận:
Đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn năm 2020
Sở GD&ĐT Kiên Giang ĐỀ CHÍNH THỨC |
KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 NĂM HỌC: 2020 – 2021 Môn: Văn |
I. Phần Đọc hiểu.
Đọc đoạn trích sau:
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lét đưa nhau ra đâu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con là Việt gian đấy ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đầy tr? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
– Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
Ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lăm. Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được. Ông kiểm điểm từng người trong óc. Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một công một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!…
(SGK Ngữ văn 9, tập 1, trang 166, NXB GD năm 2017)
Và thực hiện yêu cầu:
Câu 1:(1,0 điểm) Đoạn văn trên trích trong tác phẩm nào? Do ai sáng tác? Nêu khái quát nội dung của đoạn trích.
Câu 2:(1,0 điểm) Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ trong những câu văn: Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đây tr? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đây?
Câu 3: (1,0 điểm) Chỉ ra phương thức liên kết và phương tiện liên kết được sử dụng trong những câu văn:(1)ông kiểm điểm từng người trong óc. (2) Không mà, họ toan là những người có tinh thần cả mà. (3)Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một Che Vo giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!…
II. Phần Làm văn.
Câu 1: (2,0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về tác động của những lời phê phán, chỉ trích vội vàng thiếu căn cứ trên mạng xã hội.
Câu 2: (5,0 điểm) Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Nhr sa như ùa vào buồng lái.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục)
Đáp án đề thi văn vào 10 năm 2020
I. Đọc hiểu
Câu 1. Đoạn văn trên được trích trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân.
Nội dung đoạn trích: Ông hai trở về nhà sau khi nghe tin làng theo giặc, nhìn lũ con, ông càng thương cảm biết bao.
Câu 2. Biện phép tu từ điệp cấu trúc: “Chúng nó”.
Tác dụng: thể hiện sâu sắc hơn tâm trạng: nỗi đau đớn, xót xa của ông Hai, thương thân, thương con khi nghĩ đến những đứa con của mình bị hắt hủi, xa lánh vì chúng là trẻ con của làng Chợ Dầu (trong tình huống có tin làng Chợ Dầu theo giặc).
Câu 3.
- Phép nối: “không mà”
- Phép lặp: “họ”
- Phép thế: “từng người” – “họ”
II. Làm văn
Câu 1:
I. Mở đoạn
Dẫn dắt để đi vào vấn đề cần bàn luận là tác động của những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội.
I. Thân đoạn
– Dẫn dắt: Sự phát triển của XH 4.0, mạng xã hội ngày càng phát triển mạnh, mẽ, nhiều người sử dụng, có sức mạnh như thế giới thứ 2.
– Giải thích:
- Những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội là gì?
- Những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội do ai thực hiện và với mục đích gì?
– Bàn luận (trọng tâm):
+ Các biểu hiện, cách thể hiện của những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội
+ Các tác hại của những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội
- Ảnh hưởng đến tâm lý của đối tượng bị hướng đến (đau khổ, buồn bực, tự ti, buồn chán, tách mình khỏi xã hội, có suy nghĩ tiêu cực, bất cần…)
- Ảnh hưởng đến cuộc sống, thể xác của đối tượng bị hướng đến (mất đi bạn bè, công việc khó hòa nhập xã hội, mất đi các cơ hội…)
→ Dễ dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng như tự tử, trả thù đời… Khiến cuộc đời nạn nhân khó trở về bình thường
(HS lấy dẫn chứng cụ thể và phân tích)
+ Hiện trạng hiện nay trong xã hội về vấn đề tràn lan những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội.
+ Lý do xuất hiện nhiều trường hợp có những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội.
+ Cách khắc phục, đẩy lùi, tiêu trừ những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội (các biện pháp răn đe, tuyên truyền, giáo dục…)
+ Những điều cần làm với những nạn nhân của tình trạng này
– Liên hệ chính bản thân mình (cần làm gì và không làm gì để ngăn tình trạng này không xảy ra)
III. Kết đoạn
– Nêu những cảm nhận, suy nghĩ chung của em về vấn đề đã bàn luận, chốt lại 1 lần nữa về tác hại mạnh mẽ của những lời phê phán, chỉ trích vội vàng, thiếu căn cứ trên mạng xã hội và sự cấp thiết của việc tiêu trừ chúng.
Câu 2:
Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm như thế.
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở tuyến Trường Sơn với tư thế hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Hình ảnh những chiếc xe trần trụi, xây xước, móp méo, không kính, không đèn mà vẫn băng băng trên đường ra tiền tuyến, chở quân, chở súng đạn, lương thực hướng về miền Nam là hình ảnh thực và thường gặp trong những năm tháng chống Mĩ gian lao và hào hùng. Hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là một thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền tuyến. Hình ảnh ấy, lần đầu tiên và cũng là duy nhất cho đến nay khơi dậy cảm hứng thơ của Phạm Tiến Duật.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Thật ra có thể nói một cách đơn giản: Xe không có kính vì bom giật, bom rung. Nhưng nhà thơ lại chọn cách nói như là muốn tranh cãi với ai. Giọng điệu ngang tàng, lí sự với cấu trúc không có…không phải vì không có…Giọng này phù hợp với tính cách ngang tàng dũng cảm, đầy nghị lực, tính tếu nhộn của những lái xe Trường Sơn. Cách giải thích này cũng gợi lên cái ác liệt của chiến tranh, người lính luôn cận kề với hiểm nguy, với cái chết nhưng coi đó như chuyện bình thường. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của dịch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính. Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.
Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe Trường Sơn – chủ nhân những chiếc xe không kính. Những người lính lái xe điều khiển những chiếc xe không kính kì lạ trong tư thế ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, tự tin. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném…. vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực đến thế. Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt, trái lại tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng…. “ung dung…. nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung…. thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của người chiến sĩ trên những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn” cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ, chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dặn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng, cảm giác của người lái xe trên chiếc xe không kính. Với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, các anh nhìn thấy từ “gió”, “con đường” đến cả “sao trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm. Điệp từ “nhìn” có tác dụng khẳng định tư thế, thái độ của người lính. Qua khung cửa xe không còn kính chắn gió, người lính lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng / Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Câu thơ diễn tả được cảm giác về tốc độ trên chiếc xe đang lao nhanh không có kính chắn gió nên mới thấy đắng mắt, cay mắt, khi gió thổi thốc vào mặt. Qua khung cửa đã không có kính, không chỉ mặt đất mà cả bầu trời với sao trời, cánh chim cũng như ùa vào buồng lái. Nhà thơ diễn tả chính xác các cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.
Vậy đấy, hai khổ thơ tả thực những khó khăn gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường. Xe hư hỏng không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước, nhưng xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Tất cả vì tiền tuyến, vì mặt trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt trận. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.