Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay (Dàn ý + 5 mẫu), Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay là một tài liệu văn mẫu lớp 12 hữu ích
Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 12: Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay, đã được chúng tôi sưu tầm và đăng tải tại đây.
Hiện nay, giới trẻ thường giao tiếp với mọi người xung quanh bằng những ngôn ngữ rất lạ mà khiến chúng ta không thể hiểu được. Dưới đây là dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu lớp 12: Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay, mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ
- 2 Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 1
- 3 Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 2
- 4 Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 3
- 5 Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 4
- 6 Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 5
Dàn ý nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ
I. Mở bài:
– Cùng với quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Vì thế từ khi nước ta bắt đầu hội nhập thì ngôn ngữ cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, ngữ nghĩa mà trong vốn tiếng Việt trước đó còn thiếu vắng. Cùng với mặt tích cực ấy, mặt tiêu cực cũng biểu hiện với không ít các cách nói, cách viết “khác lạ” trong giới trẻ làm mất đi hoàn toàn bản sắc vốn có của tiếng Việt.
II. Thân bài:
* Giải thích
– Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người và xã hội loài người, đảm bảo một mặt truyền đạt và hiểu biết lẫn nhau của các thành viên xã hội. Ngôn ngữ không chỉ truyền đạt thông tin mà còn tác động đến nhân cách, hình thành nhân cách và biến đổi theo chiều hướng tốt hoặc xấu.
– Ngôn ngữ không chỉ là tấm gương phản chiếu thụ động đời sống xung quanh mà còn can thiệp vào bức tranh thế giới nhân cách, và văn hóa ngôn ngữ của nó, đặt vào nó nhãn quan thế giới, chỉnh sửa, làm biến đổi nhân cách một cách hợp lý.
* Thực trạng văn hóa ngôn ngữ giao tiếp ở giới trẻ hiện nay
– Trào lưu, “mốt” sử dụng tiếng lóng, ngoại ngữ, ngôn ngữ @ để giao tiếp trở thành yếu tố để muốn tự khẳng định đẳng cấp của mình đang xâm nhập và lan tỏa ở giới trẻ hiện nay.
– Xu hướng lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ trong giao tiếp của giới trẻ biểu hiện dưới các dạng:
+ Lạm dụng quá nhiều tiếng lóng, từ địa phương cũng như vay mượn từ nước ngoài.
+ Những hiện tượng biến đổi ngôn ngữ Tiếng Việt như: gọi đơn vị tiền tệ bằng “k”, chê người khác là “cùi bắp”, hoặc nhại âm, cắt âm…có biểu hiện lệch chuẩn.
+ Ngôn ngữ “Chat” có nhiều kiểu viết tối nghĩa, hoặc biến âm, hoặc biến nghĩa cẩu thả.
+ Hiện tượng nói tục chửi bậy đã trở nên phổ biến mở mọi lớp người, nhưng đặc biệt nghiêm trọng trong thế hệ trẻ.
* Hậu quả
– Trước hết, không thể phủ nhận rằng, việc sử dụng tiếng lóng, ngôn ngữ nước ngoài cũng có tác dụng nhất định như: khả năng truyền đạt thông tin nhanh, tiết kiệm thời gian (chủ yếu dùng ký hiệu, viết tắt), có những yếu tố sáng tạo… làm cho hoạt động giao tiếp cũng phong phú hơn.
– Tuy nhiên, lạm dụng tiếng lóng, tiếng nước ngoài hiện nay ở giới trẻ khiến cho tiếng Việt có nguy cơ bị xâm hại xét về phương diện văn hóa ngôn ngữ.
+ Làm cho ngôn ngữ dân tộc bị méo mó, mất giá trị văn hóa của tiếng Việt, mất bản sắc văn hóa ngôn ngữ nước nhà.
+ Làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt và gây ảnh hưởng nguy hại đối với văn hóa ứng xử của con người.
* Nguyên nhân
– Sự bùng nổ của công nghệ thông tin là mảnh đất để lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ có cơ hội phát triển (Internet, điện thoại…).
– Sự buông lỏng, thiếu sự quản lý chặt chẽ các trang báo mạng xã hội, các thông tin quảng cáo và kiểm duyệt các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là truyền hình:
+ Các phương tiện thông tin đại chúng trong xã hội gây ảnh hưởng lớn đối với sự hình thành các giá trị, thế giới quan, đạo đức của thế hệ trẻ. Việc tiếp cận các văn hóa phẩm lệch lạc dễ dàng khiến cho giới trẻ mất kiểm soát bản thân.
+ Một số báo cũng đang ra sức cổ xúy cho sự lệch lạc văn hóa ngôn ngữ ở giới trẻ qua những bài viết lạm dụng một cách có ý thức nhằm câu khách, gây ấn tượng đối với độc giả trẻ. Đặc biệt là hiện tượng ăn theo sự kiện, vụ lợi của các kênh truyền hình vô tình biến một hình tượng lệch lạc trở thành trào lưu nóng, thu hút giới trẻ quan tâm và bắt chước.
– Mặt khác, các nhạc phẩm của các ban nhạc, lời của các bài hát sử dụng từ ngữ thiếu chuẩn mực, chạy theo thời thượng.
* Giải pháp
– Về phía gia đình: Bố mẹ phải làm gương trong việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như tiếng nước ngoài; những lệch lạc trong văn hóa ngôn ngữ (viết, nói, giao tiếp) trẻ tiếp thu, bắt chước rất nhanh.
– Về phía nhà trường, xã hội:
+ Giáo dục học sinh ý thức bảo vệ sự trong sáng tiếng Việt khi giao tiếp qua điện thoại, mạng xã hội; tự trau dồi và làm phong phú vốn ngôn ngữ cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài để nâng tầm văn hóa trong giao tiếp và tư duy; dạy đúng chuẩn tiếng Việt; không sử dụng tiếng lóng khi giao tiếp với học sinh… Không sử dụng sách giáo khoa, từ điển kém chất lượng và có nhiều sai sót; nghiêm cấm các hành vi chửi bậy, nói bậy trong nhà trường.
+ Phải có những biện pháp cứng rắn để bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Kiên quyết loại bỏ những chương trình phát sóng trên truyền hình không đảm bảo chất lượng và trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Kiểm soát chặt chẽ thông tin mạng, sàng lọc thông tin kỹ lưỡng trước khi người đọc tiếp cận.
– Mỗi học sinh tự trau dồi và rèn luyện tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài để có vốn từ phong phú và sử dụng đúng chuẩn mực. Không nên chạy theo lối giao tiếp dễ dãi, lệch lạc mà làm mất đi văn hóa giao tiếp của chính mình.
* Bài học nhận thức và hành động
– Nhận thức: giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi công dân nước Việt, đặc biệt là thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước, cũng là đối tượng nhạy cảm nhất với cái mới – càng cần tỉnh táo, bản lĩnh trước thời hội nhập, để góp phần giữ vững bản sắc ngôn ngữ dân tộc mình.
– Hành động:
+ Luôn ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, rèn luyện ngôn ngữ giao tiếp, vận dụng đúng đắn các phương tiện giao tiếp trong cuộc sống cũng như trong học tập.
+ Luôn cập nhật, tiếp thu có chọn lọc những giá trị mới của thời hiện đại; hòa nhập nhưng vẫn giữ được phẩm chất trong sáng của người học sinh.
III. Kết bài:
Vấn đề văn hóa ngôn ngữ và giáo dục văn hóa ngôn ngữ cho thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay đã trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Là chủ thể của nhận thức và hành động, giới trẻ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở “kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại…”.
Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 1
Cùng với quá trình hội nhập thế giới, sự giao thoa văn hóa xã hội đòi hỏi ngôn ngữ phải có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Vì thế, từ khi nước ta bắt đầu hội nhập thì ngôn ngữ cũng dần dần xuất hiện những hiện tượng mới mẻ. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh những từ ngữ mới, tiến bộ thì không ít những từ ngữ tối nghĩa, tục tĩu cũng xuất hiện. Kèm với nó là thái độ giao tiếp của học sinh hiện nay cũng xuống cấp trầm trọng đến mức báo động. Ngôn ngữ giao tiếp của học sinh ngày nay là vấn đề cần phải quan tâm sâu sắc.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đồng thời là phương tiện để con người tư duy và giao tiếp, thiết lập các mối quan hệ trong xã hội. Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống hình thức của các dấu hiệu được điều chỉnh bởi các quy tắc kết hợp theo ngữ pháp để truyền tải ý nghĩa. Định nghĩa này nhấn mạnh rằng ngôn ngữ con người có thể được mô tả như hệ thống kết cấu khép kín. Hệ thống này bao gồm các quy tắc ánh xạ các dấu hiệu đặc biệt tới các ý nghĩa đặc biệt.
Giao tiếp là một quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó. Mục đích của giao tiếp là nhằm thiết lập và củng cố các mối quan hệ xã hội. Hoạt động giao tiếp có thể tiến hành bằng ngôn ngữ hoặc bằng các hệ thống ký hiệu khác. Trong đó, giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động giao tiếp chủ đạo trong đời sống con người.
Hiện nay, nảy sinh vấn đề lệch chuẩn trong ngôn ngữ trong giao tiếp của học sinh. Xu hướng lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Một thực trạng cho thấy ngày nay năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp của học sinh rất kém. Tình trạng này còn biểu hiện cả trong học tập. Không những sử dụng không đúng chức năng ngôn ngữ mà lối giao tiếp còn bộc lộ sự thô lỗ, thiếu lịch sự tế nhị.
Học sinh ngày nay làm dụng quá nhiều tiếng lóng, tiếng bồi trong giao tiếp. Điều này trước đây ít thấy hoặc không thấy xuất hiện. Việc giao tiếp kém còn thể hiện cả trong hành vi và lối sống.
Không thể đổ lỗi cho quá trình hội nhập quốc tế hay sự phát triển công nghệ thông tin. Trước đây, khi nền văn hóa phương Tây ồ ạt xâm nhập vào nước ta thông qua các nhà truyền giáo, người Pháp hay người Mỹ, có làm cho ngôn ngữ giao tiếp nước ta thay đổi nhưng theo chiều hướng tích cực. Nó bổ sung vào hệ thống từ vựng và làm trong sáng thêm Tiếng Việt dựa trên các nguyên tắc chuẩn mực. Còn ngày nay, với ý thức sử dụng ngôn ngữ tùy tiện, cẩu thả, thiếu trách nhiệm của giới trẻ làm cho ngôn ngữ giao tiếp bị xáo trộn, tối nghĩa, dung tục.
Có thể đưa ra một vài minh chứng rõ ràng về hiện tượng này. Thay vì nói “đồng ý” họ lại dùng “oke”, “tình yêu” thành “tềnh iu”, biến đơn vị nghìn trong tiền tệ thành “k”. Chê bai ai thì gọi là “cùi bắp”, “cục gạch”, “sến”. Lại còn lối bắt chước thành ngữ tạo nên những cụm từ vô nghĩa như: “chán như con gián”, “ghét như con bọ chét”, “nhỏ như con thỏ”, “chán như con gián”… Hay lối chơi chữ dung tục, khiếm nhã như: “tốc độ bàn thờ” (tốc độ chết người), “báo lá cải” (tờ báo tự phát), “tin vịt” (không đáng tin cậy), “óc chó” (ngu ngóc), “hại não” (khó hiểu), “thiếu muối” (ngu dốt),…
Lại còn có kiểu ghép từ nửa tây nửa ta hết sức khập khiễng: “Ugly tiger” (xấu hổ), “bye nhé” (tạm biệt), “4U” (For you – cho bạn), “2NT” (Tonight – tối nay), “G92U” (Good night to you). “y2k” (thế hệ năm 2000)…
Không những thế, học sinh ngày nay còn nảy sinh lối viết tắt hết sức buồn cười: “dzạy là zui ròi đó”, “bjo mk di dau”, “vk ck vs nhau ko nen to tieng”, “m wen no tu bjo”,…
Việc sử dụng ngôn ngữ lệch lạc trong giao tiếp của học sinh hiện nay gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhiều kiểu nói và viết như vậy dần làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt. Hiện tượng ấy còn gây ảnh hưởng nguy hại đối với văn hóa ứng xử của con người. Có thể nói trong những năm gần đây, Tiếng Việt đã đánh mất đi sức mạnh biểu đạt của mình. Nhiều từ ngữ tốt đẹp không còn được sử dụng nữa. Thay vào đó là lớp từ ngữ mới có kết cấu ngữ pháp lỏng lẻo. Ý nghĩa lời nói thiếu rõ ràng, trong sáng. Cách sử dụng ngôn ngữ cẩu thả, tùy tiện không phù hợp với hình thức giao tiếp. Từ đó hàm nghĩa cũng không mấy tích cực.
Tiếng Việt đang bị nhiễm bẩn bởi nói tục, chửi bậy. Hiện tượng nói tục thì quốc gia nào cũng có. Nhưng nước ta có lẽ chiếm tỷ lệ cao nhất. Nói tục trở thành thói quen, nhu cầu, sự “khoái khẩu” ở mọi đối tượng, trừ trẻ chưa biết nói. Đặc biệt là trong lứa tuổi học sinh, vấn đề nói tục chửi thề đang bị lạm dụng đến mức đáng báo động. Họ lợi dụng những từ ngữ mới đểu trêu đùa hay xúc phạm nhau một cách quá đáng. Chẳng hạn như “đm”, “v*”, “đm*”, “sm*”, “tđ*”,… Hàm nghĩa của từ mới này chưa được xác nhận nên việc hiểu nó đối với người khác khá hạn chế.
Nói bậy, chửi thề có thể do giới trẻ thấy người xung quanh nói nhiều, lại không được ai nhắc nhở rằng việc đó là sai trái, nên cứ quen miệng học theo. gần như, giới trẻ hiện nay đã miễn nhiễm với hiện tượng này. Họ thấy nó quen tai, thấy thú vị, cũng muốn làm theo.
Việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chuẩn mực trong giao tiếp làm nảy sinh bạo lực trong xã hội .Chỉ vì lời nói mà làm nảy sinh mâu thuẫn ,dẫn đến nhiều cuộc xung đột quyết liệt để lại hậu quả đáng tiếc. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, hơn 60 số vụ đánh nhau hiện nay có liên quan đến vấn đề lời nói.
Tóm lại, trước trào lưu sử dụng tiếng lóng, lạm dụng tiếng nước ngoài hiện nay ở giới trẻ khiến tiếng Việt đang có nguy cơ bị xâm hại xét về phương diện văn hóa ngôn ngữ. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, việc sử dụng tiếng lóng cũng có tác dụng nhất định đối với giới trẻ như: khả năng truyền đạt thông tin nhanh, tiết kiệm thời gian (chủ yếu dùng ký hiệu, viết tắt), có những yếu tố sáng tạo…làm cho hoạt động giao tiếp cũng phong phú hơn.
Nguyên nhân sử dụng ngôn ngữ tùy tiện trong giao tiếp của giới trẻ chính là do sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng. Trước hết là truyền hình. Đây là loại phương tiện thông tin đại chúng phổ biến nhất trong xã hội. Truyền hình ảnh hưởng lớn nhất đối với sự hình thành các giá trị, thế giới quan, đạo đức của thế hệ trẻ. Các kênh truyền hình góp phần phát tán các trường hợp lệch chuẩn trong giao tiếp ngôn ngữ. Mục đích là tạo ra sự khác lạ để thu hút người xem. Việc tiếp cận các văn hóa phẩm lệch lạc dễ dàng khiến cho giới trẻ mất kiểm soát bản thân. Từ đó, có những hành vi lệch chuẩn sau một thời gian tiếp cận nó.
Một số tờ báo cũng đang ra sức cổ xúy cho sự lệch lạc văn hóa ngôn ngữ ở giới trẻ qua những bài viết lạm dụng một cách có ý thức nhằm câu khách, gây ấn tượng đối với độc giả trẻ. Đặc biệt là hiện tượng ăn theo sự kiện, vụ lợi của các kênh truyền hình vô tình biến một hình tượng lệch lạc trở thành trào lưu nóng, thu hút giới trẻ quan tâm và bắt chước.
Mặt khác, các nhạc phẩm của các ban nhạc, lời của các bài hát có khả năng gây sosk ở bất kỳ một người có học vấn nào. Các nhà quảng cáo bán hàng cũng lợi dụng tiếng lóng, tiếng bồi, tiếng ghép để thu hút người tiêu dùng. Đó là nguyên nhân chủ yếu tạo nên xu thế ngôn ngữ lệch chuẩn này.
Sự buông lỏng, thiếu sự quản lý chặt chẽ các trang báo mạng xã hội và các thông tin quảng cáo khiến cho việc tiếp nhận ngôn ngữ của học sinh ngày càng lệch lạc hơn. Người tham gia không cần biết người đối thoại là ai. Họ sẵn sàng văng lời tục tĩu, thô thiển để thóa mạ, dìm “hàng” người khác.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin là mảnh đất để lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ có cơ hội phát triển (Internet, điện thoại…). Bởi giao tiếp gián tiếp nên người nói rất mạnh miệng, không hề nể sợ, tôn trọng hay giữ phép lịch sự đúng mức nên ngôn ngữ có phần quá đáng.
Trào lưu, “mốt” sử dụng tiếng lóng, tiếng nhại, ngoại ngữ, ngôn ngữ @ để giao tiếp trở thành yếu tố để muốn tự khẳng định đẳng cấp của mình đang xâm nhập và lan tỏa ở giới trẻ hiện nay.
Giải pháp khắc phục hiện tượng sử dụng ngôn ngữ tùy tiện trong giao tiếp của giới trẻ: Trước hết, bố mẹ phải làm gương trong việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ cũng như tiếng nước ngoài. Những lệch lạc trong văn hóa ngôn ngữ khiến trẻ tiếp thu, bắt chước rất nhanh.
Nhà trường giáo dục học sinh thức bảo vệ sự trong sáng tiếng Việt khi giao tiếp qua điện thoại, mạng xã hội. Học sinh tự trau dồi và làm phong phú vốn ngôn ngữ cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài để nâng tầm văn hóa trong giao tiếp và tư duy. Dạy và học đúng chuẩn tiếng Việt. Thầy cô giáo không sử dụng tiếng lóng khi giao tiếp với học sinh… Không sử dụng sách giáo khoa, từ điển kém chất lượng và có nhiều sai sót. Đồng thời, nghiêm cấm các hành vi chửi bậy, nói bậy trong nhà trường.
Ngành Giáo dục và Đào tạo phải có những biện pháp cứng rắn để bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Cơ quan quản lý văn hóa phải kiên quyết loại bỏ những chương trình phát sóng trên truyền hình không đảm bảo chất lượng và trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Kiểm soát chặt chẽ thông tin mạng, sàng lọc thông tin kỹ lưỡng trước khi người đọc tiếp cận.
Và trên hết là mỗi học sinh phải biết tự trau dồi và rèn luyện tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó tiếp thu tiếng nước ngoài để có vốn từ phong phú và sử dụng đúng chuẩn mực. Không nên chạy theo lối giao tiếp dễ dãi, lệch lạc mà làm mất đi văn hóa giao tiếp của chính mình.
Nhiều học sinh dù được nhắc nhở nhiều nhưng vẫn cố chấp sử dụng Tiếng Việt lệch chuẩn, thiếu trong sáng trong giao tiếp. Họ xem việc nói tục chửi thề, tiếng lóng, tiếng ngoại là bình thường. Họ vận dụng những kiểu nhại âm, cắt âm một cách tối nghĩa trong giao tiếp. Điều đó làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt và lệch lạc trong giao tiếp. Những người như thế thật đáng chê trách.
Luôn rèn luyện ngôn ngữ giao tiếp. Luôn vận dụng đúng đắn các phương tiện giao tiếp để bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh. Khi nhân cách chưa định hình thì cần phải rèn luyện bản thân theo những chuẩn mực tốt đẹp. Tránh lệch lạc nhân cách dẫn đến các hành vi sai trái.
Như vậy, vấn đề văn hóa ngôn ngữ và giáo dục văn hóa ngôn ngữ cho thế hệ trẻ nhất là cho học sinh, sinh viên trong giai đoạn hiện nay trở thành vấn đề cấp bách, cần sự chung tay của các lực lượng xã hội. Trong đó bản thân giới trẻ – chủ thể của nhận thức và hành động đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng Việt trên cơ sở “kế thừa và phát huy truyền thống đi đôi với việc sáng tạo những giá trị mới phù hợp với tinh thần thời đại…”
Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 2
Ngôn ngữ là một công cụ quan trọng của giao tiếp, thông qua ngôn ngữ mà con người thêm hiểu về nhau hơn. Không phải ai cũng có thể sử dụng ngôn ngữ một cách khéo léo, nghệ thuật thế nhưng sử dụng ngôn ngữ một cách lịch sự, chừng mực thì là điều hoàn toàn trong khả năng của mỗi người. Đối với các bạn học sinh hiện nay, vấn đề sử dụng ngôn ngữ giao tiếp đang là một vấn đề có nhiều bất cập tồn tại.
Ngôn ngữ là lời ăn tiếng nói mỗi người gửi đến với người xung quanh. Việc sử dụng ngôn ngữ của mọi người đều nhằm biểu đạt ý tứ, thái độ của người ấy đối với đối phương. Thế nhưng có một hiện thực là hiện nay các bạn học sinh dường như sử dụng ngôn ngữ một cách rất thiếu tế nhị, không chắt lọc.
Trong xã hội hiện nay, đặc biệt là ở môi trường học đường xuất hiện một khái niệm tiếng “lóng”, ấy là những phương ngữ được các bạn sử dụng thay cho các khái niệm thông thường để biểu đạt ý tứ của bản thân. Tiếng lóng dần phát triển với một tốc độ chóng mặt và lây lan trong môi trường học đường. Các bạn học sinh sử dụng tiếng lóng rất nhiều, nhiều đến nỗi nó trở nên thân thiết, quen thuộc như lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Không chỉ sử dụng tiếng lóng, các bạn còn thường dùng những ngôn ngữ tuổi teen, từ ngữ bậy bạ để giao tiếp cùng nhau. Khi nói chuyện thì văn tục chửi bậy, (hiện tượng nói tục chửi thề ngày càng nhiều trong giao tiếp của học sinh). Đi trên đường, cứ gặp những nhóm học sinh đi cùng nhau là người ta rất hay nghe thấy những lời nói không văn vẻ gì.
Tiếng lóng cùng các khái niệm mới được các bạn thêm nếm một cách bừa bãi trong khi ngôn ngữ dân tộc lại dần mất đi. Đa phần các bạn học sinh hiện nay không biết sử dụng thành ngữ, tục ngữ. Nhiều khái niệm rất đỗi bình thường trong giao tiếp thì các bạn lại bỡ ngỡ, không hiểu nghĩa. Thấy người ta dùng từ “thành kính phân ưu” khi chia buồn, có bạn học sinh ngơ ngác bảo “lần đầu em được nghe từ này, có nghĩa là gì”. Ngoài ra, tình trạng nói chuyện với người lớn thì tình trạng nói trống không, dùng các từ không phù hợp văn cảnh cũng xuất hiện thường xuyên.
Ngôn ngữ vốn là bản sắc, là tinh hoa văn hóa của dân tộc. Trong ngôn ngữ chất chứa nền văn minh văn hiến lâu đời, chứa đựng nét văn hóa đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Nếu để ngôn ngữ mai một, biến chất thì cũng chính là làm ảnh hưởng tới nền văn hóa của dân tộc. Không những vậy, việc sử dụng ngôn ngữ không đúng cách, không đúng hoàn cảnh còn khiến cho hình ảnh các bạn học sinh trở nên xấu xí, kém văn hóa trong mắt của mọi người.
Lời ăn tiếng nói không chỉ đóng vai trò làm đẹp mỗi con người mà thông qua đó con người có thể thể hiện sự tôn trọng đối phương, thái độ lịch sự của bản thân. Không phải bỗng dưng mà cha ông ta đã dạy Học ăn học nói, học gói học mở. Việc học nói ở đây không chỉ là học để biết nói mà quan trọng là học để nói thế nào thật lễ phép, khéo léo.
Muốn làm được những điều trên mỗi bạn học sinh phải chủ động, lắng nghe và học hỏi tích cực sử dụng những từ ngữ hay, đẹp. Trong giao tiếp hàng ngày, các bạn phải chú ý lễ phép đối với người trên, không dùng những từ ngữ tục tĩu, không sử dụng tiếng lóng, lạm dụng tiếng nước ngoài mà dần quên mất đi tiếng nói dân tộc. Các bạn nên biết rằng tiếng Việt còn là dân tộc còn, hãy chung tay giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt để làm đẹp thêm cho nền văn hóa của dân tộc, giữ gìn bản sắc nước nhà.
Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 3
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, thông qua giao tiếp cá nhân gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tiếp thu nền văn hoá xã hội lịch sử, biến nó thành cái riêng của mình, đồng thời cũng góp phần vào sự phát triển văn hoá chung. Xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật càng hiện đại càng ảnh hưởng đến hành vi, sự suy nghĩ và cuộc sống con người nên mối quan hệ giữa con người với con người càng được quan tâm, vì thế giao tiếp được xem là vấn đề thời sự trong nhiều lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực làm việc trực tiếp với con người như giáo dục, dạy học, ngoại giao… Ngày nay giao tiếp là phương tiện để con người hợp tác cùng nhau, hướng tới mục đích bình đẳng, hạnh phúc. Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu quan trọng của con người. Để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp và tiến hành giao tiếp có kết quả, con người cần có kỹ năng giao tiếp.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, sự giao thoa giữa các nền văn hóa và cơn lốc phát triển, hội nhập nền kinh tế trên thế giới cũng đã tạo ra một thế giới ảo – thế giới mạng Internet – nơi mà giới trẻ nói chung và đội ngũ sinh viên nói chung sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng, thứ ngôn ngữ “không đụng hàng” mà chúng ta thường hay gọi đó là “ngôn ngữ tuổi teen”, “ngôn ngữ thời @”, “tiếng Việt trong ngoặc kép” hay “ngôn ngữ sinh viên”… Hiện nay loại ngôn ngữ này đã, đang và sẽ lan truyền ngày càng rộng rãi trong giới trẻ, đặc biệt là giới sinh viên. Nhiều người cho rằng chẳng thể hiểu nổi sinh viên nghĩ gì và viết những gì trên các chatroom, blog, các diễn đàn dành cho họ… Chính vì thế, đã có không ít các ý kiến trái chiều về việc sử dụng loại ngôn ngữ này xuất hiện nhiều trên các mặt báo, các phương tiện thông tin đại chúng và ngay cả trên các diễn đàn tuổi trẻ. Kiểu sử dụng ngôn ngữ này lan tràn hầu hết trên các diễn đàn, nhật ký trực tuyến nhất là khi tán gẫu qua mạng, tin nhắn điện thoại. Đối tượng sử dụng chủ yếu là giới trẻ trong đó phần lớn là sinh viên. Mối nguy hại lớn chính là ngôn ngữ này lan vào nhà trường một cách âm thầm. Kiểu ngôn ngữ khó hiểu như vậy hiện đang được sinh viên sử dụng ngày càng phổ biến trong việc giao tiếp, nó xa lạ với tiếng phổ thông và cũng chẳng giống với một ngôn ngữ nào trên thế giới. Nó bao gồm những ký hiệu phức tạp, tiếng lóng, xen lẫn ngoại ngữ và đặc biệt là nhiều từ được viết theo âm đọc, nhưng lại bị biến tướng một cách cực kỳ sai chính tả. Văn hóa ngôn ngữ của ấy còn gọi là “ngôn ngữ teen, ngôn ngữ sinh viên” đang là vấn đề nóng trong xã hội, tuy nó không ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế hay tính mạng con người nhưng về lâu dài nó sẽ hủy hoại đến nền văn hóa của quốc gia chúng ta. Từ tầm quan trọng và thực tiễn trên chúng tôi lựa chọn nội dung: Bàn về việc sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của sinh viên hiện nay.
Khi xã hội phát triển, quyền tự do ngôn luận của con người ngày càng được bảo vệ. Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ hay, đẹp, giàu tính văn chương thì cũng nảy sinh vấn đề lệch chuẩn trong giao tiếp, đặc biệt phổ biến với giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng. Xu hướng lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Một thực trạng cho thấy ngày nay năng lực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp của sinh viên rất kém. Tình trạng này còn biểu hiện cả trong học tập. Không những sử dụng không đúng chức năng ngôn ngữ mà lối giao tiếp còn bộc lộ sự thô lỗ, thiếu lịch sự tế nhị. Sinh viên ngày nay làm dụng quá nhiều tiếng lóng, tiếng bồi trong giao tiếp. Điều này trước đây ít thấy hoặc không thấy xuất hiện. Việc giao tiếp kém còn thể hiện cả bằng hành vi và lối sống.
Không thể đổ lỗi cho quá trình hội nhập quốc tế hay sự phát triển công nghệ thông tin. Trước đây, khi nền văn hóa phương Tây ồ ạt xâm nhập vào nước ta thông qua các nhà truyền giáo, người Pháp hay người Mỹ, có làm cho ngôn ngữ giao tiếp nước ta thay đổi nhưng theo chiều hướng tích cực. Nó bổ sung vào hệ thống từ vựng và làm trong sáng thêm Tiếng Việt dựa trên các nguyên tắc chuẩn mực. Còn ngày nay, với ý thức sử dụng ngôn ngữ tùy tiện, cẩu thả, thiếu trách nhiệm của sinh viên làm cho ngôn ngữ giao tiếp bị xáo trộn, tối nghĩa, thậm chí còn dung tục.
Có thể đưa ra một vài minh chứng rõ ràng về hiện tượng này. Thay vì nói “đồng ý” sinh viên lại dùng “ok”, “tình yêu” thành “tềnh iu”, biến đơn vị nghìn trong tiền tệ thành “k”. Chê bai ai thì gọi là “cùi bắp”, “cục gạch”, “sến”. Lại còn lối bắt chước thành ngữ tạo nên những cụm từ vô nghĩa như: “chán như con gián”, “ghét như con bọ chét”, “nhỏ như con thỏ”, “xinh như yêu tinh” Hay lối chơi chữ dung tục, khiếm nhã như: “tốc độ bàn thờ” (tốc độ chết người), “báo lá cải” (tờ báo tự phát), “tin vịt” (không đáng tin cậy), “óc chó” (ngu ngốc), “hại não” (khó hiểu), “thiếu muối” (ngu dốt),
Bên cạnh tiếng lóng, tiếng bồi, lối viết tắt còn xuất hiện vấn đề chửi tục, nói bậy không chỉ khiến cho tiếng Việt bị vẩn đục mà còn đáng báo động nữa là tình trạng giới trẻ sử dụng “ký hiệu” đang trở nên phổ biến. Việc các bạn sinh viên dùng ký hiệu tràn lan, “tây, ta” lẫn lộn khiến cho cả các nhà ngôn ngữ học cũng phải “bó tay”. Trong thời đại thông tin hiện nay, việc sử dụng các ký hiệu đơn giản là không sai. Nhưng điều đáng nói là họ đã lầm lẫn khi biến nó thành ký hiệu chung để nói hoặc viết ở mọi nơi, mọi lúc. Tiếng Việt đang bị bóp méo và xâm phạm đến đáng sợ. Tương lai của nó sẽ đi đến đâu, dưới bàn tay của “sinh viên”, những chủ nhân tương lai của đất nước. Từ “bóp méo” ở đây mang cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Những thực tế làm chúng ta cảm thấy thương cho ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam… – Tiếng Việt bị vẩn đục, bị lạm dụng: Từ xưa, ông bà đã chú trọng rèn dạy lời ăn tiếng nói, rằng “tiên học lễ, hậu học văn”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Khi còn đi học, việc không nói tục, chửi thề là một trong những tiêu chuẩn thi đua hạnh kiểm ở trường. Vậy mà hiện nay, nhiều người có trình độ văn hóa đang tự biến mình thành người thiếu văn hóa. Khi nói tục, chửi thề, các em học sinh đang cố tình làm vấy bẩn tiếng Việt vốn vô cùng đẹp đẽ và thiêng liêng. Chắc chắn ai cũng phải thừa nhận rằng chuyện chửi thề, văng tục là một thói xấu, không văn hóa. Thế nhưng lại có không ít các bạn sinh viên thường xuyên có những “phát ngôn khiến nhiều người phải giật mình và cảm thấy khó chịu, hơn hết là lo lắng rằng văn minh của họ ngày càng “ngắn” dần. Nhiều bạn sinh viên coi chửi bậy là sành điệu, không văng tục nói không lưu loát. Khi bực dọc một vấn đề nào đó họ chửi; bị điểm kém: chửi; không thích đứa bạn ngồi cùng bàn: chửi; không đến được buổi hẹn với bạn bè: chửi, thậm chí còn chửi yêu để bày tỏ tình cảm. Trong các câu chuyện phiếm và cả chuyện nghiêm túc, sinh viên cũng vận dụng triệt để từ bậy thay thế câu thông thường. Họ coi việc chửi bậy là để xả stress, xả bức xúc, thể hiện cảm xúc…, ai không biết chửi sẽ rất “quê”. “Chửi bậy” đã trở thành chủ đề nóng trên nhiều diễn đàn của các trường, học viện trên các trang blog. Vấn đề này đã được tranh luận rất thẳng thắn và đã có rất nhiều ý kiến trái chiều. Một số sinh viên tỏ ra ủng hộ, thông cảm, thậm chí cô chửi bậy là “một phần tất yếu”. Nhưng cũng có một vài ý kiến tỏ ra hoài nghi, lo lắng,
Bên cạnh đó sinh viên còn sử dụng phổ biến tiếng Việt không dấu: Đơn giản là những kiểu viết không có dấu thanh. Nhiều người nghĩ viết thế cho nó nhanh gọn nhẹ, vả lại biết tiếng với nhau cả rồi, chẳng lẽ không dịch được? Nhưng hãy nghĩ lại: ví dụ như dòng chữ không dấu dưới đây: “Ban that la dam dang” – nên hiểu “Bạn thật là đảm đang” hay “Bạn thật là dâm đãng” đây??? Một tập hợp những con chữ không có dấu, phải dịch chán mới hiểu. Hay một nữ sinh viên nhắn cho bạn: “Tau pun ngu we” (Tao buồn ngủ quá). Tin nhắn trả lời: “Bit oj, mey mep nhu heo hem bik seo pun ngu lu’m tje?” (Biết rồi, mày mập như heo không biết sao buồn ngủ lắm thế). – Sự biến dạng của những từ ngữ, chữ viết: Qua tìm hiểu được biết đây là “mốt” ngôn ngữ riêng của giới trẻ. Đọc một đoạn tin nhắn trên điện thoại di động, lướt qua vài trang blog hoặc diễn đàn của giới trẻ, dễ dàng bắt gặp những mẩu đối thoại khác người. Thật là nực cười cho những kiểu viết quái gở: từ “rồi” viết thành “roài”, “không” thành “hông”, “hem”, “biết” thành “bít”. Ồ, hãy thử lắp vào một câu xem: “The la cau hem bit roai, hihi” Nhưng, đó chỉ là những kiểu thay đổi “sơ khai”. Hẳn trí tuệ luôn luôn phát triển và họ dành nó để cho ra đời những đứa con tinh thần quái gở hơn, từ “bóp méo” đến lúc này đã có thể dùng theo nghĩa vốn có của nó. Chữ “a” viết thành 4, chữ e viết thành 3, i thành j, g đổi sang 9, o thành 0, c thành k, b thành p …
Hiện nay Internet, điện thoại di động đang lan truyền toàn cầu, từ thành thị tới thôn quê, thậm chí cả vùng sâu vùng xa nữa, mà đa số sinh viên sử dụng điện thoại thông minh. Vì vậy, sinh viên có thể kết nối với nhau mọi lúc, mọi nơi, và họ học hỏi, cập nhật ngôn ngữ cho nhau rất nhanh. Ngôn ngữ @ nhanh chóng có thể lan truyền khắp nơi và tạo ra một làn sóng mạnh mẽ. Phải chăng đó là sự ô nhiễm ngôn ngữ trong tiếng Việt. Ngôn ngữ @ đã đi quá giới hạn của văn hóa tiếng Việt.
Học cái tốt thì rất khó, nhưng học điều xấu thì lại rất dễ bởi “nghe quen tai, nói quen miệng”. Những ví dụ kể trên chỉ là một trong rất rất nhiều những hành vi xấu về ngôn ngữ trong giao tiếp của một bộ phận sinh viên hiện nay. Ông bà ta từng dạy con cháu rằng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”, lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau… Đáng buồn là một bộ phận sinh viên hiện nay, những người là chủ nhân tương lai của đất nước đã và đang làm “biến dạng” đi truyền thống tốt đẹp của cha ông.
Nhiều kiểu nói và viết như vậy dần làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt. Hiện tượng ấy còn gây ảnh hưởng nguy hại đối với văn hóa ứng xử của con người. Có thể nói trong những năm gần đây, Tiếng Việt mà một bộ phận sinh viên sử dụng đã đánh mất đi sức mạnh biểu đạt của mình. Nhiều từ ngữ tốt đẹp không còn được sử dụng nữa. Thay vào đó là lớp từ ngữ mới có kết cấu ngữ pháp lỏng lẻo. Ý nghĩa lời nói thiếu rõ ràng, trong sáng. Cách sử dụng ngôn ngữ cẩu thả, tùy tiện không phù hợp với hình thức giao tiếp. Từ đó hàm nghĩa cũng không mấy tích cực.
Tiếng Việt đang bị nhiễm bẩn bởi nói tục, chửi bậy. Hiện tượng nói tục thì quốc gia nào cũng có. Nhưng nước ta có lẽ chiếm tỷ lệ cao nhất. Nói tục trở thành thói quen, nhu cầu, sự “khoái khẩu” ở mọi đối tượng, trừ trẻ chưa biết nói. Đặc biệt là trong lứa tuổi sinh viên đa số các em sống xa gia đình, các em sử dụng lâu dần thành thói quen xấu khó sửa lại không có người thân bên cạnh nhắc nhở nên vấn đề nói tục chửi thề đang bị lạm dụng đến mức đáng báo động trong một bộ phận sinh viên. Họ lợi dụng những từ ngữ mới đểu trêu đùa hay xúc phạm nhau một cách quá đáng. Chẳng hạn như “đm”, “v*”, “đm*”, “sm*”, “tđ*”, … Hàm nghĩa của từ mới này chưa được xác nhận nên việc hiểu nó đối với nhiều người còn khá hạn chế.
Nói bậy, chửi thề có thể do sinh viên thấy người xung quanh nói nhiều, lại không được ai nhắc nhở rằng việc đó là sai trái, nên cứ quen miệng học theo. gần như, sinh viên hiện nay đã miễn nhiễm với hiện tượng này. Họ thấy nó quen tai, thấy thú vị, cũng muốn làm theo.
Việc sử dụng ngôn ngữ thiếu chuẩn mực trong giao tiếp nghiêm trọng hơn còn làm nảy sinh bạo lực trong xã hội. Chỉ vì lời nói mà làm nảy sinh mâu thuẫn, dẫn đến nhiều cuộc xung đột quyết liệt để lại hậu quả đáng tiếc. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, hơn 60 số vụ đánh nhau hiện nay có liên quan đến vấn đề lời nói.
Tóm lại, trước trào lưu sử dụng tiếng lóng, lạm dụng tiếng nước ngoài hiện nay ở giới trẻ khiến tiếng Việt đang có nguy cơ bị xâm hại xét về phương diện văn
hóa ngôn ngữ. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, việc sử dụng tiếng lóng cũng có tác dụng nhất định đối với sinh viên như: khả năng truyền đạt thông tin nhanh, tiết kiệm thời gian (chủ yếu dùng ký hiệu, viết tắt), có những yếu tố sáng tạo…làm cho hoạt động giao tiếp cũng phong phú hơn.
Do sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng. Trước hết là truyền hình. Đây là loại phương tiện thông tin đại chúng phổ biến nhất trong xã hội. Truyền hình ảnh hưởng lớn nhất đối với sự hình thành các giá trị, thế giới quan, đạo đức của thế hệ trẻ. Các kênh truyền hình góp phần phát tán các trường hợp lệch chuẩn trong giao tiếp ngôn ngữ. Mục đích là tạo ra sự khác lạ để thu hút người xem. Việc tiếp cận các văn hóa phẩm lệch lạc dễ dàng khiến cho giới trẻ mất kiểm soát bản thân. Từ đó, có những hành vi lệch chuẩn sau một thời gian tiếp cận nó.
Một số tờ báo cũng đang ra sức cổ xúy cho sự lệch lạc văn hóa ngôn ngữ ở giới trẻ qua những bài viết lạm dụng một cách có ý thức nhằm câu khách, gây ấn tượng đối với độc giả trẻ. Đặc biệt là hiện tượng ăn theo sự kiện, vụ lợi của các kênh truyền hình vô tình biến một hình tượng lệch lạc trở thành trào lưu nóng, thu hút giới trẻ quan tâm và bắt chước.
Mặt khác, các nhạc phẩm của các ban nhạc, lời của các bài hát có khả năng gây sosk ở bất kỳ một người có học vấn nào. Các nhà quảng cáo bán hàng cũng lợi dụng tiếng lóng, tiếng bồi, tiếng ghép để thu hút người tiêu dùng. Đó là nguyên nhân chủ yếu tạo nên xu thế ngôn ngữ lệch chuẩn này.
Sự buông lỏng, thiếu sự quản lý chặt chẽ các trang báo mạng xã hội và các thông tin quảng cáo. Người tham gia không cần biết người đối thoại là ai. Họ sẵn sàng văng lời tục tĩu, thô thiển để thóa mạ, dìm “hàng” người khác.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin là mảnh đất để lệch chuẩn văn hóa ngôn ngữ có cơ hội phát triển (Internet, điện thoại…). Bởi giao tiếp gián tiếp nên người nói rất mạnh miệng, không hề nể sợ, tôn trọng hay giữ phép lịch sự đúng mức nên ngôn ngữ có phần quá đáng.
Trào lưu, “mốt” sử dụng tiếng lóng, tiếng nhại, ngoại ngữ, ngôn ngữ @ để giao tiếp trở thành yếu tố để muốn tự khẳng định đẳng cấp của mình đang xâm nhập và lan tỏa ở giới trẻ hiện nay.
Các bạn sinh viên cần tham gia, giao lưu, trao đổi nhiều hơn trong những môi trường tích cực như trường, lớp, đoàn, hội. Trau dồi vốn hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc. Tiếp thu những yếu tố mới trên cơ sở có xem xét chọn lọc không cổ xúy, chạy theo những xu hướng mà ngay chính bản thân cũng chưa hiểu chưa rõ.
Các diễn đàn (forum) cần xây dựng nội quy, quy chế rõ ràng, có cơ chế quản lý phù hợp. Hướng diễn đàn đến những nội dung giao tiếp lành mạnh. Cần xây dựng những hạt nhân tiêu biểu nhằm thu hút thành viên của diễn đàn học hỏi, noi theo những chuẩn mực mà những thành viên tiêu biểu tạo ra.
Gia đình cần sự quan tâm chia sẻ từ các bậc phụ huynh. Nên xem con em mình như những “người bạn” để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ, sinh viên hiện nay, và đưa ra những lời khuyên một cách thiết thực nhất. Tạo cho các em có một môi trường ngôn ngữ lành mạnh từ nhỏ, giúp các em hình thành những thói quen sử dụng ngôn ngữ tốt. Giúp các em có nhiều cơ hội được tiếp xúc giao lưu học hỏi, cũng như trạng bị những hiểu biết văn hóa, ứng xử ngay từ chính những hoạt động, sinh hoạt trong gia đình. Để đến khi các em trở thành sinh viên, xa gia đình sống độc lập các em ý thức hơn không bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ xấu, thiếu lành mạnh.
Thầy cô – những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn sinh viên, những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. Bản thân thầy cô cũng cần sử dụng những ngôn ngữ có tính chuẩn mực cao. Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh.
Nhà trường cần định hướng cho sinh viên những giá trị tốt đẹp của tiếng Việt từ đó nâng cao ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Tạo thêm nhiều cơ hội, tổ chức những cuộc thi, tạo môi trường tích cực, phát huy cũng như khích lệ tinh thần học hỏi để các em nói và làm theo lời hay ý đẹp. Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp để chấn chỉnh những sinh viên đi ngược lại xu thế đó.
Các cơ quan thông tin truyền thông cần xây dựng cách nói, viết chuẩn mực góp phần định hướng xã hội. Cần có thái độ cầu thị kiên quyết chống lại những cách diễn đạt lệch chuẩn, những xu hướng không phù hợp làm mất đi sự trong sáng và chuẩn hóa của tiếng Việt. Từ đó, giúp sinh viên có được định hướng đúng đắn.
Nhìn lại chặng đường phát triển của Tiếng Việt từ thủa dựng nước, giữ nước đến nay, trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, với không ít mưu đồ đồng hóa nhưng Tiếng Việt không những không bị đồng hóa mà còn phát triển ngày càng hoàn thiện đảm đương tốt vai trò là ngôn ngữ văn hóa dân tộc, chúng ta thấy được sức sống mạnh mẽ của một ngôn ngữ đã là niềm tự hào của biết bao thế hệ – ngôn ngữ ấy không dễ dàng để mất đi bản sắc của mình. Bởi thực tế ngôn ngữ có quy luật phát triển của riêng nó. Việc tiếp thu những cái mới và xóa bỏ, loại trừ những yếu tố không phù hợp luôn là hai phép cộng và trừ gắn liền với quy luật phát triển của mỗi ngôn ngữ. Một cá nhân không thể thay đổi được ngôn ngữ nhưng cộng đồng, xã hội đó có thể định hướng cho ngôn ngữ đó phát triển như thế nào. Điều đó, không nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Một quốc gia có chính sách ngôn ngữ tốt sẽ giúp cho ngôn ngữ của quốc gia đó lớn mạnh và vì vậy, khi nói đến ngôn ngữ của một “tầng” “lớp” nào đó trong xã hội, nó sẽ không nằm ngoài xu hướng chung của ngôn ngữ xã hội đó. Vì thế, cần có một nỗ lực chung của cả cộng đồng, ngôn ngữ không riêng gì nhà trường, gia đình, hay bản thân các bạn sinh viên.
Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 4
Xã hội ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển ấy là sự xâm lấn ngày càng sâu rộng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Song song với sự phát triển đó là cái xấu và cái tốt. Chính sự đổi thay ấy đã ảnh hưởng nhiều đến con người, đặc biệt là giới trẻ – được coi là chủ nhân tương lai của đất nước. Sự ảnh hưởng ấy thể hiện một cách rõ ràng ở lối sống, cách ứng xử và đặc biệt nhất là ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Vậy, lời ăn tiếng nói của giới trẻ của thế giới hiện đang đang như thế nào?
Có thể nói, thay đổi của giới trẻ không chỉ thể hiện ở cách ăn mặc, ở tóc tai, ở cách ứng xử mà thể hiện nhiều ở ngôn ngữ, ở lời ăn tiếng nói hàng ngày của các bạn. Ngôn ngữ “trong sáng” và “giàu có” của tiếng Việt đã được “thoát xác” hoàn toàn khỏi các quy chuẩn và hầu hết được giới trẻ thay bằng thứ ngôn ngữ không ai hiểu vì các bạn dùng tiếng lóng trong cộng đồng teen.
Người trẻ ngày nay không chọn cách ra sạp báo mua tờ Thanh niên, Tuổi trẻ, không mở thời sự để xem tin tức vào mỗi 19 giờ tối hàng ngày. Giới trẻ ngày nay, chỉ cần một chiếc laptop, một chiếc smartphone là các em có thể nắm bắt toàn bộ thông tin, tin tức của thế giới. Thế nhưng, những vấn đề về thế giới, về quân sự, về chính trị, văn hóa của đất nước hay thế giới không phải là vấn đề mà các em quan tâm. Vì vậy, vốn hiểu biết thực tế của giới trẻ ngày càng hạn chế. Điều mà các em quan tâm khi lên mạng xã hội là thế giới sao, là các thần tượng, các câu chuyện tình yêu, là sao Hàn, là Sơn Tùng,.. và đi kèm theo việc sử dụng các mạng xã hội là sự biến đổi về ngôn ngữ, về cách ăn nói.
Vài năm trước, ra đời thứ ngôn ngữ xì tin, mà nói theo giới trẻ là “xj tyn”. Ban đầu, các em chỉ sử dụng ngôn ngữ này trong mạng xã hội, khi các em “chat” với nhau. Khi đó, “j” dần thay thế cho “gi”, “w” thay thế cho “qu”, “ko” thay thế cho “không”,… dần dần những thứ ngôn ngữ này được teen bê nguyên từ máy tính ra ngoài cuộc sống đời thực. Và càng ngày, các em càng sáng tạo ra nhiều thứ ngôn ngữ mới hơn, lạ hơn, để nói chuyện cho nhanh, để gõ cho tiện. Và các em nghĩ thế là sự sáng tạo. Đã qua rồi, cái thời kì tiếng Việt trong sáng. Giờ đây, các em nói chuyện với đủ các tiếng lóng, sử dụng tiếng Anh, tiếng Việt lẫn lộn, tiếng lóng được dùng một cách vô tội vạ. Chính tả tiếng Việt dường như các em không hề mảy may quan tâm đến. Thay vì nói “xin chào” thì các em lại nói “sin trào”, “quên” thành “cuen”, “Cho em xin hai chữ bình yên” sẽ biến thành “cko iem xyn hạ ckữ bỳnk yên”. Có thể nói rằng, ngôn ngữ của teen ngày càng rối rắm và phức tạp. Những người lớn, khi đọc được những câu chữ như thế này thường không thể hiểu được các bạn đang nói gì.
Bên cạnh việc sử dụng tiếng lóng, giới trẻ còn phát minh ra vô số các từ, các câu hay ho để sử dụng hàng ngày và các em cho thế là chất, là sáng tạo. Câu cửa miệng của giới trẻ bây giờ là “chém gió”, “sao phải xoắn”, “sao phải thốn”… Và rất nhiều, rất nhiều những từ ngữ khác chẳng hiểu là có ý nghĩa gì nhưng vẫn được các bạn sử dụng hàng ngày. Và tai hại là họ nghĩ như vậy là hay ho.
Đặc biệt, một hiện tượng đáng báo động trong ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay đó là việc nói bậy, chửi tục. Các em nói bậy, chửi bậy rất nhiều, vô tổ chức. Điển hình là các từ “dm”, “dmm”, “sh*t”,… và vô số các từ bậy bạ khác. Các bạn sử dụng nó như một ngôn ngữ hàng ngày. Các bạn có thể phun ra những từ không mấy đẹp đẽ đó mọi lúc mọi nơi cả khi bạn viết trên mạng xã hội và khi giao tiếp với nhau ở đời thực. Càng ngày thì những lời ăn tiếng nói thô tục lại càng được giới trẻ phát ngôn ra nhiều và nó trở thành lời ăn tiếng nói hàng ngày của các bạn. Đáng buồn thay là teen coi đó là những ngôn ngữ hoàn toàn bình thường, không có gì là xấu xa phải né tránh. Tôi có một người bạn, khi trò chuyện trên mạng xã hội, cô ấy thường dùng tiếng lóng, thường chửi bậy. Vì thế, mỗi lần chúng tôi đối thoại, tôi thường cảm thấy không thoải mái. Trước hết, vì những tiếng lóng mà bạn sử dụng tôi thường không hiểu được, nên gây ra cảm giác rất khó chịu. Và hơn nữa, tôi cảm thấy những gì không được hay ho phát ra từ bạn làm thấy mình không được tôn trọng. Mặc dù bạn nghĩ đó là những lời nói hoàn toàn bình thường.
Còn đâu việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo lời dạy của Bác Hồ vẫn căn dặn chúng ta. Vẫn biết rằng xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng hiện đại thì con người cần phải đổi thay và phải tiếp thu những cái mới. Nhưng ngôn ngữ của teen thì ngày càng đi ngược lại với thuần phong mỹ tục tốt đẹp mà cha ông ta đã bao nhiêu đời nay vun đắp, xây dựng. Sử dụng ngôn ngữ khó hiểu, tiếng lóng, hay những từ những câu thiếu văn minh lịch sự là điều đáng phê phán, đáng lên án. Việc sử dụng những ngôn ngữ có biến đổi để phù hợp với giới trẻ nên được kiểm soát, để tránh tình trạng lạm dụng và làm mất đi cái hay cái đẹp của tiếng Việt. Các bạn teen cần biết đâu là tốt, đâu là xấu; cần phân biệt được sự sáng tạo và sự biến đổi theo hướng thụt lùi. Người lớn cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, uốn nắn, răn dạy để bọn trẻ có hướng đi đúng với xã hội.
Ngoài ra các cơ quan chức năng, cơ quan văn hóa cũng nên có những biện pháp, những hướng xử lý đối với các bộ phận teen đang ngày càng làm mất đi cái hay của tiếng mẹ đẻ. Có như vậy, thì ngôn ngữ mới không bị biến đổi theo hướng tiêu cực như ngày hôm nay.
Tóm lại, chúng ta nhận thấy, sự sáng tạo, sự biến đổi là vô cùng quan trọng, là vô cùng cần thiết. Nhưng sáng tạo như thế nào là một điều đáng bàn. Hơn bao giờ hết, cần phải giữ gìn cái hay và cái đẹp vốn có của tiếng Việt, để tiếng mẹ đẻ của nước ta không trở nên lai căng, không trở thành một thứ ngôn ngữ pha tạp, hỗn hợp khó hiểu. Đây, quả thật là một điều vô cùng quan trọng. Giới trẻ – chủ nhân tương lai của đất nước, hơn ai hết phải là những người có hướng đi đúng đắn, có những lời ăn tiếng nói văn minh – lịch sự. Có như thế, đất nước mới ngày càng phát triển.
Nghị luận về ngôn ngữ giao tiếp của học sinh hiện nay – Mẫu 5
Hiện nay, đại đa số các bậc phụ huynh học sinh, những người lớn tuổi thường có phản ánh chung về học sinh rằng “Học sinh bây giờ nói chuyện với nhau người lớn không thể hiểu được”. Quả thực, ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh hiện nay đa dạng và mới mẻ hơn những gì chúng ta được học và được biết trước đó, sự tiếp thu ngôn ngữ của các em hiện nay tuy có phần tích cực nhưng cũng tiềm ẩn những tiêu cực. Cần thiết phải bàn luận về vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh hiện nay bởi tầm ảnh hưởng nghiêm trọng đến bản sắc vốn có của tiếng Việt.
Ngôn ngữ nói chung bao gồm cả ngôn ngữ nói và viết, là một trong những phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất giữa con người với con người. Ngôn ngữ giúp con người diễn đạt tâm tư, tình cảm, ý kiến và truyền đạt thông tin với nhau, cách sử dụng ngôn ngữ cũng là một nhân tố quan trọng hình thành nên nhân cách con người. Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt là việc những con người Việt Nam sử dụng tiếng Việt – ngôn ngữ phổ cập của quốc gia để làm phương tiện trao đổi, giao tiếp, truyền đạt thông tin. Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt bao gồm cả việc tuân thủ theo các quy tắc chuẩn mực có tính hệ thống của ngôn ngữ đã được quy định. Vấn đề chúng ta bàn luận chính là liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh hiện nay có biểu hiện lệch lạc, sai phạm với các quy tắc, chuẩn mực của tiếng Việt. Căn cứ vào đâu chúng ta có thể nhận ra việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của học sinh hiện nay “có vấn đề”? Thực tế, ta dễ bắt gặp những cuộc trò chuyện trên đường, trong trường lớp hay trên các trang mạng xã hội của các học sinh, họ sử dụng ngôn ngữ theo những cách “mới mẻ” mà chỉ có trang lứa học sinh mới có thể hiểu. Đó có thể là một trào lưu dùng từ theo “mốt”, sử dụng tiếng lóng, tiếng ngoại ngữ hay ngôn ngữ theo phong cách để giao tiếp với nhau. Những người học sinh thường nắm bắt xu hướng rất nhanh và không ngần ngại chạy đua theo xu hướng vì muốn khẳng định mình không “lạc hậu” so với bạn bè. Việc sử dụng ngôn ngữ của học sinh có phần lệch chuẩn bởi tình trạng lạm dụng quá nhiều từ ngữ vay mượn nước ngoài, từ nước ngoài hay tiếng địa phương dẫn đến việc biến đổi ngôn ngữ tiếng Việt như: gọi đơn vị tiền tệ bằng “cành, củ, lít”, biểu thị cảm xúc ngỡ ngàng hay kinh khủng bằng từ “vãi”, hay việc ghép chữ cái khác thường với ngôn ngữ chuẩn, thay vì viết là “Chúc mừng sinh nhật” thì lại viết thành “Ckúc mừg sjnk nkat”. Ngôn ngữ của giới học sinh nói riêng và giới trẻ nói chung hiện nay khiến người lớn khó hiểu và khó chịu. Đáng nguy hại hơn là tình trạng nói tục chửi bậy, sử dụng ngôn ngữ thiếu văn hoá, các bạn học sinh thường xuyên chửi tục và dùng các từ ngữ thiếu văn hoá để nói chuyện với nhau. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đến từ nhiều phía, trước hết là do sự bùng nổ của công nghệ thông tin, Internet khiến học sinh dễ du nhập trào lưu, lại thêm sự buông lỏng quản lý của gia đình và nhà trường nên các bạn học sinh thỏa sức ăn nói theo cách của mình. Việc tiếp cận những văn hoá phẩm đồi truỵ, lệch lạc cũng là nguyên nhân khiến các em suy đồi văn hoá ngôn ngữ. Việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt không đúng chuẩn mực dẫn đến nhiều hậu quả, làm cho ngôn ngữ của dân tộc bị méo mó, biến chất và mất đi bản sắc vốn có, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt, làm giảm giá trị của ngôn ngữ, ảnh hưởng lớn đến việc giao tiếp và văn hoá ứng xử giữa mọi người. Để có thể ngăn chặn vấn nạn này, cần có sự chung tay của gia đình, nhà trường và toàn thể xã hội nhưng quan trọng hơn hết vẫn là chính người học sinh nhận thức những lệch lạc trong sử dụng ngôn ngữ của mình. Gia đình nên kiểm soát và quản lý con cái chặt chẽ, giáo dục nếp ăn nói ứng xử sao cho có văn hóa, đúng chuẩn mực. Nhà trường cần giáo dục học sinh bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, nhận diện và bài trừ những biểu hiện sử dụng ngôn ngữ lệch chuẩn. Xã hội cần quản lý nghiêm ngặt các chương trình quảng bá nội dung không đảm bảo chất lượng, chuẩn mực.
Học sinh chúng ta cần phải trau dồi vốn ngôn ngữ tiếng Việt của mình, phải biết tiếp thu có chọn lọc để sử dụng ngôn ngữ một cách đúng chuẩn mực. Tuyệt đối không nên học đòi, a dua theo những trào lưu tiêu cực, đồng thời khuyên bảo bạn bè tránh xa lối ăn nói vô văn hoá, thiếu đạo đức.