Văn mẫu lớp 11: Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương (Dàn ý + 3 mẫu), Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ giúp các bạn cảm nhận được niềm tâm sự và
Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương gồm dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu, giúp các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ biết cách cảm nhận 2 câu thơ kết bài Thương vợ.
Hai câu kết trong bài thơ Thương vợ là cả một nỗi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia cảnh nghèo. Mời các bạn cùng theo dõi tài liệu trong bài viết dưới đây.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích hai câu cuối bài Thương vợ
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Tú Xương (Trần Tế Xương): một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi
– Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú
– Giới thiệu vị trí của hai câu kết.
II. Thân bài
– Sinh sống trong xã hội nửa tây nửa ta, công danh có thể mua bằng tiền thì những con người dẫu tài năng như Tú Xương cũng phải lận đận lên xuống với thi cử, công danh.
– Mãi theo đuổi con đường công danh, lí tưởng lớn của cuộc đời mà Tú Xương đã không thể hoàn thành vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia đình, mọi gánh nặng con cái, gia đình vô tình đã trút hết lên đôi vai gầy yếu của bà Tú.
– Bà Tú đã không quản ngược xuôi, tần tảo với công việc buôn bán nhiều bon chen, xô bồ để nuôi sống cả gia đình.
– Tác giả Tú Xương đã tự chế giễu bản thân khi đặt mình ngang hàng với bốn đứa con thơ.
– Ông đã tự giễu sự vô dụng của bản thân, đồng thời thể hiện sự trân trọng, cảm thương với cái vất vả, lam lũ của bà Tú “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”.
– Càng thấu hiểu với nỗi khổ của bà Tú bao nhiêu thì tác giả Tú Xương càng tự trách mình bấy nhiêu.
– Bằng ngôn ngữ đời thường, tác giả Tú Xương đã lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo đã mang đến bao thử thách khắc nghiệt của con người.
–> Cũng chính xã hội nửa tây nửa ta ấy đã khiến Tú Xương mãi lận đận với con đường thi cử mà trở thành kẻ vô dụng mang gánh nặng đến cho vợ con.
– Tác giả ý thức được nỗi khổ của vợ, cũng thấy được sự thiếu sót trong trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nên ông đã cay đắng thừa nhận mình là người chồng hờ hững.
III. Kết bài
– Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung 2 câu kết trong bài Thương vợ.
– Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.
Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ – Mẫu 1
Trần Tế Xương (1870-1907), thường hay gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định, sinh thời là người học rộng tài cao, có chí nhưng lại không gặp may mắn trong con đường công danh. Vì bất đắc chí trong chuyện học hành thi cử nên ông Tú thường lấy việc sáng tác văn chương làm thú vui để đỡ đi nỗi chán chường, day dứt. Thơ văn của ông là sự kết hợp, lồng ghép giữa các yếu tố trữ tình, trào phúng và hiện thực sâu sắc, đôi lúc người ta thường ví đôi mắt nhìn của ông Tú và những tác phẩm của ông chính là cuốn nhật ký đặc sắc về một thời đại mà xã hội rối ren Tây, Tàu, Ta lẫn lộn. Với cuộc đời ngắn ngủi chỉ khoảng 37 năm trời thế nhưng Tú Xương đã để lại một sự nghiệp thơ ca khá đồ sộ với 100 tác phẩm, ấn tượng hơn cả là trong số những tác phẩm ấy ông đã dành hẳn một đề tài để viết người vợ tào khang – bà Tú. Trong số đó, bài thơ Thương vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, tình cảm ấy được bộc lộ một cách chân thực và rõ nét nhất là ở hai câu kết tự như lời “chửi” của bài thơ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng hờ hững cũng như không”.
Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu về đề tài trữ tình của Tú Xương, thơ xưa dưới quan niệm phong kiến cổ hủ, trọng nam khinh nữ thường hiếm có các tác phẩm viết về người vợ, người phụ nữ. Phái nam nhân thường thường giam mình trong một lối mòn suy nghĩ rằng người vợ phải tam tòng tứ đức, đã theo chồng thì việc chịu gian khó, cực nhọc hầu hạ, nâng túi sửa khăn cho người chồng đã là điều đương nhiên, có mệt có khổ âu cũng là thường tình, không việc gì phải trăn trở, thay vào đó cái họ trăn trở thường cao xa, vượt khỏi cuộc sống tầm thường. Nhưng đến Tú Xương thì lại khác, không phải vì ông vô công rỗi nghề, vì ăn lương vợ mà ông phải viết thơ, viết văn để ca ngợi vợ, mà chính xuất phát từ tình yêu thương và lòng trân trọng vô hạn của một người chồng dành cho người vợ tào khang của mình. Xuất phát từ ý thức về cuộc đời, ý thức về những nỗi vất vả gian lao của vợ, mà cái cuộc đời khốn nạn đã không cho ông có thể san sẻ với bà Tú, để cả gia đình với bảy miệng ăn đè nặng lên đôi vai một mình bà Tú. Phải công nhận rằng, Tú Xương có một gia tài thơ ca đồ sộ đến hơn trăm bài như thế, một phần lớn nhà nhờ công lao của vợ ông, ông có thể thiếu may mắn trong con đường công danh, thế nhưng trái lại ông trời đã cho ông một người vợ thảo hiền hết mực, bà tôn trọng, thương yêu, hy sinh vì chồng con hết mực. Dẫu áp lực cơm áo đang trĩu nặng trên vai nhưng bà Tú cũng không muốn chồng mình rời khỏi nghiệp bút nghiên để lao vào cuộc sống lao động vất vả, bà vẫn muốn ông là một tú tài được thỏa sức với nghiệp văn chương, không phải chịu nhiều gian khó. Tấm lòng ấy của vợ, Tú Xương nhìn thấy một cách rõ ràng, ông không vô tình gạt sang một bên hay giấu giếm ở trong lòng để giữ tự tôn của một người đàn ông phong kiến, mà trái lại ông đưa hết những tình cảm ấy vào thơ văn của mình, bằng ngôn từ giản dị, chân thực, đôi lúc có chỗ đanh đá, chua ngoa, nhưng đó lại mới đúng là đặc sắc thơ văn Tú Xương, trữ tình, hiện thực và trào phúng luôn đan xen với nhau.
Hai câu cuối trong bài Thương vợ của Tú Xương, đích xác nghe giống một câu “chửi”.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
“Cha mẹ” ở đây không phải có ý trách móc gì phụ mẫu, chẳng qua là Tú Xương thương vợ khổ cực quá, ông tức cho cái thói đời nhiễu nhương rối loạn, không cho nổi ông một con đường công danh sáng lạn, không để ông vung hết cái tài của mình, mà bấy nhiêu lâu thi thố cũng chẳng ăn ai, vẫn chỉ một kiếp tú tài bé con. Giá như thời buổi Nho học còn thịnh, cỡ tú tài cũng khấm khá, cũng có thể gõ đầu vài lớp trẻ, thế nhưng đời bạc, phận cũng bạc theo ông lại sinh ra đúng cái buổi Tây, Tàu trà trộn làm bát nháo đi cái nề nếp văn hóa lâu đời của đất nước. Xã hội phong kiến suy tàn, Nho học suy tàn, những bậc trí thức đương thời cũng chán chường lui về chốn thôn quê, không màng thế sự, bởi khi ấy đạo đức xã hội xuống cấp, đồi bại, nhân cách con người biến dạng, họ sẵn sàng vứt bỏ liêm sỉ, đạo đức chà đạp lên nhau mà chuộc lợi, ăn sung mặc sướng. Còn những người có tâm, có tài như Tú Xương lại phải chịu cái kiếp để bọn ô hợp đè đầu cưỡi cổ, phải chịu cảnh lực bất tòng tâm. Thử hỏi có thể không uất ức, không buông một tiếng chửi cái “thói đời ăn ở bạc” được hay không?
Tiếng chửi đời ấy, cũng là tiếng tự chửi mình của Tú Xương, ông tự trách mình bất tài, vô dụng không thể san sẻ bớt gánh nặng cho vợ, mà chỉ biết làm một người chồng ngày ngày ăn lương vợ, giương mắt nhìn vợ mình chịu biết bao khó nhọc. Như vậy bà Tú đúng như lời Tú Xương nói “Có chồng hờ hững cũng như không”, dưới chế độ phong kiến, đạo lí vẫn là người chồng gồng gánh việc mưu sinh, là trụ cột của cả gia đình, còn người vợ có trách nhiệm tề gia nội trợ, nuôi dạy con cái, thượng đế sinh ra đàn ông và đàn bà thực tế cũng đã có ý như thế rồi. Thế nhưng trong gia đình của Tú Xương thì lại khác, một mình bà Tú gánh cả hai gánh nặng ấy trên vai, bà không nỡ để chồng đi làm thuê cho bè lũ tay sai, cho quân xâm lược mà ông vốn ghét cay ghét đắng, bà cũng chẳng yên tâm để ông bếp núc, con cái, thế là bà ôm tất. Ý thức được hoàn cảnh gia đình, Tú Xương lại càng thêm tự trách, càng thêm đau đớn và căm ghét cái xã hội đẩy đưa, đốn mạt lúc bấy giờ.
Nhưng phải chăng Tú Xương chỉ chửi đời, chửi mình? Tú Xương còn chửi cả những kẻ giống mình nữa, ông chửi những kẻ bạc bẽo, tinh ăn lười làm, thích hưởng thụ, coi vợ là người ăn kẻ ở, phải phục dịch cho những thói ăn chơi, hưởng thụ của mình. Chửi những ông chồng, những kẻ đốn mạt, nỡ vứt lên đôi vai người vợ kết tóc những gánh nặng chất chồng, nhưng lại chẳng có lấy một sự day dứt, thương cảm, không biết tôn trọng yêu quý vợ mình, để những người phụ nữ bất hạnh ấy phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực của cuộc đời. Như vậy đúng với cái câu “Có chồng hờ hững cũng như không” thật, chẳng bằng họ không lấy chồng có khi cuộc đời lại đỡ vất vả.
Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một cách sâu sắc và cảm động tình cảm chân thành của người chồng dành cho vợ mình, dẫu rằng ông không cho bà được một cuộc sống ấm no, êm đềm thế nhưng cách mà ông tôn trọng, yêu thương bà Tú khiến bà có một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực để bà Tú tiếp tục cố gắng vì gia đình, điều ấy khiến người ta thật ngưỡng mộ. Hai câu thơ cuối là những lời tâm huyết tận đáy lòng, cũng là tiếng phản kháng của Tú Xương trước cuộc đời đen bạc, là lời tự trách đầy chua xót, cay đắng của ông với chính bản thân, với cả những đức ông chồng tệ hại, vô dụng, để vợ phải vất vả cực nhọc cả cuộc đời.
Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ – Mẫu 2
Ai cũng biết hai câu kết trong bài Thương vợ là Trần Tế Xương mượn lời bà Tú để chửi đời và chửi mình. Chính cái thời buổi nhố nhăng dở tây dở ta lúc bấy giờ đã buộc một người giỏi thơ phú văn chương như ông phải lận đận ở chốn trường thi. “Thi không ăn ớt thế mà cay“, “Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng“, “Đệ nhất buồn là cái hỏng thi” …Vì hỏng thi liên tục nên Tú Xương không thể đỡ đần san sẻ cái gánh nặng gia đình với vợ. Ông đành để một mình bà “nuôi đủ năm con với một chồng”. Ông chửi cái vô tích sự của mình nhưng chỉ dừng lại ở đó tôi e chúng ta chưa hiểu hết Tú Xương và nỗi niềm thương vợ của ông
Tú Xương không chỉ thương cái vất vả lam lũ của bà Tú “lặn lội thân cò“ “eo sèo mặt nước”… mà còn sự hụt hẫng trong đời sống tình cảm của bà. Phải thành thực đến mức nào phải thấu hiểu nỗi niềm bà Tú đến mức nào nhà thơ mới hạ được hai câu độc chiêu đến như vậy. Sức nặng của bài thơ ở hai câu kết này. Với bà Tú mọi vất vả khó khăn trong việc buôn bán làm ăn bà đều chấp nhận. Cả việc nuôi chồng nuôi con bà cũng “âu đành phận”. Bà không than phiền trách cứ gì ông. Hơn ai hết bà biết chồng mình đang phải lo sôi kinh nấu sử thi thố với người. Nếu ông Tú có lúc nào đó hờ hững với bà thì chắc bà cũng thông cảm cũng bỏ qua.
Điều mà nhà thơ ân hận nhất day dứt nhất cắn rứt lương tâm nhất phải chăng là ông tự cảm thấy có khi có lúc mình quả hờ hững với vợ thật. Ông vốn là người phóng túng và đa tình. Chính ông đã từng “đi hát mất ô“ chính ông đã từng buông những lời nửa đùa nửa thật:
“Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình”
Chính ông đã từng nhắn với người được ông dùng áo bông che đầu khi trời đổ mưa:
“Ai ơi có nhớ ai không
Trời mưa một chiếc áo bông che đầu
Nào ai có tiếc ai đâu
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô”.
Bởi vì thế mà ông tự thấy mình ít nhiều hờ hững với bà Tú. Hờ hững với người “lặn lội thân cò“, “eo sèo mặt nước“ để nuôi con và nuôi cả chính mình. Sự hờ hững ấy thật là đáng trách. Tú Xương thành thật thấy mình có lỗi với bà. Càng tự trách mình bao nhiêu ông càng cảm thấy thương vợ bấy nhiêu. Nhà thơ hiểu rằng cái sự hờ hững ấy của ông đã làm cho bà Tú bao đêm trằn trọc thao thức đau khổ. Nếu bà Tú có bực có chửi cũng là điều tất nhiên. Ông cha từng nói ”ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng“. Trước đây nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng chửi:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không …”
Chính sự hờ hững này mà ông Tú cảm thấy mình ăn ở bạc với bà. Người ta đầu tắt mặt tối để nuôi mình nuôi con mà mình lại vẩn vơ tơ tưởng đến người khác là ăn ở bạc chứ còn gì nữa! Cái vô tích sự không giúp được gì cho vợ vì phải lo dùi mài đèn sách chưa hẳn đã là ăn ở bạc. Ăn ở bạc ở đây chính là sự bạc tình bạc nghĩa. Tú Xương tự cảm thấy mình là kẻ đáng chê trách đáng phê phán.
Thời Tú Xương chuyện đàn ông năm thê bảy thiếp đang còn là chuyện bình thường. Huống gì nhà thơ lại là người phóng túng và đa tình. Việc ông làm thơ tặng ai đó cũng là chuyện thường thấy ở không ít các nhà thơ từ xưa đến nay. Tiên sinh Tản Đà còn làm thơ tặng những người tình nhân không quen biết làm thơ trêu ghẹo cả chị Hằng và thao thức bởi người đàn bà đi chung một chuyến tàu “ai về để nhớ để sầu cho ai“. Nhưng có lẽ chỉ có Tú Xương là thành thật thú nhận sự hờ hững của mình đối với vợ.
Theo tôi từ “hờ hững” là từ đắt nhất trong toàn bộ bài thơ vì nó chứa đựng rất nhiều ẩn ý. Hiểu được nhu cầu tình cảm hết sức chính đáng của bà Tú nói riêng và phụ nữ nói chung là một khía cạnh của giá trị nhân văn. “Có chồng hờ hững cũng như không” đâu chỉ là tiếng lòng của bà Tú mà đó cũng là tiếng lòng của tất cả những người phụ nữ trên thế gian này.
“Có chồng hờ hững cũng như không” cũng là lời cảnh báo của Tú Xương đến tất cả những đức ông chồng đa tình và lãng tử như ông: Hãy quan tâm đến đời sống tình cảm của phụ nữ! Đó vừa là thông điệp vừa là một trong những bí quyết hết sức quan trọng để giữ vững hạnh phúc gia đình.
Phân tích hai câu cuối bài Thương vợ – Mẫu 3
Bài thơ “Thương vợ” không chỉ thể hiện tình thương, sự trân trọng của nhà thơ Trần Tế Xương với sự tần tảo, hi sinh của bà Tú mà còn là lời tự giễu, chê trách chính bản thân nhà thơ khi thân nam nhi nhưng lại chẳng thể hoàn thành trách nhiệm với gia đình mà mãi lận đận với con đường công danh, mang đến gánh nặng cho đôi vai gầy yếu của vợ. Nỗi bất bình với thời thế, lời tự trách đối với sự hờ hững của bản thân được tác giả Trần Tế Xương thể hiện rõ nét qua hai câu thơ cuối của bài thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Sinh sống trong xã hội nửa tây nửa ta, công danh có thể mua bằng tiền thì những con người dẫu tài năng như Trần Tế Xương cũng phải lận đận lên xuống với thi cử, công danh. Ông đã từng nhiều lần thể hiện nỗi cay đắng với nghiệp công danh đầy trắc trở của bản thân “Thi không ăn ớt thế mà cay” hay “Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng”.
Mãi theo đuổi con đường công danh, lí tưởng lớn của cuộc đời mà Tú Xương đã không thể hoàn thành vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia đình, mọi gánh nặng con cái, gia đình vô tình đã trút hết lên đôi vai gầy yếu của bà Tú. Để lo cho gia đình, chồng con bà Tú đã không quản ngược xuôi, tần tảo với công việc buôn bán nhiều bon chen, xô bồ “quanh năm buôn bán ở mom sông” cùng với gánh nặng gia đình đổ lên đôi vai gầy yếu “nuôi đủ năm con với một chồng”.
Tác giả Tú Xương đã tự chế giễu bản thân khi đặt mình ngang hàng với bốn đứa con thơ. Ông đã tự giễu sự vô dụng của bản thân, đồng thời thể hiện sự trân trọng, cảm thương với cái vất vả, lam lũ của bà Tú “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”. Tuy gánh trên vai mọi gánh nặng nhưng bà Tú không hề than vãn, trách móc số phận mà chấp nhận toàn bộ gian khó về mình chỉ mong mang đến cuộc sống lo đủ cho chồng con.
Càng thấu hiểu với nỗi khổ của bà Tú bao nhiêu thì tác giả Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu. Đến hai câu thơ cuối của bài thơ, tác giả đã thể hiện sự phẫn uất trước cái bạc bẽo của cuộc đời, trước sự vô dụng của bản thân:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Bằng ngôn ngữ đời thường, tác giả Tế Xương đã lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo đã mang đến bao thử thách khắc nghiệt của con người. Cũng chính xã hội nửa tây nửa ta ấy đã khiến Tú Xương mãi lận đận với con đường thi cử mà trở thành kẻ vô dụng mang gánh nặng đến cho vợ con. Lời chửi của Tế Xương gợi liên tưởng đến lời chửi đầy chua chát của Hồ Xuân Hương trước cảnh chung chồng:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”
Vì mải theo đuổi nghiệp công danh, Tế Xương trở thành người chồng hờ hững, tác giả ý thức được nỗi khổ của vợ, cũng thấy được sự thiếu sót trong trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nên ông đã cay đắng thừa nhận mình là người chồng hờ hững “có chồng hờ hững cũng như không”.
Hai câu thơ cuối của bài thơ đã thể hiện được nỗi bất bình của nhà thơ Tế Xương đối với cuộc đời bạc bẽo, tự giễu bản thân khi chưa hoàn thành được trách nhiệm với gia đình, thân làm nam nhi nhưng lại để vợ bươn chải với cuộc sống lam lũ vất vả. Bài thơ cũng thể hiện được tấm lòng đáng trân trọng của con người đầy tình nghĩa của Tế Xương.