Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh, sẽ giúp
Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh, là tài liệu vô cùng hữu ích mà chúng tôi muốn giới thiệu đến bạn đọc.
Tài liệu này bao gồm dàn ý chi tiết và 3 bài văn mẫu lớp 7. Hy vọng có thể giúp ích cho học sinh trong quá trình tìm hiểu Bài thơ Rằm tháng giêng.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích bài thơ Rằm tháng giêng
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh.
– Giới thiệu về bài thơ “Rằm tháng giêng”.
II. Thân bài
1. Thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng
– Hình ảnh ánh trăng: “nguyệt chính viên” – trăng đúng lúc tròn nhất.
=> Không gian bao la, tràn ngập ánh trăng.
– Sức sống của mùa xuân: “xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
=> Ba chữ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức xuân và sắc xuân đang trỗi dậy. Khung cảnh tràn đầy sức sống.
=> Hai câu đầu đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đêm rằm mùa xuân đẹp, bát ngát, rộng lớn và tràn đầy sức sống.
2. Hình ảnh con người trong đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc
– Công việc: “đàm quân sự” – bàn việc quân nghĩa là bàn việc kháng chiến, bàn việc sinh tử của của dân tộc.
– Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền”: gợi sức lan tỏa của ánh trăng trong đêm rằm và qua đó thể hiện ý nguyện, mong muốn vươn tới thành công trong sự nghiệp cách mạng.
=> Hai câu thơ cuối cho thấy phong thái ung dung, lạc quan, luôn tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng và tâm hồn giao cảm, hòa hợp với thiên nhiên của Bác Hồ.
III. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Đánh giá giá trị của tác phẩm.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 1
Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) là một trong những bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng cũng như qua đó bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Có lẽ hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ gì trong thơ ca. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng nhớ trong thơ Lý Bạch:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)
Ánh trăng trong thơ Lý Bạch dường như mang nỗi nhớ về quê hương. Còn trong “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại mang một ý nghĩa khác.
Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong một đêm rằm tháng giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” – đó là lúc trăng ở vào độ tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng lại đẹp hơn cả. Không chỉ vậy, sắc xuân từ ánh trăng giống như đang bao trùm lên mọi cảnh vật khiến cho “sông xuân”, “nước xuân” và “trời cũng thêm xuân”. Từ “xuân” được điệp lại tới ba lần như muốn khẳng định sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian. Không gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho cảnh vật thiên nhiên trở nên rộng lớn hơn chứ không bó hẹp. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” cũng gợi ra vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất đều tràn ngập ánh trăng.
Trong bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên đi một nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi công việc hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo. Chính vì vậy, những người chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn thời điểm trong đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Vì quá say sưa bàn luận mà họ dường như quên mất đi thời gian, để đến khi công việc đã xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Và ánh trăng lúc này cũng là sáng nhất. Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như thắng lợi của cách mạng không còn xa nữa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng đầy thơ mộng cùng tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, người đọc cũng thấy được một tâm hồn thi sĩ đầy tinh tế nhạy cảm của Bác Hồ.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 2
Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của chủ tịch Hồ Chí Minh
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này dường như bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc khiến cho cảnh vật trở nên ấm áp hơn. Đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn:
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng tràn đầy sức sống.
Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với một công việc thật cao cả:
Yên ba thâm sứ đàm quân sự
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Chính vì vậy, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân, đó là những công việc quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc. Và cuối cùng, bài thơ kết lại bằng một câu thơ:
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước, mà khi trở về thì đêm đã về khuya? Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác Hồ muốn thể hiện khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc như thấy được một phong thái ung dung, lạc quan và lòng tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.
“Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất, con thuyền. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả được bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc thật sinh động.
Qua bài thơ trên, ta không chỉ thấy được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn là con người kiên cường và trung thành với cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phân tích bài thơ Rằm tháng giêng – Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong số những tác phẩm Bác để lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” là một tác phẩm nổi bật để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc.
Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Sau khi họp xong thì đêm cũng đã khuya. Hình ảnh ánh trăng sáng lan tỏa khắp không gian núi rừng rộng lớn. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Câu thơ mở đầu gợi ra cho người đọc hình dung về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Để rồi cả “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Trong thơ ca cổ, những hình ảnh “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật.
Để rồi, đến khi con người xuất hiện thì bức tranh ấy lại càng tuyệt đẹp. Giữa màn sương khói mờ ảo, con người hiện ra trong công việc “đàm quân sự” – một công việc quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh nơi sông nước sương khói mờ ảo kia không phải là những người ẩn sĩ trong thơ ca xưa khi tìm về với chốn thiên nhiên để tránh khỏi những thị phi của cuộc đời giống như trong thơ của Cao Bá Quát:
“Thế sự thăng trầm quân mặc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu”
(Việc thế thăng trầm anh chớ hỏi
Mênh mông khói sóng chiếc thuyền câu)
Mà đó là hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Khi khắc họa hình ảnh này, Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng – họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Công việc quan trọng của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ. Chỉ đến khi công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Cảnh tượng thiên nhiên khiến tâm hồn thi sĩ rung động, bồi hồi.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã bộc lộ được tình yêu thiên nhiên cũng như lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Đồng thời, qua đó Bác cũng gửi gắm một niềm tin chiến thắng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.