Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà (Dàn ý + 3 mẫu), Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu tài liệu Bài làm văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người
Người lái đò sông Đà là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Đây cũng là một trong những tác phẩm trọng tâm trong chương trình Ngữ Văn lớp 12 chuẩn bị cho kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới.
Chính vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu tài liệu Bài làm văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà, bao gồm dàn ý chi tiết và 3 bài văn mẫu. Kính mời thầy cô và bạn đọc cùng tham khảo.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
I. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.
– Nguyễn Tuân đã khắc họa nên một cảnh tượng có một không hai – cảnh vượt thác của người lái đò sông Đà.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm và cảnh vượt thác
* Về tác phẩm:
– “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
– Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
– Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960).
– Bố cục gồm ba phần:
- Phần 1 (từ đầu đến gậy đánh phèn): Sự dữ dội, hung bạo của sông Đà.
- Phần 2 (tiếp đến dòng nước sông Đà): Cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò.
- Phần 3 (còn lại): Vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà.
* Về cảnh vượt thác:
– Cảnh vượt thác của ông lái đò nằm ở phần thứ hai: Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình tượng ông lái đò.
– “Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn.
– Được Nguyễn Tuân gọi là cảnh tượng có một không hai, “xưa nay chưa từng có”.
2. Phân tích cảnh vượt thác
* Ở trùng vi thứ nhất:
– Con sông Đà:
- Thạch trận với bốn cửa sinh và một cửa tử.
- Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá.
- Sóng thác đã đánh miếng đòn hiểm độc nhất bóp chặt lấy hạ bộ.
=> Không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp
– Ông lái đò:
- Thạch trận dàn bày vừa xong thì con thuyền vut tới.
- Mặt ông lái đò méo xệch đi.
- Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng.
=> Con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.
* Ở trùng vi thứ hai:
– Con sông Đà:
- Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn
- Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá
=> Con sông Đà trở nên khôn ngoan hơn.
– Ông lái đò:
- Nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá.
- Ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh.
=> Vượt qua hết cửa tử.
* Ở trùng vi cuối cùng:
- Ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ.
- Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
=> Con sông ngày càng mưu mẹo muốn dồn người lái đò vào chỗ chết.
– Ông lái đò:
- Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.
- Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được.
=> Ông lái đò đã chiến thắng con sông hung dữ.
* Nhận xét:
– Cảnh vượt thác đã thể hiện tài hoa của ông lái đò: Ông chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn.
– Đây chính là một cảnh tượng có một không hai.
3. Nghệ thuật
– Ngôn ngữ phong phú, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
– Sử dụng nhiều động từ mạnh.
– Lối so sánh liên tưởng độc đáo.
III. Kết bài
– Nguyễn Tuân thực sự đã xây dựng được một cảnh tượng đặc sắc “xưa nay chưa từng có”.
– Người lái đò sông Đà xứng đáng là một tác phẩm kiệt tác viết về người lao động vùng Tây Bắc.
Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà – Mẫu 1
Có quan điểm cho rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Khi đọc tùy bút “Người lái đò sông Đà” chắc hẳn người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với cảnh vượt thác được nhà văn gọi là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960). Truyện gồm ba phần chính: Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà.
Bằng sự tài hoa và uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình. Và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh miền sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Cảnh vượt thác của ông lái đò nằm ở phần thứ hai trong “Người lái đò sông Đà”. Cảnh vượt thác là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn được Nguyễn Tuân khắc họa một cách sáng tạo và đầy hấp dẫn.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp – Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn. Ông lái đò năm nay, tuổi ngoài 70 nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích của những lần vượt thác mà Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”. Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Ông lái đò không chỉ được khắc họa qua ngoại hình mà còn qua tài năng, tính cách. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá.
Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là “trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là tài năng của bậc thầy phù thuỷ ngôn ngữ như Nguyễn Tuân. Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,…
Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.
So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường.
Qua phân tích trên, người đọc như được mở rộng tầm mắt trước tài năng miêu tả tài tình của nhà văn Nguyễn Tuân. Cảnh tượng vượt thác vốn bình thường của những người lái đò đã trở thành một cảnh chiến trận “xưa nay chưa từng có”.
Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà – Mẫu 2
Nguyễn Đình Thi gọi “Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”. Quả vậy, khi đọc “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ ấn tượng bởi tài hoa của ông lái đò, nhất là khi đọc đến cảnh vượt thác – một cảnh tượng có một không hai.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960). Văn bản trong sách giáo khoa gồm có ba phần. Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà. Và cảnh vượt thác nằm ở phần thứ hai của tác phẩm với ba trùng vi chiến trận nối tiếp nhau làm nổi bật rõ tài năng của ông lái đò.
Không khí chiến trận đã xuất hiện ngay từ câu văn mở đầu: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”. Ở vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí thạch trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu văn đã cho thấy được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò. Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nhưng với kinh nghiệm nhiều năm vượt thác, ông lái đò đã không mắc bẫy. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận này ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm, con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Cao trào nhất là ở vòng cuối cùng, lúc này con Sông Đà với tinh thần không còn gì để mất đã quyết định tung ra mọi món đòn hiểm nhất của mình. Ở vòng này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Vậy là cuối cùng, ông lái đò đã chiến thắng trước con sông đà hung dữ.
Đoạn văn cảnh vượt thác được Nguyễn Tuân miêu tả thật tài tình với ngôn ngữ giàu hình ảnh. Nhà văn đã biến cuộc vượt thác trở thành một cuộc chiến đầy gay cấn và khốc liệt khiến cho người đọc cảm thấy hồi hộp khi đọc. Đặc biệt với việc sử dụng nhiều động từ mạnh để diễn tả sự cuồng nộ của con sông Đà. Mật độ động từ dày đặc diễn tả nhiều hành động liên tiếp dồn dập, mạnh mẽ khiến người đọc như nghẹt thở để rồi thở phào nhẹ nhõm khi kết thúc.
Tóm lại, cảnh vượt thác của ông lái đò chính là một cảnh tượng độc đáo, hấp dẫn người đọc đến từng câu từng chữ. Nguyễn Tuân đã thành công khi khắc họa cảnh tượng độc đáo này để làm nổi bật nên sự tài hoa của người lái đò sông Đà.
Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà – Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một người đam mê “chủ nghĩa xê dịch”. Trên hành trình tìm đến vùng cao Tây Bắc, ông đã cho ra đời tùy bút Sông Đà, trong đó nổi bật lên chính là “Người lái đò sông Đà”. Khi đọc tác phẩm này, có lẽ không người đọc nào quên được cảnh vượt thác của ông lái đò – một cảnh tượng độc nhất vô nhị.
Người lái đò sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Tác phẩm gồm ba phần chính: Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà. Cuộc vượt thác có một không hai nằm ở phần hai của tác phẩm nhằm tô đậm chất tài hoa của ông lái đò. Đối với Nguyễn Tuân lúc này, người nghệ sĩ chính là những con người lao động bình dị nhưng lại có chất nghệ sĩ trong chính nghề nghiệp của mình. Và cảnh tượng ông lái đò vượt qua con thác đã thể hiện thành công điều đó.
Thác đá sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Quả vậy, trong vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí chiến trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Nhà văn còn miêu tả: “Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Đối chọi với thác đá là “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu văn đã cho thấy được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò. Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Ở vòng vây thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Đối diện với thế trận mới, ông lái đò không tỏ ra nao núng. Người lái đò với kinh nghiệm hơn mười năm vượt thác tràn đầy tự tin. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận này ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm, con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Đến vòng trận cuối cùng, con sông Đà tung ra đòn quyết định. Ở vòng này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dù vậy, vị thuyền trưởng ấy vẫn vững vàng chỉ huy sáu bơi “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa”, chọc thủng hàng phòng ngự của quân địch. Lúc này đây con thuyền “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Kết thúc trận thủy chiến với phần thắng nghiêng về ông lái đò. Khi đọc đến người đọc như được thở phào nhẹ nhõm vì chiến thắng của người lái đò sông Đà.
Để có thể khắc họa một cách sinh động cảnh vượt thác của Nguyễn Tuân đã sử dụng tài năng của một bậc thầy ngôn từ với việc kết hợp những từ ngữ chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: văn chương, thể thao, quân sự, võ thuật… Cùng với đó là việc sử dụng nhiều động từ mạnh để miêu tả sự hung bạo của con sông cũng như tài năng của ông lái đò.
Cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” đã trở thành một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” góp phần tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò sông Đà. Còn Nguyễn Tuân đích thực là một nhà văn của cái đẹp.