Văn mẫu lớp 9: Phân tích Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Phân tích Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mang tới 2 dàn ý chi tiết, cùng 6 bài phân tích ngắn
Phân tích Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng mang tới 2 dàn ý chi tiết, cùng 6 bài phân tích ngắn gọn, giúp các em học sinh lớp 9 tích lũy vốn từ để viết bài phân tích Chiếc lược ngà hay hơn. Nhờ đó, sẽ ngày càng học tốt môn Văn 9.
Với 6 bài phân tích Chiếc lược ngà ngắn gọn này, sẽ giúp các em hiểu được tình cảm gia đình thiêng liêng, cao đẹp trong thời chiến tranh khắc nghiệt. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Tài Liệu Học Thi nhé:
Đề bài: Phân tích truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích Chiếc lược ngà
- 2 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 1
- 3 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 2
- 4 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 3
- 5 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 4
- 6 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 5
- 7 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 6
Dàn ý phân tích Chiếc lược ngà
Dàn ý 1
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Quang Sáng và truyện ngắn Chiếc lược ngà.
2. Thân bài
a. Khái quát về truyện ngắn
- Viết về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu.
- Tình cảm cha con được thử thách qua tình huống éo le.
b. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách
– Ông Sáu xa mong chờ được gặp con sau nhiều năm xa cách.
– Bé Thu sợ hãi, quyết không chịu nhận ông Sáu là cha mình:
- Nói trổng khi nhờ ông Sáu giúp đỡ.
- Hất cái trứng ra khỏi bát khi được ông Sáu gắp cho.
– Sự bướng bỉnh của bé Thu–> Ông Sáu nóng giận mà đánh con–> Hối hận.
b. Cha con đoàn tụ
- Bé Thu nghe bà kể về chiếc sẹo của ông Sáu –> Hiểu ra tất cả.
- Bé Thu nhận cha –> Cha con đoàn tụ
- Ông Sáu lên đường làm nhiệm vụ, hứa tặng Thu chiếc lược ngà khi trở về.
c. Chiếc lược ngà – tình cha con thiêng liêng, cảm động
- Ông Sáu trở lại chiến trường
- Dồn hết tâm huyết và tình yêu con để làm chiếc lược ngà.
- Ông Sáu hi sinh –> Nhờ đồng đội đưa lại chiếc lược cho Thu.
3. Kết bài
- Cảm nhận về tình cha con của ông Sáu và bé Thu.
Dàn ý 2
I. Mở bài
- Giới thiệu truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
- Giới thiệu tình huống truyện đặc sắc, giàu kịch tính và đậm chất thơ qua đó thấy được tài năng viết truyện của nhà văn cũng vai trò của tình huống truyện đối với việc thể hiện tư tưởng tác phẩm.
II. Thân bài
1. Nội dung tình huống truyện
- Ông Sáu nóng lòng muốn nhận con sau 8 năm xa cách nhưng bé Thu không nhận ông Sáu là ba chỉ vì vết thẹo trên má mãi tới khi mọi người chuẩn bị trở lại chiến trường miền Đông thì bé Thu mới chịu nhận ba.
- Ở chiến trường vì thương nhớ con ông Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh.
– Đặc điểm tình huống truyện Chiếc lược ngà
- Giàu kịch tính: gây bất ngờ, tò mò cho người đọc
- Giàu chất thơ: có cảm xúc, sức lay động lòng người
2. Phân tích, chứng minh
* Kịch tính trong tình huống truyện
– Cuộc gặp gỡ giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu đầy bất ngờ khi bé Thu không nhận ba:
+ Mọi nỗ lực của ông Sáu trong những ngày ở nhà không thể thay đổi được thái độ của bé Thu đối với mình.
– Trước khi ông Sáu đi thật bất ngờ bé Thu lúc này lại thét lên “Ba…a…a…ba!” nhận ông Sáu là ba.
– Trở lại chiến khu miền Đông, tất cả tình yêu thương ông Sáu dồn vào làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh.
+ Trước khi hy sinh ông Sáu trao lại cây lược ngà cho bác Ba – người đồng đội thân thiết cũng là người chứng kiến câu chuyện của cha con ông Sáu.
→ Tình huống chuyện liên tục thay đổi tạo kịch tính, bất ngờ, gây xúc động cho người đọc.
* Chất thơ thể hiện
– Tình huống truyện cuộc gặp gỡ của cha con ông Sáu giàu chất thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt, xúc động của tình cha con.
- Hình ảnh ông Sáu vội vàng trong hành động, bối rối trong lời nói với con khiến người đọc cảm thấy cảm động
- Khi đứa con không nhận ông Sáu là cha, sự thất vọng của ông Sáu lại khiến người đọc thấy xót thương
– Đoạn miêu tả cảnh cha con ông Sáu từ biệt giàu cảm xúc đặc biệt là thái độ của của bé Thu dành cho cha lay động lòng người (“Nhìn thấy cảnh ấy bà con xung quanh không có ai cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó thở như nắm lấy trái tim tôi”).
– Tình huống ông Sáu làm cây lược ngà và trao lại trước khi hy sinh là điểm nhấn cho giai điệu về tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh:
- Khi trở lại chiến trường, ông Sáu dốc tâm sức làm cho con chiếc lược bằng tất cả nỗi nhớ mong, tình yêu thương và cả niềm ân hận.
- Chiếc lược trở thành biểu tượng của tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp.
- Tình huống truyện toát lên tình cảm, cảm xúc mãnh liệt tinh tế, tạo chất thơ cho thiên truyện này.
III. Kết bài
- Truyện ngắn thành công khi xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính trong diễn biến truyện, gợi lên nhiều cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
- Tình huống truyện góp phần thể hiện tư tưởng của tác phẩm: Chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 1
Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng.
Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình. Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con. Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. “Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!”
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha. Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !”
Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé “lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má. Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.
Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa… Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ của bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn. Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện – thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng. Sức hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà, toát ra từ cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ mà hợp lí. Chuyện bé Thu lâu không nhận cha, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy cảm động với cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ đã gây được hứng thú cho người đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến lôgic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn.
Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu. Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái. Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng. Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.
Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của anh Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 2
“Khi con tát cạn biển Đông
Thì con mới hiểu tấm lòng của cha”
Tình cảm cha con mãi mãi là đề tài sâu sắc và ý nghĩa. Nguyễn Quang Sáng thấu hiểu được vấn đề ấy nên đã có những bài văn viết về tình cha con rất đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông bắt đầu viết văn sau năm 1954 và đề tài chủ yếu là cuộc sống con người Nam Bộ. Ông sáng tác nhiều truyện ngắn nhưng tác phẩm tạo được tiếng vang nhất là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. “Chiếc lược ngà” đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong tình cảnh éo le của chiến tranh.
Chiến tranh đi qua nhưng mãi mãi để lại trong lòng mọi người một nỗi khiếm khuyết, một nỗi đau rất khó lành. Nó đã chia cắt con người ta rất nhiều thứ, như tình cảm gia đình, tình cha con hay tình mẫu tử. Thấu hiểu được nỗi đau khổ ấy, Nguyễn Quang Sáng đã viết nên một câu chuyện ngắn “Chiếc lược ngà” là câu chuyện về tình cha con gây xót xa người đọc. Tình huống chuyện được Nguyễn Quang Sáng xây dựng rất tinh tế. Tình huống thứ nhất là anh Sáu được về thăm nhà 3 ngày sau mấy năm trời xa cách. Thế nhưng éo le thay là bé Thu lại không chấp nhận anh Sáu là ba vì một số hiểu lầm của cô bé. Nhưng đến khi anh Sáu sắp quay lại chiến khu thì cô bé mới chịu nhận anh Sáu là ba. Tình huống thứ hai là khi quay lại chiến khu anh Sáu đã làm tặng con gái một chiếc lược ngà, nhưng chưa kịp trao tặng tay cho con thì anh Sáu đã hi sinh. Tình huống truyện có phần éo le, bi kịch, nhưng tình tiết diễn ra đều rất tự nhiên như đúng ý tưởng mà nhà văn sáng tác nên.
Thu – một nhân vật được Nguyễn Quang Sáng xây dựng đặc sắc với ngôn ngữ thoại và tính cách nổi bật. Đầu tiên, là thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận anh Sáu là ba. Một cô bé sống với mẹ sau mấy năm trời ròng rã xa bố. Thu chỉ biết nhìn bố qua tấm ảnh mẹ đưa. Đến khi thuyền anh Sáu cập bến anh cất tiếng gọi “Thu!Con” đã làm cô bé giật mình. Một cô bé chừng tám tuổi, “tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi”. Với cái độ tuổi và sự hồn nhiên ấy sẽ dễ bị hoảng sợ khi gặp một người lạ mà có cách kêu thân mật với mình. Bé Thu “giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác lạ lùng”. Một cảm giác hoảng hốt và đầy nỗi sợ hãi của Bé Thu. Với việc miêu tả tâm lí nhân vật qua tài tình Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện lại y như thật với cách viết rất tinh tế. Sau đó con bé “vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má”. Tiếng kêu ấy như xé lòng, cho thấy bé Thu thật sự rất sợ hãi. Bé chỉ biết dựa vào mẹ của mình, vì nhiều năm trời chỉ biết mỗi có mẹ. Một sự thiếu thốn tình cảm ấy khiến cô bé trở nên rất đáng thương. Những nỗi đau khổ ấy đều cho chiến tranh mà ra.
Khi anh Sáu ở nhà ba ngày đã có những lần anh Sáu và bé Thu giao tiếp với nhau nhưng tất cả con bé đều trả lời trống rỗng không đầu không đuối khiến anh Sáu đau lòng. Như gọi anh Sáu ăn cơm bé Thu nói rỗng: “Vô ăn cơm” hay “cơm chín rồi”. Với cách miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc và am hiểu tính cách trẻ con nên tác giả đã xây dựng những câu thoại rất tự nhiên và hợp tình hợp lí. Từ đó, khiến không ít đọc giả đau lòng thay anh Sáu biết bao. Xa con bao nhiêu năm ròng rã, ngày trở về chỉ mong con gái nhận ba. Nhưng hoàn cảnh đã đi ngược lại mọi dự tính của anh Sáu, tất cả đều khiến anh đau lòng. Ngoài ra cô bé này còn nhiều lần nói rỗng khi chưa chịu nhận anh Sáu là ba như: “Cơm sôi rồi chắt nước giùm cái!” hay “Cơm sôi rồi nhão bây giờ”.
Những lời nói trống không ấy không thể nào trách cứ được bé Thu vì đó cũng là tâm lí của bao đứa trẻ con trong hoàn cảnh ấy. Ngay cả khi lên ăn cơm anh Sáu gắp cá cho mà cô bé còn hất văng ra đất. Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Bé Thu mãi mãi là cô bé đáng yêu nhất trong việc xây dựng nhân vật trong truyện ngắn này của tác giả Nguyễn Quang Sáng. Sau tất cả tác giả cũng để cho nhân vật mình nhận ra ba của mình, một chuỗi chi tiết lấy đi không ít nước mắt của người đọc, người nghe. Bé Thu nhận ra ba khi được bà ngoại dạy và kể câu chuyện cảm động: Thu không nhận anh Sáu là ba vì trên mặt anh Sáu có vết sẹo dài không giống như lúc mẹ cho Thu coi. Bà đã kể đó là vết sẹo đó do anh Sáu đi đánh Tây để lại. Cô bé hiểu chuyện nên đã biết mình nên làm gì vào sáng hôm sau khi anh Sáu chuẩn bị quay lại chiến trường. Thu đã nhận ba: con bé kêu thét lên: “Ba…a…a…! Ba!”.
Tiếng kêu ấy thật xé lòng cả anh Sáu và lẫn bé Thu và biết bao những người chứng kiến lúc ấy. Những điều ấy cho thấy nghệ thuật tài hoa trong việc miêu tả tâm lí và diễn biến cốt truyện của Nguyễn Quang Sáng. Cô bé Thu đã ôm chầm lấy ba của mình và nhất định không cho ba đi: “Con bé hét lên, hai tay ôm chặt lấy cổ…”. Chi tiết ấy được Nguyễn Quang Sáng miêu tả rất chân thật và lấy đi không ít nước mắt của độc giả. Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
“Người ba nào mà chẳng thương con-chỉ là cách thể hiện tình cảm của mỗi người mỗi khác”. Câu nói ấy thật đúng! Anh Sáu khi quay lại chiến trường đã luôn thương nhớ về đứa con gái bé bỏng của mình. Lúc chuẩn bị ra đi anh Sáu “Hai tay buông lỏng xuống như bị gãy…” Anh Sáu lúc ấy rất đau khổ, đau hơn cả trăm mũi tên cùng bắn vào tim anh. Cảm giác ấy có lẽ ai đã làm ba sẽ hiểu, nhưng với lối viết và ngôn ngữ gợi tả tinh tế chi tiết đã làm mọi người đều cảm nhận sự đau khổ tột cùng của anh Sáu. Anh thương con! Thương hơn cả sinh mệnh của bản thân anh. Nhưng vẫn còn chuyện làm anh ray rứt mãi là đã đánh bé Thu trong lúc con bé ương ngạnh không nhận tình cảm của anh.
Về chiến khu anh đã làm ngay một chiếc lược ngà bằng tất cả tình yêu và tâm huyết. Anh vui mừng khi tìm được “khúc ngà” và “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”! “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Những chi tiết ấy được Nguyễn Quang Sáng miêu tả tỉ mỉ và rất chân thực. Điều đó làm người đọc cảm nhận được nhiều hơn tình cảm và tâm huyết của anh Sáu vào chiếc lược ngà. Anh hi vọng với chiếc lược này sẽ chảy lên mái tóc óng ánh của con gái, chảy đi bao muộn phiền uẩn khúc của hai cha con. Để mai này con gái anh lớn lên nó sẽ luôn nhớ về người ba từng yêu con bé rất sâu sắc!
Với việc xây dựng tính cách và tâm lí nhân vật rất tinh tế, sâu sắc, tình huống truyện tự nhiên hợp lí. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã tái hiện chân thật và sâu sắc về tình cảm cha con sâu nặng. Qua đó, tố cáo tội ác chiến tranh đã gây ra biết bao nghịch cảnh éo le, ngang trái mà điển hình là câu chuyện của cha con bé Thu và anh Sáu. Nhưng sau tất cả “ba vẫn mãi là ba của con” đúng như câu nói ấy. Bé Thu, anh Sáu đã trao yêu thương cho nhau qua “Chiếc lược ngà” mà anh Sáu dành tặng cho con gái-đó là tài sản quý báu nhất của bé Thu! Từ đó, tác giả đã cho ta thấy một triết lí sống rất nhân văn:
“Cha là tất cả cha ơi
Ngàn năm con vẫn trọn đời yêu thương”
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 3
Nguyễn Quang Sáng viết tác phẩm “Chiếc lược ngà” khi mà miền Bắc nước ta đã giải phóng đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, tăng gia sản xuất và chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh Nam – Bắc chia hai nhiều người con miền Bắc đã phải đi bộ dọc rừng Trường Sơn để vào Miền Nam đánh Mỹ cứu nước thống nhất nước nhà, nhiều gia đình vì thế mà ly biệt.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” tố cáo tội ác của chiến tranh, tố cáo chiến tranh phi nghĩa mà giặc Mỹ đã gieo xuống dân tộc ta, làm cho đất nước ta phải chia hai. Nhiều người con phải xa cha, người vợ xa chồng.
Truyện ngắn kể về cuộc gặp gỡ ngắn ngủi của anh Sáu một chiến sĩ cách mạng với ba ngày nghỉ phép về thăm nhà, được gặp cô con gái đầu lòng chưa từng nhìn thấy mặt. Con bé Thu không nhận ra ba mình, bởi nó chỉ nhìn thấy hình ảnh anh Sáu qua bức ảnh chụp ngày ba mẹ cưới nhau. Còn anh Sáu hiện tại thì già hơn, sương gió hơn, đặc biệt là vết sẹo do chiến tranh để lại làm khuôn mặt anh có nhiều biến dạng.
Thu là một có bé cá tính, có chút ngang ngạnh, gai góc. Nhưng cũng là người sống vô cùng nội tâm, sâu sắc. Những ngày anh Sáu về phép nó nhất quyết không chịu nhận anh làm ba. Nói năng với anh chỉ trống không. Nhưng khi anh sắp phải lên đường đi công tác nhận nhiệm vụ mới, thì nó òa khóc. Ôm chầm lấy ba mà nói “Không cho ba đi. Ba phải ở nhà với con”. Tình cảm cha con thật thiêng liêng, xúc động khiến nhiều người đọc phải nghẹn ngào bật khóc.
Tác giả Nguyễn Quang Sáng đã vô cùng tinh tế khi khắc họa cô bé Thu láu lỉnh, gai góc nhưng có cá tính riêng, nội tâm sâu sắc. Anh Sáu là người cha thương con, nhẫn nhịn thể hiện tình cảm cha con bền chặt, ruột thịt gắn bó không gì có thể chia cắt được.
Những ngày ở khu căn cứ, anh Sáu đã dành thời gian tình cảm của mình làm tặng cho con gái một chiếc lược ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, không may anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh chỉ biết trao cây lược ngà cho người bạn thân, đồng đội chiến đấu của mình để mang về tặng cô con gái giúp mình.
Món quà đầu tiên và cũng là cuối cùng chứa đựng biết bao tình cảm sâu sắc, thiêng liêng của người cha dành cho con. Tình huống truyện vô cùng độc đáo, thể hiện nỗi đau của chiến tranh khi đã làm tan nát nhiều gia đình hạnh phúc, yên ấm.
Tình huống truyện được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện vô cùng khéo léo, tinh tế: Cuộc gặp gỡ định mệnh của hai cha sau bao năm xa cách. Bé Thu là một cô bé mong muốn có cha, luôn khao khát gặp ba. Nhưng khi gặp ba thì em lại không nhận ra. Sự lạnh nhạt của em dành cho ba ông Sáu trong những ngày nghỉ phép thể hiện sự trẻ con của một cô bé tám tuổi.
Anh Sáu khi được nghỉ phép về nhà nhìn thấy con gái anh vui mừng ôm chầm lấy con bằng tình cảm nồng nàn của người cha phải xa đứa con gái bé bỏng lâu ngày. Nhưng đáp lại tình cảm của anh con bé Thu chỉ hững hờ tránh né, tỏ vẻ xa lánh và coi anh như người lạ.
Khi má bảo gọi bà vào ăn cơm con bé chỉ ra ngoài và đáp trống không “Vô ăn cơm”. Kể cả khi má không có nhà nó muốn nhờ anh Sáu bỏ bớt nước nồi cơm cho mình nhưng không biết xưng hô như thế nào. Nó cũng nói trống không nhất quyết không gọi anh Sáu bằng ba. Không nhờ anh Sáu. Anh Sáu im lặng chú ý xem con định làm như thế nào thì con bé nhanh nhẹn lấy muôi múc từng ít nước bỏ đi cho cơm khỏi nhão.
Trong bữa ăn cơm anh Sáu thương con gắp thức ăn cho nó nhưng nó hất tay anh ra làm cho miếng thức ăn rơi xuống đất, hành động của nó khiến anh giận dữ và đánh cho con bé một cái vào mông. Con bé bỏ cơm rồi chèo thuyền sang nhà bà ngoại.
Diễn biến tâm lý của cô bé Thu được tác giả Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sinh động chi tiết, khiến người đọc cảm nhận được cô bé là người cá tính, gai góc giống như một con nhím nhỏ luôn xù lông của mình ra để bảo vệ lớp thịt mềm yếu bên trong. Nội tâm của con bé Thu vô cùng sâu sắc, tình cảm.
Trong thái độ cứng đầu của bé Thu thể hiện tình cảm thiêng liêng mãnh liệt của cô bé dành cho cha mình, bởi cô bé không biết ông Sáu mặt có vết sẹo kia chính là ông Sáu trong bức hình chụp cùng mẹ ngày cưới. Nên cô bé mới có thái độ chống đối như vậy mà thôi.
Ba ngày phép ngắn ngủi rồi cũng qua, ngày ông Sáu chuẩn bị lên đường đang bịn rịn chia tay người nhà thì bất chợt cô bé Thu cất tiếng gọi rồi nó lao vào ôm ba “không cho ba đi” vừa nói nó vừa khóc, nghe thật cảm động xót xa, thể hiện tình cảm của một người con không muốn ba mình đi xa. Tiếng ba mà cô bé Thu gọi thể hiện sự dồn nén bao lâu trong tâm hồn cô bé. Nó là tiếng gọi tha thiết từ đáy lòng của người con dành cho ba của mình.
Tác phẩm Chiếc lược ngà hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Tác giả đã khai thác tâm lý nhân vật vô cùng tinh tế, thể hiện sự chuyển đổi tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc, khắc họa thành công nhân vật bé Thu vừa trẻ con ngây thơ, vừa người lớn gan góc cứng đầu. Nhưng dù ở hướng nào thì cô bé Thu cũng là người con vô cùng đáng yêu.
Sự hy sinh của anh Sáu và kỷ vật mà anh để lại cho con gái mình khiến cho nhiều người đọc cảm thấy xót xa, nghẹn ngào, tội ác của chiến tranh là vô cùng to lớn. Chính chiến tranh đã làm cho những người con không được gần cha, nhiều người vợ không được gần chồng. Nhiều gia đình ly tán.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã miêu tả thành công, xúc động sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật bé Thu và tình cảm sâu sắc của người cha anh Sáu dành cho cô con gái bé bỏng của mình.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 4
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được sáng tác năm 1966. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện éo le: Ông Sáu sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, ông được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. Trước nỗi xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu – đứa con gái ông yêu quý, mong nhớ suốt tám năm trời đã không nhận ra ông là ba. Ngày ông phải trả phép về đơn vị cũng chính là ngày con bé nhận ông là ba. Ở đơn vị, ông Sáu dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ, nỗi ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp trao cây lược cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mỹ. Từ tình huống truyện, tác phẩm đề cao, ngợi ca tình ca tình cha con sâu nặng, đồng thời tố cáo tội ác chiến tranh.
Truyện xoay quanh hai nhân vật chính là bé Thu và ông Sáu, thông qua tình huống truyện éo le, mỗi nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình.
Trước hết về bé Thu, em là con của ông Sáu nhưng từ nhỏ đã phải xa cha do ba vào chiến trường. Sau tám năm xa cách, Thu được gặp lại ba, những tưởng đó sẽ là cuộc đoàn viên đầy hạnh phúc, nhưng trái ngược với ông Sáu mừng rỡ lao về phía em thì Thu dửng dưng, thậm chí hốt hoảng gọi Má. Má . Những ngày sau đó, dù ông Sáu hết lòng chăm sóc nhưng bé Thu vẫn lạnh nhạt, thậm chí xa lánh, ngang ngạnh cự tuyệt ông Sáu. Dù ông đã làm hết cách nhưng bé Thu vẫn không gọi ông là ba. Những lúc gặp khó khăn, nguy cấp Thu chỉ gọi trống không, không nhận được sự trợ giúp của ông Sáu, nó cũng loay hoay tự làm một mình. Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, Thu gạt ra, bị ông Sáu đánh, cô bé lập tức bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thật chính xác thái độ, hành động khác thường của bé Thu. Bởi trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt em không hiểu những éo le mà chiến tranh gây ra, nên chỉ vì một vết thẹo trên mặt ông Sáu em kiên quyết không nhận ba. Điều đó cũng cho thấy Thu là đứa trẻ bướng bỉnh, cá tính nhưng đằng sau sự từ chối đến cứng đầu đó là tình yêu thương thắm thiết Thu dành cho ba mình.
Bé Thu cứng đầu chối từ sự ân cần của cha bao nhiêu thì giây phút nhận ra cha lại mãnh liệt, xúc động bấy nhiêu. Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu đã trở về nhà trong sáng ngày ông Sáu lên đường về đơn vị. Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người, tiếng gọi ba của Thu là tiếng gọi kìm nén suốt tám năm, tám năm yêu thương, đợi chờ ngày ba về. Không chỉ gọi, con bé con lao tới, nhảy lên người ba và hôn khắp cùng, hôn mặt, hôn má, và hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba, vết thẹo đã khiến con bé bướng bỉnh không nhận ba. Thu ôm chặt anh, quàng cả chân vào người anh Sáu, bởi nó sợ buông lơi anh Sáu sẽ đi mất, cái ôm cái hôn ấy còn như muốn bày tỏ tất cả tình cảm Thu dành cho ba. Trong khoảnh khắc đó, ai cũng như lặng người đi vì xúc động. Với lối miêu tả chân thực, giàu cảm xúc tác giả đã cho thấy tình yêu thương sâu nặng Thu dành cho ba, dù có những lúc gan góc, bướng bỉnh nhưng em rất giàu tình cảm và dễ xúc động.
Về phía ông Sáu, trong ba ngày về nghỉ phép, ông dành trọn yêu thương cho đứa con gái bé bỏng. Thuyền chưa cập bến ông đã vội vàng nhảy lên bờ, chạy về phía con, đôi bàn tay sẵn sàng dang ra chờ đợi đứa con sà vào lòng. Nhưng trái ngược với điều ông tưởng tượng, bé Thu cự tuyệt, lảng tránh, điều đó làm ông hết sức đau lòng, hai tay ông buông thõng như bị gãy. Khuôn mặt ấy thật đáng thương biết bao, ông không biết làm thế nào để có thể xóa nhòa khoảng cách thời gian và không gian ấy. Để bù đắp cho con, ba ngày nghỉ phép ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con, yêu thương, ân cần bên con mong Thu sẽ thay đổi. Trước sự cứng đầu của Thu, ông chỉ khẽ lắc đầu, chứ không hề trách mắng con. Chỉ đến khi ông gắp thức ăn cho nó bị Thu bỏ ra, bao nhiêu buồn đau dồn nén bấy lâu ông đã đánh Thu, điều ấy đã làm ông ân hận mãi về sau. Khoảnh khắc hạnh phúc nhất mà cũng đau lòng nhất của ông chính là được nghe tiếng gọi ba thiêng liêng, nhưng đó cũng là lúc ông phải chia tay con trở về đơn vị. Một người lính từng trải, gan góc trên chiến trường lại khóc bởi tiếng gọi đầy thân thương. Những giọt nước mắt không thể kiềm chế, cứ thế trào ra. Trong những ngày ở chiến trường ông ân hận vì đánh con, không quên lời hứa, ông dồn tâm huyết vào làm chiếc lược ngà. Ông chi chút, tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược cho nhẵn bóng. Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu. Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình qua ánh mắt đầy yêu thương. Cây lược ấy đã được người đồng đội trao lại cho bé Thu. Tình cha con đã không chết, nâng đỡ cô bé trưởng thành, vượt lên mọi đau thương mất mát. Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con trong hoàn cảnh chiến tranh.
Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, bất ngờ qua đó thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, giàu cảm xúc. Hình ảnh giản dị, mà giàu giá trị, ý nghĩa biểu tượng, kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà. Ngôn ngữ đậm giản dị, đậm chất Nam Bộ.
Câu chuyện đã tái hiện thành công tình cha con sâu nặng của bé Thu và ông Sáu. Từ đó, tác giả cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh; những bi kịch cùng tình cảm gia đình đẹp đẽ trong thời chiến. Đồng thời tác phẩm cũng ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 5
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch… Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được nhà văn sáng tác năm 1966 tại chính chiến trường miền Nam trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua thiên truyện, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ bản: Tình huống thứ nhất: Hòa bình lập lại, anh Sáu được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách. Nhưng thật trớ trêu thay, bé Thú đã không chịu nhận anh Sáu là cha vì trên khuôn mặt anh có vết thẹo (khác với tấm hình chụp với mẹ nó). Và đến lúc Thu hiểu ra và biểu lộ tình cảm với cha thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Tình huống thứ hai: Anh Sáu trở lại chiến khu và dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng cách làm một chiếc lược ngà để tặng cho con. Nhưng anh chưa kịp trao món quà ấy cho con thì anh đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh đã nhờ đồng đội trao tận tay chiếc lược đó cho con gái.
Với cách tạo tình huống truyện như thế, nhà văn đã đẩy câu chuyện lên sự kịch tính, chất chứa yếu tố bất ngờ và xúc động. Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản của truyện, bộc lộ tình cảm mãnh liệt của Thu với cha. Tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha dành cho đứa con gái bé bỏng. Từ đó bật sáng tư tưởng chủ đề của tác phẩm: tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt nhưng éo le, đau khổ trong chiến tranh.
Cũng qua tình huống truyện ấy, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật sắc sảo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua nhân vật ông Sáu và nhân vật bé Thu. Điều này được thể hiện trong hoàn cảnh trước và sau khi bé Thu nhận ra cha. Có thể nói, niềm khao khát cháy bỏng của ông Sáu muốn được nghe một tiếng “Ba” lớn lao bao nhiêu thì bé Thu – con ông Sáu lại càng lảng tránh, xa cách đến bấy nhiêu. Từ đó, những nét tâm lí giằng xé, đấu tranh nội tâm của hai cha con cứ diễn ra, biểu lộ tình cha con sâu nặng, cao cả và rất đỗi thiêng liêng, cao quí.
Ông Sáu được phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách, lòng nôn nao, mong ngóng được gặp con cháy rực trong lòng ông. Không đợi thuyền cập bến, ông Sáu đã “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra” rồi “bước vội vàng với những bước dài”, miệng “kêu to tên con, vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. “Anh không kìm nổi nỗi xúc động” khi gặp lại con, vết sẹo dài bên má lại đỏ ửng, giần giật trông dễ sợ. Giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con! Ba đây con!”.
Thế nhưng, trái lại với tình cảm đó của ông, bé Thu lại cảm thấy sợ hãi, giật mình tròn xoe mắt, bỏ chạy rồi thất thanh gọi “Má, má”. “Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Tâm trạng ông Sáu đau khổ tột cùng, ông mong ngóng được con chạy lại ôm mình nhưng đứa con bé bỏng, ngây thơ lại xa lánh, hoảng sợ khiến ông hụt hẫng, đau đớn và thất vọng.
Trong ba ngày được nghỉ phép ở nhà, ông Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con bé, nhưng dường như mọi sự cố gắng ấy đều trở nên thất bại. Bé Thu càng trở nên ngờ vực, sợ hãi. Khi mẹ bảo mời cha vào ăn cơm, bé vẫn nhất quyết không gọi ba mà lại nói trổng “vô ăn cơm”, “cơm chín rồi”. Ngay cả khi bé bị ép vào đường cùng là chắt nước nồi cơm, dù loay hoay không biết phải xử lý thế nào, nó cũng chẳng chịu gọi. Bé ương bướng tới mức chú Ba cũng phải thở dài “con bé đáo để thật” hay trong bữa ăn khi gắp miếng trứng cá vào chén nó, nó lấy đũa soi vào trong chén rồi bất thần hắt cả miếng trứng cá ra khỏi chén, bắn tung tóe ra ngoài mâm, ông Sáu tức giận không kiềm chế được cảm xúc đã đánh con và bất lực mà thét lên “sao mày cứng đầu quá vậy!”.
Dường như ông khao khát có được tình cảm của con bao nhiêu thì con bé lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha bấy nhiêu. Ông càng muốn xích gần nó, nó lại càng lùi xa; ông càng chiều thương nó, nó lại càng lẩn tránh; ông càng mong được nghe tiếng ba thì nó lại càng không gọi. Ông kiên nhẫn, đợi chờ tình cảm của con “suốt mấy ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”, “anh quay lại nhìn con vừa khẽ lắc đầu, vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi”.
Tuy nhiên, thái độ bướng bỉnh, ương ngạnh đó của bé thu hoàn toàn không đáng trách. Bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá. Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giải thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi.
Vì thế, sau khi ngủ một đêm bên nhà bà ngoại, được ngoại giải thích về nguyên nhân vết sẹo trên má của ba, bé Thu cảm thấy khó chịu, cả đêm lăn lóc không ngủ, xen lẫn niềm ân hận, khi đã đối xử với ba không tốt. Buổi sáng chia tay ấy, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mông mông của con bé bỗng xôn xao”, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”.
Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động nghẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Nó hôn khắp người ông Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “không!”. Vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa…
Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại… Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng thấy được Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí và yêu thích trẻ thơ nên mới có những trang văn thật sinh động và cảm động về tình cha con đến như vậy!.
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến. Về tới chiến khu, ông Sáu cảm thấy day dứt, ân hận vì đã nóng giận đánh con. Ông dồn tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng việc làm một cây lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay. Kiếm được khúc ngà voi, ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”, rồi dành hết tâm trí, tình cảm vào làm một cây lược. “Anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Trên sống lưng của chiếc lược có khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” mà ông gò lưng, khắc từng nét một.
Chiếc lược ngà phần nào gỡ rối được tâm trạng của người cha. Chiếc lược trở thành vật quý giá mà ông dồn tất cả tình cảm yêu thương con của người cha sau tám năm ròng xa cách. Vì thế, mỗi khi nhớ con, ông lại mang chiếc lược ra ngắm và chải lên tóc mình cho thêm bóng, thêm mượt. Nhưng rồi ông Sáu đã hi sinh trong một trận càn của giặc, khi còn chưa kịp trao cây lược cho con gái.
Trước lúc tắt thở, không còn sức trăng trối lại điều gì, “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, ông đã lấy cây lược mà ông thường mang theo bên mình rồi trao cho bác Ba và nhìn người bạn một hồi lâu, cái nhìn như gửi gắm sự ủy thác thiêng liêng. Chỉ khi nhận được lời hứa của bác Ba, “mang về tận tay trao cho cháu” thì người cha mới nhắm mắt. Điều đó cho ta thấy tình cha con mãnh liệt và tha thiết của ông Sáu. Qua câu chuyện, người đọc không chỉ cảm nhận được tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu mà còn thấm thía về những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh đã gây ra. Đồng thời thấy được những hi sinh thầm lặng mà cao cả của những người lính trong chiến tranh…
Như vậy, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy “Chiếc lược ngà” có một cốt truyện khá chặt chẽ, xây dựng được những tình huống bất ngờ hợp lí. Ngoài việc xây dựng thành công hai nhân vật chính bé Thu và ông Sáu, tác giả còn thành công trong việc lựa chọn nhân vật người kể chuyện: xưng “tôi”, ngôi thứ nhất, là ông Ba – người bạn thân thiết của ông Sáu trong chiến tranh. Ông không chỉ dừng lại ở việc chứng kiến câu chuyện, rồi kể lại theo điểm nhìn của mình mà cao hơn, ông Ba còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật như một người trong cuộc.
Chọn nhân vật kể chuyện như vậy, khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy, tăng theo sự chân thực cho những tình tiết được kể. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe… Tất cả góp phần đắc lực tạo nên sự thành công của thiên truyện, cũng như ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm được bộc lộ rõ hơn.
Tóm lại, qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chúng ta thực sự thấm thía và cảm động trước tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của các gia đình, khiến vợ chồng xa cách, cha con xa nhau. Từ câu chuyện, chúng ta càng cảm thấy trân trọng hơn nền hòa bình dân tộc và càng quí trọng hơn tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Mẫu 6
Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng, tình cảm của con cái hình như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. Còn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sĩ cách mạng xa nhà đi thoát ly cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu mới có dịp về thăm nhà. Nôn nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con, ông Sáu lại thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho chuỗi những sự việc, thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu.
Xa cách bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu “chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người”, bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sự thay đổi lớn khiến Thu không thể nhận ra cha mình.
Từ đằng xa thấy “một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi” ông Sáu đoán biết là con, không chờ xuồng cập bến “anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”. Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình, trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng thương nhớ trong bao năm xa cách. “Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con… giọng lắp bắp run run: Ba đây con, ba đây con!”.
Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình “tròn mắt nhìn… ngơ ngác, lạ lùng”. Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu “Má! Má”. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với “vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rất dễ sợ” đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình.
Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế. Khi phải gọi ông Sáu ăn cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng “vô ăn cơm” hoặc “cơm chín rồi”. Đặc biệt trong một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt.
Đó là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mở đường cho “Cháu phải gọi Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy”, Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn nếu để cơm bị nhão. Bướng bỉnh và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện khi Thu “hất tung cái trứng cá to vàng” mà ông Sáu gắp cho nó.
Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích “kêu rổn rảng” để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện của sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của cuộc sống, hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ.
Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng “ba”. Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu hãng dành cho người cha thân yêu – người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bảy, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này.
Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi Thu khiến ta khâm phục. Nhưng khi được ngoại giải thích rõ về nguyên nhân vết sẹo, thì sự nghi ngờ của em được giải tỏa”. “Nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn”. Sự miêu tả nội tâm gián tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em- yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận.
Hôm sau trở về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu “Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa”. Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái “xôn xao” của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào “Thôi ba đi nghe con” thì nỗi niềm trong nó bật tung thành tiếng “Ba…….a…a”. Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu lâu nay, tiếng ba như vỡ tung từ nỗi lòng nó.
Đọc truyện ta như thấy cách Thu bộc lộ tình cảm với cha thật xúc động, là người ngoài cuộc ta cũng không khỏi nhói lòng. Yêu thương cha vô cùng nên em quyết định lạnh lùng với ông Sáu. Thương cha nên em không thể dành tiếng “ba” để gọi người xa lạ. Thế nhưng khi biết ngọn nguồn vết sẹo, biết đích xác là ba rồi, tình cảm nơi em vỗ òa, tức tưởi. Cũng như bao đứa trẻ khác có cha trên đời, em mong được cha chăm chút, yêu thương. Nhưng bất hạnh thay, em xa cha từ bé, em đã trông ngóng biết bao ngày cha về nhưng chỉ tại vết sẹo, mà Thu đã để mất ba ngày quý giá, làm tổn thương tình cảm cha mình. Chính vì thế nên ta không lạ gì Thu “ôm chặt lấy cổ ba nó… dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó. Nó hôn ba cùng khắp… hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”.
Nếu như trước đây, Thu ghét ông Sáu bao nhiêu thì giờ đây tình cảm của em dành cho ông mãnh liệt bấy nhiêu. Ta nhận ra hai thái độ ấy tuy trái ngược này thực ra lại nhất quán trong sự phát triển tính cách – tính cách của cô bé dành trọn tất cả tình yêu cho người cha vô cùng kính mến. Có người cho rằng tác giả xây dựng hình tượng bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ thái độ ngang ngạnh đó cũng vì xuất phát từ tình yêu thương cha mãnh liệt. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lí và hành động của Thu được miêu tả sinh động, sát với tâm lí lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha.
Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông Sáu nhiều ngày là việc là ông lỡ tay đánh con. Nhớ lời dặn tha thiết của con, ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh tặng con. Tìm được một khúc ngà voi, “anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe… mặt hớn hở như đứa trẻ được quà”. “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Tại sao chiếc lược bằng ngà mà không bằng một vật liệu gì khác? Phải chăng là để thể hiện tình yêu thương của ông đối với con? Chiếc lược ngà ấy rất quý, phải như thế mới xứng đáng với đứa con gái bé bỏng của ông, với tình yêu ông dành cho nó.
Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét “Yêu nhớ tặng Thu con gái của ba”. Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ “Yêu nhớ”, bao nồng nàn, thấm đẫm nhớ nhung, yêu thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ “Thu con của ba”. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh.” Có cây lược, ông càng mong được gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui mừng trao cho con cây lược.
Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. Trút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất Chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử không bao giờ chết được.
Bản thân là người Nam Bộ, là người lính từng chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết Nguyễn Quang Sáng hiểu được tình cảm gia đình đối với người lính sâu đậm biết chừng nào. Kết cấu truyện với nhiều tình huống bất ngờ đã làm nổi bật vẻ đẹp tính cách của các nhân vật, gây xúc động sâu sắc cho người đọc. Chuyện được ghi theo lời kể của một chiến sỹ cách mạng – người bạn thân thiết của ông Sáu, khiến chuyện càng trở nên đáng tin cậy, trung thực.
Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là sức mạnh, niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu “Nếu trên đời có những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự, thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình”.