Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang (Dàn ý + 6 mẫu), Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu được
Sau đây là sẽ là tài liệu bài văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang của Huy Cận được Tài Liệu Học Thi đăng tải tại đây.
Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 6 bài văn mẫu phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang, được chúng tôi tuyển chọn từ các bài văn hay nhất của học sinh trên toàn quốc. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm một số dạng bài văn mẫu khác tại chuyên mục Văn mẫu lớp 11. Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang
- 2 Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 1
- 3 Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 2
- 4 Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 3
- 5 Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 4
- 6 Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 5
- 7 Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 6
Dàn ý phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm Tràng giang
– Khổ thơ đầu mở ra nỗi sầu nhân thế của tác giả với không gian thiên nhiên bất tận.
II. Thân bài:
* Hoàn cảnh sáng tác bài thơ
– Khi tác giả đứng trước sông Hồng vào một chiều thu năm 1939, khi tròn hai mươi tuổi, ở bờ Nam bến Chèm, cùng nỗi sầu vô tận trong tâm hồn.
* Giá trị nội dung
– Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ của quê hương, ẩn sau nỗi buồn là tình yêu quê hương tha thiết.
– Hiện lên đối lập giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ mênh mông là cái tôi nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng.
– Nỗi buồn, cô đơn, sầu muộn vô cùng của con người trước thiên nhiên bao la.
=> Tác giả thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, kín đáo đặt trong đó tình yêu đất nước (khi con người sống giữa quê hương mà cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cô đơn trên chính quê hương ấy => Cảm xúc của người dân mất nước).
* Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ được kết hợp giữa lối thơ cổ điển và hiện đại, thể thơ thất ngôn, chất thơ Đường nhưng được kết hợp với cái tôi của thơ mới.
– Hình ảnh được gợi lên trong thơ vô cùng trong sáng, giàu xúc cảm.
– Chất thơ Đường thấm đượm từ nhan đề, thể thơ, thi tứ (sự lẻ loi của con người trước tạo vật, vũ trụ to lớn), các bút pháp nghệ thuật như đối ngẫu, song đối.
* Phân tích khổ 1:
– Tác giả đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước mênh mông của sông Hồng, tạo nên những hình ảnh vừa chân thực lại vô cùng giàu sức gợi.
+ Một dòng sông lững lờ trôi với những cơn sóng gợn, với chiếc thuyền nhỏ và một cành củi khô giữa dòng.
+ Hình ảnh “sóng gợn”: gợi lên hình ảnh sống nước mênh mang, những con sóng gợn lăn tăn vỗ lên mặt sông => Nỗi buồn chập chùng trong lòng người thi sĩ.
+ Hai từ “tràng giang”: là từ Hán Việt, với hai âm “ang” tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, vừa gợi lên một dòng sông dài rộng và cổ kính.
+ Từ láy “điệp điệp”: Những con sóng cứ nối nhau liên tiếp =>Nỗi buồn miên man, không nguôi trong lòng tác giả, một nỗi buồn cụ thể.
– Một con thuyền xuất hiện giữa dòng nước mênh mông
+ Con thuyền không đảo chèo, ngược sóng mà buông thõng mái chèo, “xuôi mái”, thụ động, mặc dòng nước đưa đẩy.
=> Con thuyền xuất hiện thật nhỏ bé giữa dòng sông, lênh đênh và vô định.
=> Nghệ thuật đối “điệp điệp –song song”: gợi lên nỗi buồn nhân thế đang lan trong tâm hồn Huy Cận, chính ông cũng như con thuyền kia, bơ vơ giữa sóng nước cuộc đời, buông xuôi, mặc cho dòng đời xô đẩy.
– Hình ảnh “Thuyền về … ngả”:
+ Hình ảnh thường xuất hiện trong thơ văn
+ Thuyền và nước tưởng gặp nhau, hứa hẹn cùng nhau nhưng ở đây, sự gặp gỡ chỉ là phút chốc, để rồi lại chia lìa đôi ngả.
+ Hình ảnh “thuyền về nước lại”: gợi lên cảnh chia li, xa cách.
+ “Sầu trăm ngả”: Mối sầu muôn dặm, to lớn, rộng khắp.
– Hình ảnh “Củi …mấy dòng”:
+ Đầu tiên là nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước.
+ Nhấn mạnh sự nhỏ bé, đơn độc của một cành củi nhỏ giữa sóng nước bao la.
+ “Cành củi khô”: Gợi lên sự khô héo, không còn sức sống lại ít ỏi
+ “Mấy dòng”: Vừa gợi lên cảnh sông nước mênh mông, vừa gợi lên hình ảnh của dòng đời, vô số bước đường đi nhưng không biết chọn hướng nào mà bước tới.
=>Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông => Con người bơ vơ giữa cuộc đời, mang trong mình nỗi sầu muộn không nguôi.
– Tác giả đã sử dụng hiệu quả những phép đối trong khổ thơ (buồn điệp điệp – nước song song, sầu trăm ngả- lạc mấy dòng) cùng các từ láy => tạo nên sự tương phản lớn giữa cá thể lẻ loi, cô đơn với vũ trụ mênh mông.
* Kết luận chung:
– Khổ thơ gợi lên nỗi buồn sâu lắng của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, gợi lên sự chia ly, xa cách giữa những con người, không có sự giao hoa, đặc biệt tác giả muốn nhận mạnh nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, vô định trước cuộc đời.
– Nghệ thuật: Huy Cận đặc biệt sử dụng thành công các hình ảnh gợi tả, cách gieo vần nhịp nhàng.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại ý nghĩa của khổ thơ.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 1
Nhà thơ huy cận tên thật là Cù Huy Cận. Nhắc đến thơ của ông, người ta có thể nhớ ngay đến chất thơ chất chứa những nỗi sầu nhân thế và lòng ngợi ca cảnh đẹp của thiên nhiên. Trước Cách mạng tháng Tám, tên tuổi của Ông gắn liền với rất nhiều tác phẩm tiêu biểu như: “ Lửa thiêng”, “ vũ trụ ca”,… Bài thơ “ tràng giang” trong tập “ lửa thiêng” là một trong những áng thơ tiêu biểu bậc nhất của Huy Cận. Bài thơ mang dòng chảy cảm xúc có chút u buồn mênh mang cho kiếp người bé nhỏ, trôi nổi giữa biết bao ngã rẽ cuộc đời. Đặc biệt đoạn thơ thứ nhất đã cuốn hút ngay người đọc theo tâm hồn thơ của tác giả rất độc đáo.
Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của thiên nhiên, kéo theo cả tâm trạng của lòng người. Con sông Hồng dài rộng bát ngát, uốn quanh bao trọn cả non sông Việt nam. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả lại sử dụng “tràng” thay vì từ “ trường”. Âm “ ang” mang mới cho người đọc mường tượng được bề ngoài rộng lớn của con sống kia. Đấy không chỉ là con sông của tạo hóa làm nên, mà tác giả còn muốn nhắc tới dòng sông của đời người, dòng sông chất chứa bao tâm tưởng suy nghĩ.
Có biết bao thi sĩ nhà thơ đã mượn thiên nhiên để giải bày lòng mình. Nỗi buồn của con người thì vô vàn biết bao: buồn tình yêu, buồn tình bạn, buồn chốn sự nghiệp, còn nỗi buồn của Huy cận cũng như bao người. Buồn vì ta chưa thể tìm ra con đường đi cho cuộc đời, cho kiếp người cô đơn nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Ngay từ đầu bài thơ, độc giả đã bắt gặp những con sóng đầy tâm tư:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Trong thơ Xuân Quỳnh, bà cũng dùng hình ảnh của sóng để diễn tả nỗi buồn của Thuyền và biển. Dường như “ sóng” là gia vị hay chất xúc tác dẫn đến những cung bậc cảm xúc của đời người. Hai từ láy “ điệp điệp”, “ song song” ở cuối câu thơ mang hơi hướng cổ kính của Đường thi. Nó khiến cho tâm trạng người đọc cũng trải dài, mênh mang theo dòng chảy của con sông dài vạn dặm ấy. Những con sóng gối đầu lên nhau, loang xa, dập dềnh theo dòng nước. Mặc cho dòng nước chảy về nơi nào, sóng cứ vỗ về mênh mang. Trên dòng sông ấy, độc cô “ con thuyền” xuôi theo dòng nước, tựa như sự buông thả, bất cần chẳng cần quan tâm tới điểm đến. Cái tài viết thơ của Huy Cận thật đáng ngưỡng mộ, bằng từ ngữ thơ ông lại lột tả nên sự chuyển động của “ sóng”, của “ thuyền”, nhưng lại khiến cho người đọc không tránh khỏi có chút cảm giác lặng lẽ, cô độc trước thiên nhiên.
Tiếp nối dòng chảy cảm xúc ấy, Huy Cận đã viết:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Mới đây thôi ta còn nhìn thấy thuyền xuôi theo dòng nước. Theo lẽ đời, thuyền và nước nào có thể tách rời, thuyền đi đâu về đâu là nhờ có nước xuôi dòng, vỗ về. Thế mà Huy cận lại cảm nhận được thuyền và nước đang cách xa, không chung đường. Từ “ lại” khiến cho câu thơ nghe có chút tiếc nuối, nhớ mong xót xa. Chính vì lẽ đó là khiến cho lòng người không tránh khỏi cảm giác “ sầu” bi. Nhà thơ sử dụng cả từ chỉ lượng “ trăm” để đong đếm cho nỗi tiếc thương vô hạn ấy. Cho đời biết rằng ta chẳng bao giờ mong cho giờ phút thuyền và nước phải chia lìa.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ, khéo léo nhất qua câu thơ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Một con thuyền, một cành củi khô đã càng làm nổi bật lên nỗi cô đơn lạc lõng. Tựa như chỉ có mình nhà thơ đang đối diện với vũ trụ thiên nhiên kia. Nhưng cành củi ấy lại khô héo, thiếu sự sống biết nhường nào. Nó chẳng giống như cảnh vật tràn đầy sức sống của “ Một bông hoa tím biếc” của thanh hải trong bài “ Mùa xuân nho nhỏ”-. “ cành khô” ấy mang nỗi sầu vô định của thi nhân, chỉ có thể trôi nổi, bập bềnh theo dòng nước mênh mang mà chẳng có một định hướng. Cành củi ấy trôi đi phương nào, biết trước là bến bờ bão tố hay chốn bình yên cũng chẳng ai có thể rõ. Hình ảnh giản dị mà sao khiến cho lòng người đọc cảm thấy trống rỗng, cô liêu.
Tài năng “tả cảnh ngụ tình “của Huy cận thật tài hoa, khéo léo. Chỉ thông qua những hình ảnh giản đơn, “con sóng”, “ chiếc thuyền”, “ cành khô” mà ta dễ dàng bắt gặp trong biết bao bài thơ khác, nhưng trong thơ của Huy cận nó có thể truyền tải mạnh mẽ những cảm xúc rất riêng không thể hòa lẫn vào vào các bài thơ xưa. Vẻ đẹp hiện đại, đơn giản mang nặng những tâm tư tình cảm, chân tình của tác giả sẽ mãi đi sâu vào lòng người.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 2
“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước nặng buồn sông núi”
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như những nhận xét của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều sáng tác thể hiện nỗi buồn. Tràng Giang là một trong những tác phẩm hay điển hình cho hồn thơ Huy Cận một thời. Khổ thơ đầu bài thơ đã miêu tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mang, heo hút của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thi sĩ trước không gian vô tận.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền suôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Bài thơ Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu, ông đứng ở bến nhìn ra cảnh sông Hồng rộng lớn. Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã mang hình ảnh sóng nước sông Hồng buồn man mác vào tác phẩm:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Đọc câu thơ người đọc hình dung ra một con sông mênh mang sóng nước. Cụm từ “tràng giang” cho thấy một dòng sông dài vô tận. Nhà thơ không dùng “trường giang” mà dùng từ “tràng giang” khiến cho dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có chiều sâu. Cụm từ “điệp điệp” cho thấy những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ. Qua cái nhìn đa sầu đa cảm của thi nhân, từng đợt sóng được nhân hóa lên như con người, cũng biết “buồn điệp điệp”. Từng đợt sóng gợn trên sông của hình ảnh thật ấy cũng như những nỗi buồn đang trải dài vô tận. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh nỗi buồn hết lớp này đến lớp khác, nỗi niềm mang nhiều tâm sự của nhà thơ.
Trên con sông dài, không gian rộng lớn ấy, xuất hiện một con thuyền nhỏ bé:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Hình ảnh đối lập giữa cái bao la, mênh mông của sông nước với con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng càng gợi lên sự nhỏ bé của con thuyền. “Con thuyền” là hình ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ những thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người. Hình ảnh con thuyền và dòng sông vốn đã xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Cách sử dụng hình ảnh cổ điển trong thơ cùng điệp từ “song song” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ.
Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền và nước thường đi liền với nhau, nhưng ý thơ ở đây lại mang đến một sự xa cách giữa thuyền và nước. Hình ảnh nước trong câu thơ được nhạn hóa như con người, cũng có cảm xúc, cùng biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả. Đọc câu thơ, người đọc hình dung được một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút.
Bên cạnh những hình ảnh thân thuộc trong thơ xưa như sóng nước, con sông, con thuyền thì cuối đoạn thơ, nhà thơ lại mang đến một hình ảnh và ý thơ độc đáo đặc sắc:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Củi khô” là môt hình ảnh hiện đại trong thơ Huy Cận, hiếm khi ta bắt gặp một hình ảnh như thế trong thơ ca. Câu thơ giàu giá trị gợi hình, mang đến một hình ảnh chiếc củi khô nhỏ nhoi đang lạc lõng. Cành củi vốn đã tạo một cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại còn “khô” càng mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống. Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành củi khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “ một cành củi khô” mà lại viết “củi một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/3 khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh cái hình ảnh của củi cũng như thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.
Xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi buồn sâu thẳm. Tất cả hình ảnh thơ “sóng”, “thuyền”, “nước”, “củi” hiện lên trong thơ Huy Cận đều buồn sầu không một sức sống. Bởi chính tâm hồn buồn man mác của nhà thơ đã dàn trải lên cảnh vật nên nhìn đâu cũng là nỗi sầu nhân thế. Như thi nhân xưa có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mĩ trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiên đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh… Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, vô định của kiếp người. Đoạn thơ nói riêng cùng bài thơ nói chung là những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ sầu nhân thế của Huy Cận một thời.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 3
Huy Cận là cây bút tiêu biểu trong phong trào thơ Mới. Đến với thơ Huy Cận, người đọc sẽ dễ dàng rung động bởi nỗi buồn man mác quẩn quanh. Tràng Giang là một tác phẩm như thế. Bài thơ sẽ gợi lên cho chúng ta nỗi buồn nhân thế nặng sâu trong lòng tác giả. Nỗi buồn ấy đặc biệt mênh mang, heo hút giữa không gian thiên nhiên vô tận được khắc họa ở đoạn mở đầu bài thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ mở ra trước mắt ta một không gian tràn đầy sóng nước:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng bao quát được cả khung cảnh rộng lớn đồng thời gợi lên bao cảm xúc trong lòng người. Hình ảnh dòng sông lững lờ trôi với những làn sóng gợn mênh mang hiện lên vô cùng chân thực và giàu sức gợi. “Tràng giang” với âm “ang” nối liền tạo nên tiếng vọng trong câu thơ, vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh dòng sông dài rộng, mênh mông sóng nước. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng từ láy “điệp điệp” gợi sự liên tiếp, nối liền nhau dường như không dứt. Những con sóng gợn trên mặt sông rộng lớn, nối đầu lên nhau, lớp này tiếp lớp kia, lăn tăn không dứt. Không gian rộng lớn, mênh mông dường như càng làm nổi bật nỗi buồn miên man đang rợn ngợp trong lòng tác giả.
Giữa dòng chảy bao la ấy, chiếc thuyền nhỏ đột nhiên xuất hiện, lênh đênh lạc lõng:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Hình ảnh chiếc thuyền bé nhỏ, lững thững trôi đối lập hoàn toàn với dòng sông mênh mang, vô tận. Không giống như con thuyền trên sông Đà của Nguyễn Tuân, mạnh mẽ vượt qua thác ghềnh, con thuyền trôi trên dòng sông trong thơ Huy Cận “xuôi mái” để dòng nước đẩy trôi đầy hững hờ. Thế nhưng, dưới cái nhìn của cái tôi Huy Cận, con thuyền ấy không phải là con thuyền bình thường. Nó phải chăng chính là biểu tượng cho những thân phận nhỏ bé, cho những kiếp người đang lạc lõng lênh đênh giữa dòng chảy cuộc đời rộng lớn.
Từ láy “song song” được sử dụng trong câu thơ càng nhấn mạnh sự bất lực của con thuyền. Nó dường như chẳng biết mình sẽ trôi về đâu, buông xuôi mái chèo, bỏ mặc tất cả. Nghệ thuật tiểu đối “buồn điệp điệp” – “nước song song” liên kết hai câu thơ tạo sự nhịp nhàng, chầm chậm đồng thời cũng như lặng lẽ trút ra tiếng thở dài đầy não nề của Huy Cận trước cuộc đời thực tại.
Nỗi buồn của lòng người như thấm đượm vào cành vật. Trong cái nhìn sầu đau của thi sĩ, sự chia ly chậm rãi hiện diện:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền và nước những tưởng là hai hình ảnh song song đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa đầy buồn tủi. Hình ảnh đối ngẫu “thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa xót xa, thuyền một hướng, nước một hướng, sầu thương vô cùng. Thuyền lênh đênh trôi mãi đi xa chỉ còn dòng nước lặng lẽ ở lại, heo hắt, cô quạnh. Thuyền và nước ở đây không còn là sự vật vô tri vô giác của thiên nhiên mà đã được nhân hóa lên như một con người. Trước chia ly, chúng cũng có cảm xúc như con người: “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu không ngả một bên mà ngả trăm đường, lan tỏa, tràn lan như nuốt chửng cả không gian. Câu thơ vang lên mà lòng người không khỏi trùng xuống.
Nỗi buồn vẫn man mác bao trùm, khổ thơ khéo lại bằng hình ảnh vô cùng độc đáo:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Củi” là thứ đơn sơ, mộc mạc, chưa từng xuất hiện trong thơ ca mang ý nghĩa biểu tượng. Thế nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận, nó lại gợi lên bao cảm xúc khác lạ, mới mẻ trong lòng người đọc. “Cành củi” vốn đã mang cảm giác thật nhỏ bé, một cành củi “khô” ở đây càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của dòng sông, bơ vơ, vô định. Nó thậm chí không thể xuôi dòng song song như con thuyền, bị quăng quật theo dòng nước, lạc đến mấy dòng. Lối viết đảo ngữ “củi một cành khô” được sử dụng càng nhấn mạnh nỗi cô đơn, lẻ loi, héo tàn.
Câu thơ như muốn gợi lên hình ảnh của thân phận nhỏ bé, bơ vơ lênh đênh giữa cuộc đời. Cành củi khô lạc giữa dòng nước dường như chính là hình ảnh biểu tượng cho con người mang trong mình nỗi sầu lo, lạc lõng vô định giữa dòng đời xô đẩy, không biết đi đâu về đâu.
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi”
Có thể nói, với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã sử dụng hiệu quả những biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Những hình ảnh thơ gợi cảm cùng phép đối và các biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, các từ láy đã giúp người đọc cảm nhận được cái tôi nhỏ bé, suy tư giữa cuộc đời. Nỗi buồn của nhà thơ trước không gian mênh mang, rộng lớn cũng chính là nỗi lòng của thế hệ thanh niên trí thức trước tình cảnh đất nước mất chủ quyền.
Với những giá trị trên, khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của Tràng Giang. Đồng thời thể hiện được phong cách nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Để rồi năm tháng lặng lẽ chảy trôi, tiếng thơ Huy Cận vẫn còn âm vang mãi trong lòng độc giả.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 4
Huy Cận là một trong những nhà thơ thành công nhất phong trào thơ Mới. Người ta nhận xét thơ của Huy Cận thường buồn, một nỗi buồn sâu thăm thẳm, da diết, nỗi buồn của nhân thế, cuộc đời. Các tác phẩm thơ của ông thường nghiêng về nỗi buồn và một trong số đó là Tràng Giang. Bài thơ là điển hình cho nỗi buồn nhân thế mà Huy Cận luôn mang nặng trong lòng. Và ở khổ đầu tiên trong bài thơ, Huy Cận đã miêu tả một cách thật chân thực cái nỗi buồn heo hút, mênh mang trong lòng mình, nỗi buồn trước một không gian thiên nhiên vô cùng vô tận.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Tràng Giang được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi một mình ông đứng trước dòng sông Hồng hùng vĩ, lúc đó, ông hai mươi tuổi ở bờ Nam, bến Chèm, cùng nỗi buồn vô tận trong tâm hồn.
Bài thơ là hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ, hùng vĩ của quê hương, ẩn sau bức tranh đó là một nỗi buồn sâu thăm thẳm của Huy Cận và một tấm lòng nặng tình với quê hương. Hiện lên giữa không gian mênh mông của thiên nhiên là một cái tôi nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn giữa cuộc đời cùng nỗi cô đơn, sầu muộn vô cùng. Huy Cận, qua bài thơ, muốn thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, và kín đáo đặt trong đó là nỗi niềm của một thanh niên yêu nước yêu quê hương vô cùng. Con người ở thế giới của ông, sống giữa quê hương của mình nhưng lại thấy bơ vơ, lạc lõng trên chính quê hương ấy, đây phải chăng là một nỗi niềm, xúc cảm của một người dân mất nước, bơ vơ giữa cuộc đời với tình yêu quê hương tha thiết của mình?
Bài thơ được Huy Cận kết hợp giữa yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, ông đem tinh thần, cái tôi của thơ Mới vào trong một bài thơ thể thất ngôn với chất thơ Đường. Những hình ảnh với thi tứ cổ đầy gợi tả và sinh động. Chất thơ Đường cũng thật đậm đặc, thấm đẫm từ nhan đề thơ, đến thể thơ rồi thi tự, các bút pháp nghệ thuật (đối ngẫu, song đối).
Huy Cận đã sáng tác bài thơ khi đứng trên bến Chèm nhìn xuống dòng sông Hồng đang chầm chậm chảy, vậy nên mở đầu bài thơ, người ta mới thấy mở ra một không gian tràn đầy sóng nước cùng nỗi buồn miên man:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Một hình ảnh vô cùng chân thực và giàu sức gợi tả. Một dòng sông lững lờ trôi với những con sóng gợn lên mênh mang. Cụm từ “tràng giang” được nhà thơ đặt ngay đầu của câu thơ đầu tiên, với hai âm “ang” tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, cũng gợi lên cho người độc chúng ta hình ảnh về một dòng sông dài, rộng, mênh mông sóng nước, lại cổ kính, xa xưa. Huy Cận đã tinh tế vô cùng khi không đặt ở đây hai từ “trường giang” mà lại là “tràng giang” khiến cho người ta thấy rằng dòng sông không chỉ có chiều dài mà còn có một chiều sâu thật bí ẩn nữa. Hai từ “tràng giang” dường như cũng gợi lên phảng phất một chút gì đó trầm buồn đang rợn ngợp trong tâm hồn nhà thơ. Từng con sóng nối nhau liên tiếp, dồn dập “điệp điệp” tràn lên nhau, xô nhau đẩy vào bờ.
“Điệp điệp”, từ láy mà Huy Cận dùng ở đây để gợi lên sự liên tiếp, tiếp nối nhau không rời, không dứt. Những con sóng “gợn” lên trên mặt nước sông cứ “điệp điệp” nối nhau, vỗ lăn tăn trên mặt sông, trùng trùng như nỗi buồn trong lòng tác giả, miên man, chồng chất, trải dài vô tận, một nỗi buồn thật cụ thế. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh cái nỗi buồn trong lòng nhà thơ.
Dòng sông dài rộng là thế, bao la là thế, đột ngột xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh mà lạc lõng vô cùng:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Một chiếc thuyền nhỏ bé, lững thững chảy trôi theo dòng nước đối lập với cái bao la, mênh mang của dòng sông. Điều ấy lại càng gợi lên sự nhỏ bé, cô liêu đến vô cùng của con thuyền kia. Con thuyền ấy không như con đò trên dòng sông Đà cuồn cuộn chảy của Nguyễn Tuân cố sức vượt thác ghềnh, con thuyền của Huy Cận lại buông thõng mái chèo “xuôi mái”, để dòng nước đẩy trôi một cách thụ động. Dưới con mắt nhìn của cái tôi lãng mạn, con thuyền kia phải chăng chính là những số phận nhỏ bé, những kiếp người lênh đênh giữa cuộc đời. Và dòng sông chính là dòng chảy của cuộc sống mà con thuyền chỉ là một vật thể quá đỗi nhỏ bé giữa dòng sông ấy? Từ xưa tới nay, con thuyền, dòng sông luôn là những hình ảnh gợi lên những điều xa xôi, những nỗi buồn xa vắng. Ở đây, Huy Cận cũng sử dụng cái hình ảnh cổ điển ấy để gợi lên tâm trạng, nỗi lòng của mình. Cùng với từ láy “song song”, người ta lại cảng cảm nhận được sự bất lực của con thuyền kia, nó chẳng hề biết mình sẽ theo dòng chảy trôi về đâu, nó chỉ biết xuôi mái chèo “song song” cùng dòng nước, bỏ mặc tất cả.
Nghệ thuật tiểu đối được nhà thơ sử dụng trong hai câu thơ đầu tiên “buồn điệp điệp” – “nước song song”, tạo nên sự nhịp nhàng, chậm rãi cho hai câu thơ nhưng làm người ta cảm thấy đó như tiếng thở dài đầy não nề của Huy Cận khi đứng nhìn dòng sông chảy.
Nỗi buồn của Huy Cận dường như thấm vào trong cảnh vật, mỗi hình ảnh ông nhìn đều là nỗi buồn, đều là những cảnh sầu muộn, không hề có chút vui tươi. Hình ảnh con thuyền giữa dòng sông cũng mang lại cho người ta một sự buồn bã, gợi lên cảnh lênh đênh. Và con thuyền ấy còn khiến người ta nghĩ về sự chia ly khi mà ông viết:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền với nước luôn là hai hình ảnh song hành với nhau, thế mà ở đây, lại mang đến một sự xa cách đầy buồn tủi. Nghệ thuật đối ngẫu “thuyền về nước lại” khiến người ta thấy được sự chia lìa, thuyền một hướng, nước lại một hướng, thật buồn bã biết bao. Thuyền và nước ở đây được nhân hóa như một con người, chúng cũng có cảm xúc “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu ấy dường như lan tỏa ra, tràn ra vô tận, khắp mọi không gian. Đọc câu thơ lên mà người ta như thấy con thuyền cứ lênh đênh, cứ đi xa mãi, còn dòng nước cứ lặng lẽ ở lại, heo hút, mù mịt.
Đọc câu thơ mà người đọc như cảm nhận được nỗi buồn ngấm vào trong gan ruột, ngấm vào từng câu chữ, buồn đến vô cùng vô tận.
Thế nhưng, đặc sắc nhất trong thơ Huy Cận, trong tác phẩm Tràng Giang phải kể tới hình ảnh thơ độc đáo:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Các nhà thơ thường sử dụng những hình ảnh mang biểu tượng với ý nghĩa đẹp đẽ như vầng trăng, con thuyền, dòng sông, mặt nước, … thế nhưng ở đây, Huy Cận lại tận dụng một hình ảnh thơ có lẽ là độc nhất vô nhị trong thi ca Việt – cành củi khô. Hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước vừa giản dị, vừa gợi lên bao cảm xúc khác lạ, mới mẻ trong lòng người đọc. Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng chảy mênh mang của dòng sông, nó bơ vơ, không biết hướng về đây. “Cành củi” vốn đã tạo nên một cảm giác thật nhỏ bé, thật tầm thường, vậy mà ở đây lại chỉ là một cành củi “khô”, càng gợi lên sự hoang tàn, héo úa, thiếu sức sống. Cành củi ấy không như con thuyền, nó nhỏ bé hơn, bị quăng quật trong dòng nước bao la đến nỗi “lạc mấy dòng”. Nghệ thuật đảo ngữ được Huy Cận tận dụng triệt để ở đây, ông nhấn mạnh từ “củi” để gợi lên sự héo úa, thiếu sức sống đồng thời cũng để nhấn mạnh sự lẻ loi của cành củi giữa dòng sông rộng lớn. Một vật thể nhỏ bé, lại chỉ có một “củi một cành khô”, ít ỏi quá đỗi giữa cái mênh mông của sông nước này. Nhịp thơ 1/3/3, chậm rãi như gợi lên cái bé nhỏ quá đỗi của cành củi kia.
Cả câu thơ như muốn gợi lên hình ảnh của một thân phận bé nhỏ, bơ vơ giữa dòng đời. Cành củi lạc giữa dòng nước chảy trôi cũng như con người mang trong mình nỗi sầu vô hạn, bơ vơ giữa dòng đời đang xô tới. “Mấy dòng” nước, mấy dòng đời, vậy mà chẳng thể chọn lấy một con đường đi, con người ấy thật lạc lõng, thật lênh đênh quá. Như Tố Hữu cũng đã từng nói về sự bơ vơ, vô định, không biết hướng đi cuộc đời mình trong bài “Dậy lên thanh niên”:
“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi”
Huy Cận cũng đang trong tình thế ấy, và Huy Cận còn có một nỗi buồn mênh mang, sâu lắng hơn cả Tố Hữu nữa.
Khổ thơ đầu bài thơ Tràng Giang đã cho chúng ta thấy được một nỗi buồn xuyên suốt trong từng câu chữ. Tất cả những hình ảnh thơ đều sầu muộn, không có lấy một chút sức sống, chúng đều lênh đênh, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng nước trôi. Có lẽ bởi chính tâm hồn của Huy cận cũng đang trong một nỗi buồn nhân thế, chính vì vậy, nỗi buồn ấy đã ngấm sang từng cảnh vật quanh ông. Như Nguyễn Du đã từng khẳng định rằng:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bằng việc sử dụng cực kì hiệu quả những phép đối, những hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, ẩn dụ, nhân hóa, đã khiến cho chúng ta cảm nhận được một cái tôi thật nhỏ bé giữa cuộc đời, đặc biệt khi nó đứng trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, giữa vũ trụ bao la.
Khổ thơ nói riêng cũng như bài thơ Tràng Giang nói chung đều tiêu biểu cho hồn thơ mang nỗi sầu nhân thế của Huy Cận – một nhà thơ thuộc phong trào thơ Mới vô cùng tài năng.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 5
Những cung bậc cảm xúc của con người thường được con người ẩn giấu qua những câu hát, giai điệu, câu thơ câu văn. Chính các nhà văn, nhà thơ thường bày tỏ nỗi lòng của mình qua các câu chữ thấm đậm tình. Huy Cận là một trong những nhà thơ như vậy. Độc giả luôn cảm nhận được tâm trạng của ông qua các bài thơ ông sáng tác. “Tràng giang” – một tác phẩm không thể không kể đến, một tác phẩm kiến người đọc phải bồi hồi trong cảm xúc của tác giả. Chắc hẳn mọi độc giả đều ấn tượng với khổ thơ đầu tiên. tác giả đã vẽ lên khung cảnh thiên nhiên thật đẹp trước sự cô đơn hiu quạnh quặn lòng.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Nhan đề bài thơ là từ Hán Việt “Tràng giang”, hai từ này nghĩa là “sông dài”, thật gợi hình gợi cảm tạo nên một không gian cổ kính. Thêm vào đó, điệp vần “ang” đã tạo nên một âm vang xa mà rộng, mà dài, kéo mãi gợi nên một không gian bao la rộng lớn dài thật trang nghiêm. Cùng với nhan đề, đề tựa của bài thơ cũng rất đặc biệt “Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài”. Phải chăng “bâng khuâng” chính là cảm xúc chủ đạo của bài thơ để tác giả gửi gắm nỗi buồn vô hình của mình. Hình ảnh con người thật là nhỏ bé cô đơn trước biển “trời rộng, sông dài”.
Mở đầu đoạn thơ, mở ra trước mắt ta là một dải sông dài rộng lớn:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Một câu thơ chỉ vẻn vẹn có bảy chữ mà đã miêu tả được bao quát khung cảnh rộng lớn cùng với cảm xúc trong lòng tác giả. “Sóng gợn” – hình ảnh những làn sóng nhỏ li ti di chuyển trên một dòng sông dài và rộng làm cho con người ta khi đứng trước cảnh này không khỏi cảm thấy mơ hồ. Ở đây, tác giả đã sử dụng đến từ láy “điệp điệp” để miêu tả nỗi lòng của mình. Những gợn sóng cho ta cảm giác rất nhẹ nhàng nhưng không, nó cứ xô tiếp, “điệp điệp” kéo dài không ngớt, nó đẩy lòng người vào một nỗi buồn dai dẳng không ngừng.
Hình ảnh chiếc thuyền lại được xuất hiện thật gợi hình gợi cảm trong thơ của Huy Cận:
“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Trước một khung cảnh bao la bát ngát, xuất hiện lên một con thuyền khiến nó trở nên thật cô đơn hiu quạnh lênh đênh trên dòng sông nước rộng lớn. Những tưởng “thuyền” và “nước” là hai vật thể “song song” không thể tách rời, nhưng qua cái nhìn của Huy Cận, chúng lại chia lìa nhau. Một hình ảnh đối lập giữa “thuyền” và “nước”, một nỗi “sầu” của hai vật thể song song mà trải dài đến tận trăm ngả, điều đó càng giúp ta hiểu thêm được nỗi lòng của nhà thơ đó là nỗi buồn chia li, nỗi lòng tiếc nuối.
Nếu như thuyền, sông, sóng và nước quá đỗi quen thuộc với độc giả trong các bài thơ thì chắc chắn độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên với hình ảnh nhà thơ đã mượn để miêu tả ở câu thơ cuối của khổ đầu:
“Củi một cành khô lạc mất dòng”
Có thể nói rằng đây là một câu thơ “đắt” nhất của khổ đầu. “Củi” một thứ mộc mạc đơn sơ giản dị, tưởng chừng không mang một ý nghĩa gì trong thơ văn, nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận nó lại trở nên thật gợi hình gợi cảm. Một hình ảnh ẩn dụ mà mang tính hiện đại mới mẻ đến với người đọc. Lối viết đảo ngữ “củi một cành khô” gợi nên một sự cô đơn, lạc lõng nó gần như “khô” quạnh không có sức sống. Đó cũng chính là tâm trạng của tác giả cũng như bao con người đang lạc mình trong thời kỳ mất nước.
Một khổ thơ chỉ có hai mươi tám chữ mà đã vẽ lên cho người đọc bao cảm xúc bồi hồi của một tâm hồn lớn trước tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Tác giả đã rất thành công trong việc miêu tả cảnh, sử dụng độc đáo các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ và ẩn dụ. Giữa không gian rộng lớn mênh mông, người nghệ sĩ thấy bơ vơ, nỗi buồn nhân thế giữa dòng đời xô đẩy.
Bài thơ “Tràng giang” nói chung cũng như khổ thơ đầu nói riêng đã đạt đến trình độ cao của văn chương, khiến người đọc không thể nào quên được. Huy Cận thật khéo léo khi kết hợp tả khung cảnh thiên nhiên và nỗi lòng của mình vào trong đó. Dù tác giả không có nhắc trực tiếp đến đất nước những từ tận sâu trong bài thơ đó là tình yêu Tổ quốc, một lòng đau đáu về đất nước, luôn cầu mong cho đất nước “quốc thái dân an”.
Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang – Mẫu 6
Nhắc tới những sáng tác trước cách mạng của nhà thơ Huy Cận không thể không nói tới bài thơ Tràng Giang. Đây là bài thơ được tác giả viết vào thời điểm năm 2939, khi ông còn đang là sinh viên. Huy cận đứng ở bờ nam để ngắm sông Hồng mênh mông rộng lớn với biết bao nỗi niềm xúc động. Từ những cảm nhận đó tác giả đã viết nên bài thơ này.
Trước tiên người đọc chú ý đến nhan đề của bài thơ. Như chúng ta đã biết thì nhan đề là kết tinh cho toàn bài thơ, là điểm chú ý đầu tiên của người đọc khi tiếp xúc với bài thơ. Nhan đề còn có nhiệm vụ tạo nên hứng thú cho người đọc, người nghe, gợi sự tò mò, tìm hiểu của mọi người. Huy Cận sử dụng từ “Tràng Giang” trong đó “tràng” có nghĩa giống với từ “trường” tức là dài, còn “giang” là dòng sông. Cả từ “Tràng giang” có nghĩa là sông dài. Huy Cận không sử dụng từ “Trường Giang” để đặt cho bài thơ mà sử dụng “Tràng giang” để diễn tả về một con sông dài, rộng chính là có dụng ý riêng của tác giả. Tràng giang được tạo thành bởi vần “ang” khiến cho nhan đề như truyền tải được sự dài rộng của dòng sông.
Mở đầu bài thơ là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Chính lời đề từ đã khái quát nên nội dung và cảm hứng, tâm hồn của nhà thơ. Cảm xúc của bài thơ đó chính là nỗi buồn sâu lắng và được thể hiện qua từ “bâng khuâng”. Một nỗi buồn man mác, không rõ nguyên nhân nhưng lại da diết và khôn nguôi. Tâm trạng ấy được hình thành khi nhà thơ đứng trước không gian “trời rộng, sông dài”. Con người khi đứng trước không gian ấy càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi.
Ngay ở khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang thì nội dung cũng như cái tôi được tác giả thể hiện rất rõ ràng:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Nhắc đến sông nước, đứng trước dòng sông mênh mông, rộng lớn thì người ta không thể nào không nhắc tới những con sóng. Ở ngay câu thơ đầu tiên nhà thơ đã nhắc đến con sóng giống như mang theo tâm trạng, cảm xúc. Từ “Tràng giang” lại một lần nữa được nhắc đến. Nhà thơ dùng từ “Tràng” thay bởi từ “trường” chính là để phân biệt với con sông Trường Giang của Trung Quốc. Giống với ý nghĩa của phần nhan đề thì từ “trường giang” gây cảm giác về một không gian rộng lớn, bất tận. Giữa những con sóng, đứng trước không gian rộng lớn ấy chính là hình ảnh của nhân vật trữ tình. Mặc dù không được nhắc đến trực tiếp nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của tác giả. Sự lẻ loi nhưng con sóng nhỏ giữa mặt nước mênh mông, nó trở nên cô độc và như mang trong mình nỗi “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn như vô tận, kéo dài mãi.
Đến câu thơ thứ hai tác giả đã có sự di chuyển điểm nhìn từ cái nhìn xa, bao quát đến một điểm nhìn cụ thể:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Vốn tưởng sự xuất hiện của con thuyền sẽ mang đến cảm nhận về sự sống của con người nhưng trái lại càng thêm nỗi buồn thê lương. Con thuyền thì nhỏ nhoi, đơn độc đối lập hẳn với sự mênh mông của “tràng giang”. Càng thêm phảng phất nỗi buồn khi mà con thuyền rơi vào trạng thái “xuôi mái”, xuôi một cách buông bỏ cho dòng nước đẩy đưa. Huy Cận đã dùng nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Con thuyền tưởng như đang chuyển động nhưng thực chất chỉ bất động và chịu ảnh hưởng của con sóng, dòng nước.
Câu thơ thứ ba hai hình ảnh thuyền và dòng sông lại được sóng đôi cùng nhau:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Con thuyền giống như đang phá vỡ quy luật của bình thường, Thuyền “xuôi mái” tức là xuôi theo dòng nước ấy bậy mà lại có sự vận động “về – lại”. Vốn chảy cùng chiều nhau nhưng đến câu ba lại có sự ngược chiều. Sự phi logic trong câu thơ giống như sự lo âu, lạc lõng, trăn trở của chính tác giả. Khổ thơ đầu tiên kết lại bằng một hình ảnh thơ rất lạ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Nhành củi là hình ảnh rất quen thuộc, gần gũi nhưng nó ít khi được đưa vào trong thơ ca. Nhà thơ Huy Cận đã phá vỡ những quy tắc để lấy hình ảnh nhành củi khô trên nền thiên nhiên rộng lớn, kì vĩ. Cành củi nhỏ bé, đơn độc lạc giữa dòng nước giống như chính nhà thơ đang phải chịu đựng sự cô đơn, lạc lõng. Nó biểu tượng cho kiếp người nhỏ bé, phù du trôi nổi giữa dòng đời vô định.
Có thể nói với những hình ảnh độc đáo, tả cảnh ngụ tình tác giả đã vẽ nên bức tranh thủy mặc về cảnh sông nước. Qua khổ thơ thứ nhất ta có thể cảm nhận được nỗi buồn được thấm đẫm trong từng cảnh vật.