Soạn bài Em bé thông minh, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến tất cả các bạn bài soạn văn lớp 6: Em bé thông minh, đây là tài liệu tham khảo vô cùng hữu ích giúp các
Hiện nay, để có thể tiếp thu kiến thức Ngữ Văn lớp 6 ở trên lớp một cách nhanh chóng hiệu quả, học sinh thường chuẩn bị bài trước ở nhà.
Chính vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu tài liệu Soạn Văn 6: Em bé thông minh. Tài liệu này gồm hai phần chính là soạn văn chi tiết và soạn văn ngắn gọn, mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
Soạn văn Em bé thông minh chi tiết
I. Đôi nét về tác phẩm
1. Tóm tắt
Ngày xưa, có một ông vua nọ vì muốn tìm người tài giúp nước nên sai một viên quan đi dò la khắp nơi. Viên quan đi đến đâu cũng ra những câu đố oái oăm nhưng vẫn chưa tìm thấy người nào thật lỗi lạc. Một hôm nọ, viên quan đi qua cánh đồng ở một làng kia, thấy bên vệ đường có hai cha con đang làm ruộng, viên quan liền lại gần và hỏi người cha rằng trâu của ông một ngày cày được bao nhiêu đường. Người cha chưa biết trả lời thế nào thì đứa con đã hỏi lại viên quan rằng ngựa của ông ta một ngày đi được mấy bước. Quan nghe đến đấy thì nghĩ bụng đã tìm ra nhân tài, liền về bẩm báo với nhà vua. Vua nghe chuyện thấy mừng nhưng vẫn muốn thử tài cậu bé một lần nữa. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực ra lệnh phải nuôi cho ba con trâu đẻ thành chín con, năm sau đem nộp bằng không cả làng phải chịu tội. Cậu bé thấy vậy bảo làng giết thịt trâu và đồ hai thúng gạo nếp ăn còn mình cùng cha lên kinh đô gặp vua. Đến hoàng cung, cậu bé đã thuyết phục vua hiểu rõ lí do trâu đực không thể đẻ con và được vua ban thưởng hậu hĩnh. Lúc bấy giờ, nước láng giềng muốn xâm lược nước ta, để dò xét họ liền sai sứ giả mang một cái vỏ ốc vặn dài hai đầu với lời thách đố xuyên được sợi chỉ qua. Vua sai viên quan đến hỏi cậu bé và câu đố được giải khiến sứ giả nước láng giềng kinh ngạc. Về sau, cậu bé được phong làm trạng nguyên.
Xem thêm tại Kể tóm tắt truyện Em bé thông minh
2. Bố cục:
Gồm bốn phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “thật lỗi lạc”. Nhà vua sai viên quan đại thần đi tìm người tài.
- Phần 2: Tiếp theo đến “sứ giả của nước láng giềng”. Cậu bé lần lượt chứng tỏ sự thông minh qua các thử thách của nhà vua và sứ giả nước láng giềng.
- Phần 3: Còn lại. Cậu bé được phong làm trạng nguyên.
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Nhà vua sai viên quan đại thần đi tìm người tài
– Nhà vua vì muốn tìm người tài giúp nước nên đã sai viên quan đi dò la.
– Viên quan đại thần: đi nhiều nơi khắp đất nước, hỏi nhiều người nhưng vẫn chưa tìm được ai thực sự lỗi lạc.
=> Việc nhà vua muốn tìm người tài giúp nước chứng tỏ đây là một vị vua sáng suốt, tận tụy vì nhân dân đất nước. Nhà vua cũng là một người biết trọng dụng nhân tài khi có lòng tìm kiếm khắp đất nước.
2. Cậu bé lần lượt chứng tỏ sự thông minh qua các thử thách của nhà vua và sứ giả nước láng giềng
* Thử thách thứ nhất:
– Hoàn cảnh: Viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, thấy hai cha con đang đang làm ruộng.
– Câu đố: Quan dừng ngựa lại và hỏi người cha: “Trâu của lão một ngày đi được mấy đường?”
– Câu trả lời: Người cha chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy tám tuổi nhanh miệng hỏi lại: “Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường”. Đối mặt với một câu hỏi oái oăm thì câu trả lời lại là một câu hỏi cũng oái oăm không kém, đẩy người hỏi vào thế bị động.
– Kết quả: Viên quan há hốc mồm sửng sốt, không biết trả lời thể nào và thầm nghĩ nhân tài đang ở trước mắt rồi.
=> Lần thử thách thứ nhất, cậu bé đã chứng tỏ sự nhanh trí của mình.
* Thử thách thứ hai:
– Hoàn cảnh: Viên quan trở về kể lại cho vua nghe khiến nhà vua vui mừng. Nhưng để biết chính xác hơn về tài năng cậu bé, vua tiếp tục đưa ra thử thách.
– Câu đố: Vua ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, lệnh cho phải nuôi sao để năm sau ba con trâu ấy đẻ ra được chín con rồi đem nộp đủ, không sẽ trị tội.
– Câu trả lời:
- Cậu bé bảo cha nói với dân làng đem hai trâu giết thịt và đồ hai thúng gạo nếp lên ăn cho sướng miệng, còn lại xin làm phí tổn hai cha con lên kinh lo liệu việc vua giao.
- Đến hoàng cung, cậu bé lẻn vào sân rồng khóc lóc um tùm khiến vua phải sai lính điệu vào hỏi cho rõ.
- Cậu bé kể rõ sự tình: mẹ mất sớm, muốn bố để em bé cho có bạn chơi cùng.
- Vua bật cười nói với cậu bé: “…muốn có em bé phải bảo cha lấy vợ khác chứ cha là giống đực sao đẻ được“,
- Cậu bé nhân cớ đó hỏi lại vua: “vậy cớ sao vua lại lệnh cho làng con nuôi ba con trâu đực thành chín con để nộp“.
- Vua thừa nhận chỉ muốn thử thách.
- Cậu bé trả lời biết đó là lộc vua ban nên cả làng đã đem làm cỗ ăn mừng.
– Kết quả: Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc.
* Thử thách thứ ba:
– Hoàn cảnh: Vua muốn thử cậu bé một lần nữa.
– Câu đố: Khi hai cha con đang ngồi ăn cơm ở quán, vua sai người đem đến một con chim sẻ bắt làm thành ba mâm cỗ.
– Câu trả lời: Cậu bé nhờ cha lấy một chiếc kim may rồi đưa cho sứ giả bảo cầm về rèn thành một con dao để xẻ thịt chim.
– Kết quả: Vua hoàn toàn phục cậu bé, cho gọi cả hai cha con vào trọng thưởng.
* Thử thách cuối cùng:
– Hoàn cảnh: Nước láng giềng lăm le chiếm bờ cõi, để dò xét xem nước ta có nhân tài hay không đã đưa ra câu đố.
– Câu hỏi: Họ sai sứ thần đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu và yêu cầu xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc. Cả triều đình không ai giải được câu đố, nhà vua liền sai người đến hỏi cậu bé.
– Câu trả lời:
“Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang…”
– Kết quả: Con kiến càng sau được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc. Sứ giả nước láng giềng kinh ngạc và thán phục.
=> Nhận xét:
– Các câu đố ngày càng oái oăm hơn do người ra câu đố ngày càng cao (viên quan, vua, sứ giả nước láng giềng).
– Thử thách càng khó thì câu trả lời càng thuyết phục, điều đó chứng tỏ trí thông minh hơn người của em bé.
– Tuy còn nhỏ tuổi nhưng cậu bé vẫn bình tĩnh, nhanh trí tìm ra cách giải quyết những thử thách mà chưa chắc người lớn nào đã làm được như cậu. Điều đó chứng tỏ cậu không chỉ thông minh mà cũng rất bản lĩnh.
3. Cậu bé được phong làm trạng nguyên
– Vua đã phong cậu bé làm trạng nguyên.
– Xây một dinh thự ở cạnh hoàng cung cho em bé ở, tiện hỏi han.
=> Em bé thông minh được vua trọng dụng dù tuổi còn nhỏ. Nhưng đó là kết quả xứng đáng cho một tài năng hơn người.
Soạn văn Em bé thông minh ngắn gọn
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện cổ tích không? Tác dụng của hình thức này?
– Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện cổ tích. Ví dụ: truyện Trạng Quỳnh…
– Tác dụng:
- Tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ được tài năng, phẩm chất và trí thông minh của mình. Đây là một yếu tố không thể thiếu với truyện cổ tích kiểu nhân vật thông minh.
- Nhằm tạo tình huống cho sự phát triển tính cách của nhân vật cũng như sự phát triển của cốt truyện.
- Gây sự hứng thú, hồi hộp và thêm phần kịch tính cho người đọc người nghe.
Câu 2. Sự mưu trí thông minh của em bé được thử thách qua mấy lần? Lần sau có khó hơn lần trước không? Vì sao?
* Sự mưu trí thông minh của em bé được thử thách qua bốn lần.
* Thử thách sau lại khó hơn thử thách trước:
– Lần thứ nhất: câu đố của viên quan: Trâu một ngày cày được mấy đường – câu trả lời của cậu bé: Ngựa của ông một ngày đi được mấy bước.
– Lần thứ hai: câu đố của vua với dân làng: nuôi ba trâu đực để chúng thành chín con – cách giải quyết của cậu bé: cha không chịu đẻ em bé.
– Lần thứ ba: câu đố của vua: câu đố: một con chim sẻ làm thành ba mâm cỗ – câu trả lời: một chiếc kim may làm thành con dao xẻ thịt chim.
– Lần thứ tư: câu đố của sứ giả nước láng giềng: xâu chỉ qua con ốc – cách giải quyết: buộc sợi chỉ vào con kiến, một bên bịt lại, bôi mỡ một bên, kiến sẽ mang sợi chỉ sang.
* Thử thách sau khó hơn thử thách trước vì:
- Xét về người đố: đầu tiên là viên quan, hai lần sau là vua, lần cuối là sứ giả nước láng giềng. Người đố ở địa vị cao dần, vượt qua cả lãnh thổ một đất nước.
– Xét về câu đố: độ khó tăng dần lên về nội dung, đối tượng thực hiện.
- Lần 1: So sánh tài trí của cậu với người cha bằng cách đố lại viên quan
- Lần 2: So sánh cậu với toàn thể dân làng
- Lần 3: So sánh cậu với vua bằng cách đố lại vua
- Lần 4: So sánh cậu với vua, các quan đại thần là những người đầy kinh nghiệm, đại diện cho trí tuệ một đất nước.
– Cách giải quyết của cậu bé đầy thú vị: dùng cách “gậy ông đập lưng ông”, để người đưa ra câu đố tự cảm thấy phi lý. Cách giải quyết thể hiện kinh nghiệm đời sống phong phú.
Câu 3. Hãy nêu ý nghĩa của truyện cổ tích Em bé thông minh
– Truyện đã đề cao mưu trí tài năng của em bé: Nhờ sự thông minh của mình mà em bé được ban thưởng, phong làm trạng nguyên và sống ở một dinh thự cạnh hoàng cung để tiện hỏi han.
– Sự thông minh của em bé không phải do học tập trong sách vở mà do kinh nghiệm trong cuộc sống lao động. Như vậy, truyện đề cao trí khôn được đúc kết trong đời sống.
– Câu chuyện mang tính hài hước, đem lại tiếng cười cho người đọc.
II. Luyện tập
Câu 1. Kể diễn cảm truyện này.
– Học sinh tự kể chuyện
– Kể đúng các chi tiết theo một trình tự nhất định:
- Vua sai viên quan đi tìm người tài khắp đất nước.
- Bốn thử thách lần lượt diễn ra: kể lại chính xác câu đố và cách giải quyết của em bé.
- Em bé được vua phong làm trạng nguyên, được đón vào sống ở dinh thự cạnh hoàng cung để vua tiện hỏi han.
– Chú ý diễn tả đúng giọng điệu nhân vật ở những lời thoại.
Câu 2. Hãy kể về một câu chuyện “Em bé thông minh” mà em biết.
Em có thể tìm đọc trên mạng và kể lại một số câu chuyện khác tương tự như: Trạng Quỳnh, Trạng Hiền…