Soạn bài Khi con tu hú của Tố Hữu, Soạn bài Khi con tu hú của Tố Hữu là tài liệu hữu ích, giúp các bạn lớp 8 nắm vững được kiến thức cơ bản về tác phẩm và trả lời
“Khi con tu hú” là một tác phẩm tiêu biểu trong tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu. Đó là tiếng lòng của chàng thanh niên 19 tuổi say mê lí tưởng, tha thiết yêu đời, hăng hái hoạt động, bị giam cầm, tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Sau đây để giúp các bạn lớp 8 học tốt môn Ngữ văn, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu tài liệu Soạn bài Khi con tu hú của Tố Hữu. Tài liệu bao gồm 2 mẫu bài soạn: ngắn gọn và đầy đủ, được chúng tôi biên soạn theo nội dung trang 19, 20 sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 8 tập 2. Mời các bạn cùng theo dõi trong bài viết dưới đây.
Xem Tắt
Soạn bài Khi con tu hú đầy đủ
I. Về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– Tố Hữu (1906 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành
– Quê quán: Thừa Thiên Huế
– Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Ông giác ngộ lí tưởng cách mạng khi còn đang học ở Huế
+ Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 ông được giữ nhiều chức vụ trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, về mặt trận Văn hóa nghệ thuật.
+ Ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật năm 1996
– Phong cách sáng tác: Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị có cảm hứng lãng mạn ngọt ngào.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
– Sang tác vào tháng 7 năm 1939 tại nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả bị bắt giam
b. Bố cục
– Phần 1: 6 câu đầu: Khung cảnh thiên nhiên vào hè
– Phần 2: 4 câu cuối: Tâm trạng người chiến sĩ trong tù
c. Giá trị nội dung
– Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy
d. Giá trị nghệ thuật
– Thể thơ lục bát sử dụng uyển chuyển
– Giọng điệu linh hoạt
– Từ ngữ tự nhiên và gần gũi với đời thường
II. Kiến thức cơ bản
1. Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ).
– Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.
– Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Khi con tu hú gọi bầy (cũng là khi mùa hè đang đến), người tù cách mạng càng thấy ngột ngạt, cô đơn trong phòng giam chật hẹp, càng khát khao được sống cuộc sống tự do bay bổng ở ngoài kia.
– Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi, nó là tín hệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.
2. Trong bài Tâm tư trong tù, Tố Hữu từng viết:
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
“Ở ngoài kia” là không gian tự do, nơi người tù được hòa mình trong “tiếng đời lăn náo nức”, tiếng lạc ngựa “rùng chân bên giếng lạnh”, như vẫy gọi, như thúc giục người chiến sĩ xung trận. Trong bài Khi con tu hú, tứ thơ lại được sáng tạo theo một hướng khác, có phần kín đáo hơn. Mới đọc bài thơ chúng ta không biết người thơ đang ở trong tù:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.
Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường.
Chừng như để hòa điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cách diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không” Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.
Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe… Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được tháo cũi sổ lồng. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh, huyền ảo, rực rỡ hẳn lên. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống, đối với quê hương.
3. Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.
Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau. Ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy.
4. Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.
III. Rèn luyện kỹ năng
Các bài thơ viết về nhà tù của Tố Hữu luôn luôn có sự đối lập sâu sắc giữa hai thế giới: một thế giới của tự do rộn rã tiếng chim ca, suối chảy, rộn rã tiếng kèn xung trận đối lập với thế giới chật hẹp, ngột ngạt của nhà tù. Sự đối lập đó càng lớn thì khát vọng tự do càng được biểu hiện mãnh liệt.
Bài thơ có hai đoạn thơ thể hiện hai hoàn cảnh, tâm trạng đối lập, do đó khi đọc cần chú ý giọng điệu rộn rã, tươi vui ở 6 câu thơ đầu và giọng điệu căm uất, nghẹn ngào ở 4 câu thơ còn lại.
Soạn bài Khi con tu hú cực ngắn
Bố cục:
– Phần 1 (6 câu đầu): Bức tranh mùa hè.
– Phần 2 (4 câu cuối): Tâm trạng người tù, người chiến sĩ cách mạng.
Câu 1: trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 2
– Nhan đề bài thơ:
+ Là một vế phụ chỉ thời gian trong một câu => gây sự chú ý.
+ Tiếng chim tu hú: Tín hiệu của sự sống, mùa hè.
– Nội dung: Khi con tu hú gọi bầy cũng là khi đất trời chuyển sang hè, trong không gian lao tù bức bối, ngột ngạt, người chiến sĩ cách mạng lắng nghe mùa hè đang rạo rực càng thêm cháy bỏng niềm yêu sống, khao khát tự do.
– Tiếng tu hú kêu tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ vì nó gợi nhắc về mùa hè phóng khoáng, tưng bừng với bao cảnh sắc quyến rũ đối lập với cảnh tù chật chội.
Câu 2: trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 2
Nhận xét về cảnh mùa hè được miêu tả trong 6 câu thơ đầu. Những chi tiết nào khiến em có nhận xét đó là:
Tiếng chim tu hú gọi bầy đã làm sống dậy trong lòng tác giả cảnh sắc của mùa hè rạo rực, mê say:
Những chi tiết biểu hiện vẻ đẹp, nhịp sôi động của mùa hè:
+ Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần – hương vị ngọt ngào, mời gọi.
+ Tu hú gọi bầy, vườn râm ve ngân – gợi liên tưởng âm thanh vui nhộn, đặc trưng của mùa hè.
+ Trời xanh cao, diều sáo lộn nhào tầng không – không gian khoáng đạt, tự do.
→ Tiếng chim tu hú gọi mùa đã mở ra vẻ đẹp chào mời hấp dẫn của mùa hè. Mọi diễn đạt đều bắt nguồn từ cảm nhận bằng hồn thơ tinh tế, tình yêu cuộc sống, khao khát tự do mãnh liệt. Bức tranh thiên nhiên cũng vì thế vui nhộn, giàu sức sống.
Câu 3: trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 2
Trạng thái cảm xúc bức bối, ngột ngạt của người tù – người chiến sĩ được thể hiện trực tiếp ở 4 câu cuối:
– Cách ngắt nhịp bất thường ở câu 8 (ngắt 6/2), câu 9 (ngắt 3/3).
– Các từ ngữ diễn đạt hoạt động, trạng thái với sắc thái mạnh: Dậy, đạp tan, ngột, chết uất.
– Các từ ngữ cảm thán, diễn đạt sự bức xúc: Ôi, làm sao, thôi, cứ, …
Tiếng tu hú ở đầu bài thơ gợi ra trong cảm nhận người tù – người chiến sĩ cảnh tượng mùa hè, cả cuộc sống tự do háo hức, rộn rã; còn ở cuối bài thơ, khi cảm giác ngột ngạt, u uất lên đến cao độ thì tiếng chim lại khiến cho tâm trạng chiến sĩ thêm đau khổ, bức bối vì cảnh giam hãm, mất tự do.
Câu 4: trang 20 sgk Ngữ Văn 8 Tập 2
Cái hay của bài thơ nằm trong hai mặt nội dung và nghệ thuật.
Cái hay của bài thơ được thể hiện ở:
– Nội dung:
+ Bức tranh thiên nhiên mùa hè sôi động đầy màu sắc, âm thanh và hương vị
+ Lòng yêu cuộc sống, khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.
– Nghệ thuật:
+ Hình ảnh gần gũi, bình dị, thân thuộc.
+ Thể thơ lục bát dư ba, giàu cảm xúc
+ Nhịp thơ đa dạng: 4/2, 4/4, 2/4, 6/2/ 3/3.
Ngoài ra các bạn học sinh lớp 8 tham khảo thêm một số bài văn mẫu như: phân tích bài thơ Khi con tu hú, phân tích tâm trạng của người chiến sĩ trong bài thơ Khi con tu hú hay phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ để có thêm nhiều tài liệu học tập.