Soạn bài Tập làm thơ tám chữ, Tài Liệu Học Thi mời bạn đọc tham khảo tài liệu Soạn văn 9: Tập làm thơ tám chữ, vô cùng hữu ích cho học sinh.
Với bài học Tập làm thơ tám chữ, học sinh lớp 9 sẽ được tìm hiểu về đặc điểm của thể thơ cũng như thực hành làm thơ tám chữ.
Tài Liệu Học Thi mời bạn đọc tham khảo tài liệu Soạn văn 9: Tập làm thơ tám chữ, đến quý thầy cô và các em học sinh.
Xem Tắt
Soạn văn Tập làm thơ tám chữ
I. Nhận diện thể thơ tám chữ
1. Đọc đoạn văn thơ trong SGK
Học sinh đọc kỹ các đoạn thơ trong SGK.
2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau đây:
a. Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở đoạn thơ trên.
– Số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên là: tám chữ
b. Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần liền, vần gián cách đã học để nhận xét về cách gieo vần của từng đoạn.
– Đoạn a: Vần chân liền (tan – ngàn, bừng – rừng)
– Đoạn b: Vần chân liền (học – nhọc, bà – xa)
– Đoạn c: Vần chân cách (khổ đầu: ngát – hát, non – son; khổ sau: đứng – dựng, tiên – nhiên)
c. Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.
– Cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên đều linh hoạt.
=> Tổng kết:
– Thơ tám chữ là thể thơ mỗi dòng đều có tám chữ, cách cách ngắt nhịp đa dạng.
– Những bài thơ tấm chữ có thể gồm nhiều đoạn dài (số câu không hạn định), hay được chia thành các khổ (mỗi khổ thường có bốn dòng).
– Cách gieo vần chủ yếu là vần chân (được gieo liên tiếp hoặc gián tiếp).
II. Luyện tập nhận diện thể thơ tám chữ
1. Đoạn thơ sau trích trong bài “Tháp đổ” của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa sao cho phù hợp.
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của bát ngát
Nâng đón lấy màu xanh hương muôn hoa
Của ngày mai muôn thuở với ngày qua
2. Đoạn thơ sau trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ cũng mất, đất trời, tuần hoàn sao cho đúng vần.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than phiền tiễn biệt…
3. Đoạn thơ sau trong bài “Tựu trường” của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lý do và thử tìm cách sửa lại cho đúng:
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
– Lỗi sai: Câu thơ sau ở câu thứ ba với từ “rộn rã” – âm cuối phải là thanh bằng và vần với từ “gương”.
– Cách sửa: thay bằng từ “tựu trường” (vần chân: gương – trường).
4. Hãy làm một bài (hoặc một đoạn thơ) theo thể tám chữ với nội dung và vần, nhịp tự chọn để thực hành trên lớp.
Gợi ý:
Mùa xuân ríu rít tiếng chim ca vang
Cây cối xanh tươi nắng nhuộm sắc vàng
Đất trời rộn ràng lòng người say đắm
Chào đón một năm mới lại sắp sang.
III. Thực hành làm thơ tám chữ
1. Tìm những từ thích hợp (đúng thanh, đúng vần) để điền vào chỗ trống trong khổ thơ sau:
Trời trong biếc không qua mây gợn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua.
(Theo Anh Thơ, Trưa hè)
2. Khổ thơ sau còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã
…
Gợi ý:
Câu thơ cần thêm: Những học trò lại bồi hồi nhớ thương (vần chân: trường – thương)