Văn mẫu lớp 9 – Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny https://quatangtiny.com Shop chia sẽ Tài Liệu Học tập Miễn Phí cho các bạn độc giả có cái nhìn hay và tổng quan về các tính năng sản phẩm độc đáo Sun, 01 Nov 2020 03:54:05 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=5.9.10 https://quatangtiny.com/wp-content/uploads/2020/10/cropped-icon-Qua-1-32x32.png Văn mẫu lớp 9 – Tin Tức Giáo Dục Học Tập Tiny https://quatangtiny.com 32 32 Văn mẫu lớp 9: Nghị luận về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung https://quatangtiny.com/nghi-luan-ve-hien-tuong-lu-lut-o-mien-trung-46981 https://quatangtiny.com/nghi-luan-ve-hien-tuong-lu-lut-o-mien-trung-46981#respond Sun, 01 Nov 2020 03:49:09 +0000 https://quatangtiny.com/nghi-luan-ve-hien-tuong-lu-lut-o-mien-trung-46981

Related posts:

  1. Bài thu hoạch nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng viên
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
]]>
Văn mẫu lớp 9: Nghị luận về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung

Văn mẫu lớp 9: Nghị luận về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung, Văn mẫu lớp 9: Nghị luận về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung mang tới dàn ý chi tiết, cùng bài văn mẫu

Văn mẫu lớp 9: Nghị luận về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung mang tới dàn ý chi tiết, cùng bài văn mẫu nghị luận xã hội về mưa lũ Miền Trung. Giúp các em học sinh lớp 9 tích lũy vốn từ, có thêm nhiều ý tưởng để hoàn thành bài văn nghị luận của mình.

Lũ lụt Miền Trung gây thiệt hại lớn về người và của
Lũ lụt Miền Trung gây thiệt hại lớn về người và của

Như các em đã biết mưa lũ vừa qua ở miền Trung đã gây thiệt hại nặng nề cả về vật chất, lẫn tính mạng con người. Mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây:

Dàn ý Nghị luận về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: hiện tượng lũ lụt ở miền Trung. (Một trong những vấn đề nóng bỏng được xã hội đặc biệt quan tâm hiện nay chính là lũ lụt ở miền Trung).

2. Thân bài

a. Thực trạng

Nước dâng cao gần một tháng trời, nhiều nhà cửa bị cuốn trôi; động vật và hoa màu bị tàn phá nặng nề; người dân mất hết tài sản, ngồi trên nóc nhà đợi người đến cứu trợ.

Có nhiều người đã thiệt mạng, trong đó có sản phụ đi đẻ và 13 cán bộ chiến sĩ.

b. Nguyên nhân

Hằng năm miền Trung nước ta phải chịu nhiều trận bão nặng nề. Năm nay những cơn bão mạnh hơn và có sức tàn phá kinh khủng hơn so với những năm trước.

Nguyên nhân sâu xa: do con người gây ô nhiễm môi trường nặng nề khiến cho những thiên tai thêm mạnh bạo hơn.

c. Hậu quả

Đời sống người dân bị tàn phá nặng nề, nhà cửa bị cuốn trôi, người dân rơi vào cảnh khốn cùng “tiến thoái lưỡng nan” bị mắc kẹt ở vùng lũ không di chuyển được. Người và của bị thiệt hại nặng nề.

d. Giải pháp

Nhà nước cần có những biện pháp kịp thời để cứu trợ bà con.

Người dân cần chung tay ủng hộ và giúp đỡ đồng bào.

Người dân vùng lũ cần bình tĩnh, không nên hoảng loạn.

e. Mở rộng

Có nhiều tấm gương người tốt việc tốt (ca sĩ Thủy Tiên,…) đã không ngại khó khăn lao vào tâm lũ để cứu trợ đồng bào, đứng ra quyên góp được số tiền lớn để giúp đỡ đồng bào.

Người dân cả nước đau xót và hướng về miền Trung, ủng hộ về cả vật chất và tinh thần để giúp họ vượt qua khó khăn, nói lên tinh thần tương thân tương ái của đồng bào ta.

3. Kết bài

Khái quát lại những thiệt hại của bão lũ và đưa ra lời động viên với đồng bào miền Trung.

Nghị luận xã hội về hiện tượng lũ lụt ở miền Trung

Một trong những hiện tượng nóng bỏng nhận được sự quan tâm của toàn dư luận, xã hội hiện nay chính là hiện tượng lũ lụt đang hoành hành mạnh bạo ở miền Trung nước ta và gây ra nhiều thiệt hại về người và của.

Gần một tháng nay, nước dâng cao ở nhiều tỉnh thành như: Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Bình,… ngập đến tận mái nhà. Nhiều nhà cửa ở các vùng trũng thấp bị cuốn trôi. Động vật và hoa màu bị tàn phá nặng nề và trôi theo dòng lũ không còn lại gì, nhiều lương thực tích trữ cũng bị hư hại. Người dân mất hết tài sản, rơi vào hoàn cảnh khốn cùng phải ngồi trên nóc nhà đợi người đến cứu trợ. Một thực trạng đau lòng hơn nữa đó chính là có nhiều người đã thiệt mạng vì bão lũ, trong đó có sản phụ đi đẻ và mười ba cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ tại nơi đây.

Nguyên nhân của hiện tượng này là do hằng năm miền Trung nước ta phải chịu nhiều trận bão nặng nề. Nhưng năm nay những cơn bão mạnh hơn và có sức tàn phá kinh khủng hơn so với những năm trước. Nguyên nhân sâu xa hơn nữa là do hằng năm con người tàn phá, gây ô nhiễm môi trường nặng nề khiến cho những thiên tai thêm mạnh bạo hơn.

Hậu quả của bão lũ mà ai cũng có thể nhìn thấy chính là đời sống người dân bị tàn phá nặng nề gây thiệt hại lớn về người và của: nhà cửa bị cuốn trôi, người dân rơi vào cảnh khốn cùng “tiến thoái lưỡng nan” bị mắc kẹt ở vùng lũ không di chuyển được. Tài sản mà họ gây dựng cả đời bị hủy hoại hoàn toàn. Môi trường sinh thái cũng bị phá hủy nghiêm trọng do nước lũ,…

Hiện tại, tình hình mưa lũ vẫn còn diễn biến rất phức tạp, trước mắt, nhà nước và các mạnh thường quân cần chung tay cứu trợ đồng bào những nhu yếu phẩm cần thiết để duy trì sự sống trong những ngày mưa lũ. Khi nước lũ đã rút, cả nước cần chung tay quyên góp, giúp đỡ bà con khắc phục hậu quả và gây dựng lại sự sống cho nơi đây. Người dân vùng lũ cần bình tĩnh, không nên hoảng loạn vì những thiệt hại trước mắt.

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Câu nói này hoàn toàn đúng đắn với đồng bào ta trong thực trạng người dân miền Trung đang phải đối mặt với bão lũ. Có nhiều tấm gương người tốt việc tốt đã không ngại khó khăn lao vào tâm lũ để cứu trợ đồng bào, đứng ra quyên góp được số tiền lớn để giúp đỡ đồng bào; trong đó phải kể đến ca sĩ Thủy Tiên, người tiên phong đi vào tâm lũ, sau đó là hàng loạt các nghệ sĩ khác như: Trấn Thành,… Người dân cả nước đau xót và hướng về miền Trung, ủng hộ về cả vật chất và tinh thần để giúp họ vượt qua khó khăn, nói lên tinh thần tương thân tương ái của đồng bào ta: nhiều xe chuyên dụng chở lương thực từ khắp các miền tổ quốc hướng về miền Trung để tiếp tế người dân,…

Bão lũ đã gây ra những hậu quả đau thương cho con người miền Trung nói riêng và cả nước nói chung. Những bi quan, đau khổ không làm cho thời gian quay trở lại và làm giảm nhẹ thiên tai. Chính vì vậy, người dân cần phải lạc quan hơn nữa để vượt qua giai đoạn này đồng thời chúng ta cũng cần tương trợ lẫn nhau để những mảnh đời bớt khó khăn hơn đúng với tinh thần “Tương thân tương ái” của dân tộc.

]]>
https://quatangtiny.com/nghi-luan-ve-hien-tuong-lu-lut-o-mien-trung-46981/feed 0
Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất https://quatangtiny.com/tuyen-tap-nhung-bai-van-mau-lop-9-34029 https://quatangtiny.com/tuyen-tap-nhung-bai-van-mau-lop-9-34029#respond Fri, 23 Oct 2020 17:53:12 +0000 https://quatangtiny.com/tuyen-tap-nhung-bai-van-mau-lop-9-34029

Related posts:

  1. Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu (Dàn ý + 10 Mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến (Dàn ý + 11 mẫu)
]]>
Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Những bài văn mẫu

Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 9 hay nhất sẽ giúp các em làm bài tốt hơn khi gặp các đề thi tương tự, biết cách dẫn dắt vấn đề, phát triển vấn đề dựa trên những gì đã được học. Những bài văn mẫu lớp 9 chỉ mang tính chất tham khảo và hỗ trợ các em trong quá trình học tập môn Ngữ Văn 9. Chúc các em học tốt!

Bộ đề ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn

Tuyển tập những bài văn mẫu lớp 6 hay nhất

Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Bài làm:

Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến. Chiến tranh là chất liệu làm nên nét chân thực, dữ dội và không kém phần lãng mạn trong những vần thơ ông viết. “Đồng chí” là bài thơ sáng tác trong thờ kì đất nước ta kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Hình ảnh người lính được khắc họa đậm nét và đầy ấn tượng. Sự khốc liệt của chiến tranh vẫn khiến cho thơ ông có sự mềm mại và trữ tình. Hình ảnh “đầu súng trắng treo” cuối bài thơ tiêu biểu cho khuynh hướng đó.

Bao trùm lên bài thơ “Đồng chí” là hình ảnh người lính cụ hồ hiên ngang, bất khuất, vượt qua mưa gió bão bùng, sự gian khổ và khắc nghiệt của thời tiết để hướng về phía trước. Cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn vẫn không thể đánh gục những con người vì dân vì nước như vậy.

Giữ rừng hoang sương muối bao phủ lấy, hình ảnh “đầu súng trăng treo” như một nét chấm phá tuyệt đẹp. Nó hiện lên trong trang viết của Chính Hữu như một bức tranh:

Đêm nay rừng hoang sương muối lạnh

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo

Nếu như ở hai câu thơ trên tái hiện lại sự khắc nghiệt, gian khổ của địa hình và thời tiết thì câu thơ thứ ba, duy nhất chỉ có trăng và súng lại rất thơ mộng và lãng mạn. Có lẽ đây chính là dụng ý của tác giả khi viết bài thơ này.

Giữa đếm đông giá lạnh, sương muối bao trùm khiến cho những người lính rét run người. Dù khắc nghiệt, gió khó khăn bủa vây nhưng hình tượng người lính vẫn hiện lên thật kiên cường và cao đẹp. Họ vẫn luôn “đứng cạnh bên nhau” để “chờ giặc tới”. Tư thế và tâm thế luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta phải khâm phục và ngưỡng mộ.

Không phải vô tình mà 3 câu thơ này được tác ra làm một khổ riêng, có lẽ dụng ý của tác giả muốn làm nổi bật hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ. Trên cái nền ảm đảm, khắc nghiệt, nguy hiểm của thiên nhiên và chiến tranh nhưng người lính vẫn luôn kiên cường, bất khuất. Họ luôn tràn đầy tình yêu và sự lạc quan để tiến về phía trước đánh đuổi kẻ thù.

Mặc dù hình ảnh “đầu súng trăng treo” gồm “trăng” và ‘súng”, tưởng như đối lập nhau giữa cái lãng mạn, trữ tình và cái hiện thực khắc nghiệt nhưng trong thơ Chính Hữu nó lại trở nên mềm mại. Trăng và súng không còn đối lập nhau nữa mà hòa quyện vào nhau làm nên một khung cảnh tuyệt đẹp giữa rừng hoang sương muối rơi ướt vai người lính.

Đấy chính là chất liệu lãng mạn nổi bật trên hiện thực khắc nghiệt. Đây thực sự là một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Người lính vẫn sẵn sàng canh gác bảo vệ tổ quốc, mũi súng hướng lên trời mà tác giả cứ ngỡ súng chạm vào trăng. Một nét điểm xuyết chấm phá tạo nên bức tranh đối lập nhưng vô cùng hài hòa và đầy tinh tế.

Những người lính có tuổi đời còn rất trẻ, họ có lý tưởng sống và cống hiến cho đất nước nhưng họ cũng ấp ủ những ước mơ bé nhỏ, một tình yêu bé nhỏ hay bóng dáng người con gái nào đó. Trong lòng họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và sự lãng mạn đáng trân trọng. Chiến tranh khắc nghiệt nhưng không để nó làm trái tim người lính chai lì mới thực sự là điều đáng quý.

Bởi vậy mới có thể thấy rằng ‘đầu súng trăng treo” dường như lan tỏa thứ ánh sáng dịu nhẹ của ánh trăng xuống cánh rừng, lan vào lòng người lính sự mát dịu, trong lành nhất.

Chính Hữu đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh ‘đầu súng trăng treo” ám ảnh tâm trí người đọc như thế này. Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh này còn neo đậu mãi.

Đề bài: Chuyển nội dung bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải thành một bài văn tả cảm xúc của tác giả trước khung cảnh mùa xuân.

Những ngày cuối cùng của mùa đông đã hết. Bầu trời màu xám từ từ chuyển sang màu xanh lơ, trông quang đãng hẳn lên. Trong không trung bao la, hây hẩy ngọn gió xuân ấm mát, từng đàn chim én vun vút chao liệng, báo hiệu mùa xuân đã đến.

Tôi lững thững thả bộ dọc bờ sông Hương trong một sớm mai hồng, say mê ngắm phong cảnh non nước hữu tình của xứ Huế – quê mẹ thân thương, mảnh đất đã gắn bó với tôi suốt cả cuộc đời. Bất chợt, tôi phát hiện ra giữa dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc vừa nở, đang rập rờn trên sóng. Đơn giản chỉ có vậy thôi mà trong lòng tôi dâng lên một cảm giác lâng lâng, khó tả vô cùng! Dòng nước ăm ắp sức xuân. Bông hoa tươi thắm sắc xuân và trên đầu tôi là bầu trời xuân bát ngát, lảnh lót tiếng chim chiền chiên. Từng chuỗi âm thanh trong vắt như từng chuỗi ngọc long lanh thả xuống từ trời, khiến tôi sung sướng đưa tay ra hứng. Cả vũ trụ quanh tôi đều thấm đượm hơi thở nồng nàn của mùa xuân.

Hành trang trên lưng người cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Mùa xuân hiện ra trong màu xanh mướt của mạ non quấn quýt theo từng bước chân người ra đồng cấy lúa. Nhịp điệu mùa xuân hối hả, xôn xao khiến cho lòng người cũng rạo rực một niềm vui sống.

Chân bước đều và trí óc tôi miên man suy nghĩ về quê hương, đất nước. Ôi, Tổ quốc Việt Nam với bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại, lại vừa trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lăng. Bao xương máu của tổ tiên, ông cha, con cháu… nối tiếp đổ xuống đất này, tạo nên hồn thiêng của dân tộc bất khuất, hiên ngang. Đất nước vất vả và gian lao giờ đây vẫn như ngôi sao sáng ngời, tiếp tục cuộc hành trình tiến lên phía trước, xây dựng tương lai.

Tôi ao ước được hóa thân làm con chim chiền chiện hay làm một cành hoa để dâng tiếng hót, dâng hương sắc cho đời. Tôi muốn cuộc đời mình là một mùa xuân nho nhỏ để góp phần tạo nên mùa xuân rộng lớn của đất nước và dân tộc. Trong bản giao hưởng rộn rã ca ngợi mùa xuân, tôi chỉ xin được làm một nốt trầm xao xuyến.

Trái tim tôi hân hoan cất lời ca ngợi cuộc sống đẹp tươi. Tôi muốn chia sẻ tâm trạng tràn đầy hạnh phúc với mọi người. Các bạn ơi! Hãy biến cuộc đời mình thành mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời. Hãy giữ cho cuộc đời mình mãi mãi là mùa xuân, dù là tuổi hai mươi hay khi mái đầu đã bạc!

Tâm hồn tôi đang say sưa trước điệu hát Nam ai, Nam bình quen thuộc của quê hương: Nước non ngàn dặm mình, nước non ngàn dặm tình… trong nhịp phách tiền rộn rã. Đất nước mình đâu cũng đẹp như gấm như hoa và dân tộc Việt Nam mãi mãi tràn đầy sức sống bất diệt của mùa xuân!

Đề bài: Bạn em băn khoăn vì sao đã có câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên, mà lại còn có câu: Học thầy không tày học bạn? Em hãy giải thích để giúp bạn em hiểu rõ ý nghĩa và mối quan hệ giữa hai câu tục ngữ trên.

Từ xưa, nhân dân ta đã coi trọng vị trí của người thầy trong xã hội. Có biết bao câu ca dao, tục ngữ thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư; Muốn sang thì bắc cầu kiều, Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy…

Trong nhà trường, người thầy giữ vai trò rất quan trọng. Vì thế dân gian đã khẳng định: Không thầy đố mày làm nên. Nhưng bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng: Học thầy không tày học bạn. Như vậy, hai câu trên có mâu thuẫn với nhau hay không? Chúng ta cùng bàn luận để có cách nhìn nhận đúng đắn về ý nghĩa của hai câu tục ngữ này.

Nếu mới đọc qua, chắc chắn có người cho rằng hai câu tục ngữ trên chứa đựng hai quan điểm trái ngược nhau.

Câu thứ nhất: Không thầy đố mày làm nên đề cao đến mức tuyệt đối vai trò của người thầy đối với học sinh. Trong khi đó câu thứ hai: Học thầy không tày học bạn lại đề cao vai trò của bạn bè. Vậy nên hiểu nội dung hai câu tục ngữ này thế nào cho đúng?

Trong nhà trường, vai trò của người thầy vô cùng quan trọng. Thầy dạy cho trò những kiến thức cần thiết thông qua bài giảng trên lớp. Thầy là người dẫn đường chỉ lối, mở rộng, nâng cao tri thức cho học sinh. Đồng thời với việc dạy chữ là dạy nghĩa. Người thầy dạy bảo những điều hay lẽ phải, quan tâm giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp các em sống theo đạo lí làm người. Đối với việc trưởng thành và tạo dựng sự nghiệp của học sinh, công lao của người thầy quả là không nhỏ.

Nhưng không phải người thầy thay thế được tất cả. Thầy hết lòng giảng dạy, trò phải hết sức nỗ lực trong học tập thì mới mong đạt được kết quả khả quan. Như vậy, những cố gắng của học sinh cũng góp phần đáng kể. Nếu phủ nhận mặt này, ý nghĩa của câu tục ngữ trên sẽ thiên lệch.

Vai trò người thầy quan trọng như vậy mà lại có ý kiến cho rằng: Học thầy không tày học bạn (không tày có nghĩa là không bằng), liệu có rơi vào sự đánh giá thiên lệch khác chăng? Thực ra, ý của người xưa là muốn nhấn mạnh đến ảnh hưởng của bạn bè đối với sự hiểu biết và tiến bộ của mỗi người. Nghệ thuật dân gian trong câu tục ngữ này là dùng cách nói quá để khẳng định điều muốn nói. Kiến thức thầy giảng trên lớp, có gì chưa hiểu, đem hỏi lại bạn bè. Lúc bạn tận tình hướng dẫn cho mình thì bạn cũng đã đồng vai trò người thầy, dù chỉ trong chốc lát.

Thực tế cho thấy bạn bè tốt hỗ trợ nhau rất nhiều trong học tập, làm việc và xây dựng sự nghiệp của mỗi người. Bạn bè cùng trang lứa có sự thông cảm, gần gũi nên việc tiếp thu cũng dễ dàng hơn.

Vậy nên hiểu quan niệm học thầy, học bạn như thế nào?

Mỗi học sinh phải chăm chỉ học tập, cố gắng tiếp thu những kiến thức do thầy truyền đạt, kết hợp với óc suy nghĩ, sáng tạo của bản thân để không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết. Luôn ghi nhớ truyền thống Tôn sư trọng đạo của dân tộc. Kính trọng thầy thực sự thì mới có tâm thế trong sáng, nghiêm túc đón nhận lời thầy dạy bảo. Chưa hiểu hoặc hiểu chưa kĩ điều gì, ta mạnh dạn hỏi bạn bè, tránh thái độ tự ti, giấu dốt, bởi đó là điều hoàn toàn bất lợi cho việc học hành. Học thầy, học bạn không chỉ về kiến thức mà còn học cả tác phong, đạo đức để trở thành con người toàn diện, hữu ích cho xã hội.

Hai câu tục ngữ trên bổ sung ý nghĩa cho nhau để phản ánh quan niệm của người xưa về việc học. Cách học tốt nhất ngày nay là học ở thầy, học ở bạn, học trong sách vở và học ở thực tế đời sống hằng ngày. Muốn nên người, chúng ta phải có thái độ tôn kính thầy cô, quý mến, tôn trọng bạn bè và khiêm tốn học tập. Con đường đến với tri thức là con đường gập ghềnh, gian nan. Trên con đường ấy, thầy và bạn vừa là người chỉ lối, vừa là người đồng hành quan trọng biết bao đối với mỗi chúng ta.

Tài liệu vẫn còn, mời các bạn tải về để xem tiếp

]]>
https://quatangtiny.com/tuyen-tap-nhung-bai-van-mau-lop-9-34029/feed 0
Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 4 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-4-35573 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-4-35573#respond Fri, 23 Oct 2020 17:19:41 +0000 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-4-35573

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
]]>
Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 4

Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 4, Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 4 là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài

Tài Liệu Học Thi xin gửi đến quý thầy cô giáo cùng các em học sinh bộ sưu tập Những bài văn mẫu lớp 9 số 4. Thông qua tài liệu này sẽ hỗ trợ cho việc dạy và học hiệu quả môn Ngữ văn lớp 9 của các thầy cô giáo và cùng các em học sinh.

Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 4 được tổng hợp từ những bài văn hay của các em học sinh trên toàn quốc. Hi vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài viết của mình. Sau đây, mời quý thầy cô giáo và các em cùng tham khảo.

Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 4: Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú Bộ đội nhân ngày Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22-12)

Để chào mừng ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, nhà trường tổ chức cuộc gặp gỡ, nói chuyện giữa các chú cựu chiến binh tham gia kháng chiến chống Mỹ với học sinh chúng tôi. Đó là một buổi nói chuyện đầy xúc động. Với tôi, cuộc gặp gỡ này càng đặc biệt hơn, bởi vì tôi được vinh dự đại diện cho các bạn học sinh phát biểu những suy nghĩ về tình cảm và trách nhiệm của thế hệ sau với thế hệ cha anh đi trước.

Tôi đã có mặt tại trường từ sáng sớm. Sao tôi thấy hồi hộp quá! Sân trường hôm nay được trang hoàng thật rực rỡ. Phía khán đài, tấm phông xanh nổi bật lên hàng chữ trắng: “Chào mừng ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12/1944 – 22/12/2009”. Bên dưới là dòng chữ in nghiêng: “Gặp gỡ với những chứng nhân lịch sử”. Dường như một bầu không khí thiêng liêng và vô cùng trang trọng đang bao trùm cả sân trường.

Đúng 7 giờ 30 phút, buổi lễ chính thức được bắt đầu. Tất cả các học sinh đều mặc đồng phục, xếp hàng ngay ngắn. Trên khán đài, thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo đã có mặt đông đủ. Cả trường bỗng vang lên tiếng vỗ tay giòn giã. Toàn thể học sinh đứng dậy để chào đón một đoàn khách đặc biệt. Đó là các chú bộ đội, những người trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Sau nghi thức lễ chào cờ, thấy hiệu trưởng đọc bài diễn văn chào mừng ngày 22/12. Cả sân trường im lặng lắng nghe. Thỉnh thoảng, từng tràng vỗ tay nồng nhiệt vang lên, góp phần làm cho buổi lễ thêm phần sôi nổi. Giây phút chờ đợi rồi cũng tới. Một sĩ quan quân đội trong bộ quân phục màu xanh lá cây bước lên trò chuyện với toàn trường. Gương mặt chú kiên nghị và đôn hậu. Giọng nói của chú ấm áp và thân tình. Chú ôn lại những kí ức hào hùng của thế hệ các chú trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Có lẽ phần thú vị nhất mà chúng tôi được nghe là những kỉ niệm có thật và xúc động vô cùng giữa thời chiến.

– Với chú, kỉ niệm sâu sắc nhất là trong lúc tham gia chiến dịch ở Nam Lào. Đó là một đêm mưa tầm tã. Đơn vị chú trên đường hành quân qua cánh đồng thì bị địch phát hiện và bắn phá dữ dội. Chú bị thương và lạc đơn vị. Do mất máu quá nhiều nên chú ngất đi. Tỉnh dậy, chú thấy mình nằm trên chiếc chõng tre. Bên cạnh là một bà má với nét mặt lo lắng, đang ngồi chườm khăn lên trán chú. Má đã tận tình chăm sóc chú cho đến khi chú hồi phục trở lại.

Chú im lặng một lúc rồi xúc động nói tiếp:

– Sau này chú mới biết má cũng có con tham gia quân giải phóng và đã hi sinh. Má xem các chú bộ đội như con của mình, luôn chăm sóc các chú rất tận tình. Mấy năm sau, trở lại ngôi làng xưa, chú không còn được gặp má nữa. Má đã mất cách đó không lâu do tuổi già sức yếu.

Mắt chú như nhòa đi. Giọng chú nghẹn ngào, xúc động. Cả trường cũng im lặng hồi lâu.

Sau đó, chúng tôi đã hỏi các chú rất nhiều điều chúng tôi băn khoăn về thời chiến. Các bạn trong lớp tôi rất sôi nổi và hào hứng khi được đối thoại với các chú. Qua đó, chúng tôi đã hiểu hơn rất nhiều về những con người của thế hệ trước, về cuộc kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc, về những mất mát đau thương mà cả dân tộc ta đã phải trải qua.

Cuối cùng, tôi thay mặt cho các bạn học sinh đứng lên phát biểu suy nghĩ của mình. Dù rất xúc động và hồi hộp, tôi vẫn nhận thấy ánh mắt khích lệ mà các thầy cô giáo và các bạn cùng lớp dành cho tôi. Điều đó đã giúp tôi thêm tự tin để bước lên, phát biểu bằng chính cảm xúc đang dâng trào trong tôi.

– Thưa các bác, các chú!

Chúng cháu là thế hệ may mắn được sinh ra khi đất nước đã hòa bình, thống nhất. Tuy nhiên, qua buổi gặp gỡ và trò chuyện hôm nay, chúng cháu đã phần nào biết được sự gian khổ và mất mát hi sinh của những người đi trước. Hiểu được điều ấy, chúng cháu càng khâm phục, ngưỡng mộ và tự hào về thế hệ cha anh. Chúng cháu càng trân trọng những giá trị của cuộc sống tự do mà chúng cháu đang được hưởng. Chúng cháu xin hứa sẽ chăm chỉ học tập để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Cuối cùng, cháu xin thay mặt các bạn học sinh, kính chúc các bác, các chú và gia quyến luôn khỏe mạnh và hạnh phúc. Chúc các bác, các chú có một ngày 22/12 thật vui vẻ và ý nghĩa.

Tôi kết thúc bài phát biểu của mình trong tiếng vỗ tay ủng hộ của các bạn trong trường. Trong tôi dâng lên một niềm tự hào về dân tộc mình, về thế hệ cha anh đi trước của mình. Tôi tự hứa với lòng mình phải sống sao cho thật xứng đáng là con cháu của đất nước Việt Nam anh hùng.

Bài viết số 4 lớp 9 Đề 1: Vai trò của cây cối

Con người sống, tồn tại, làm việc, giải trí hàng ngày trong một môi trường sống trong sạch. Một trong những yếu tố tạo nên sự trong sạch đó chính là “rừng”.

Không phải dĩ nhiên mà trái đất được gọi là hành tinh xanh. Với diện tích lớn là biển, rừng và tầng ôzôn bao quanh, trái đất với điều kiện lý tưởng ấy là nơi bắt nguồn cho sự sống – một điều mà chưa hành tinh nào có. Đặc biệt là rừng – một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người.

Rừng là gì? Đó là một quần lạc sinh địa, trong đó sinh vật rừng, đất và khí hậu tạo thành một thể thống nhất, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Nó được tạo nên bởi nhiều thành phần mà cây là thành phần chính. Vậy thì tại sao rừng lại có một ảnh hưởng lớn như vậy đến cuộc sống con người?

Như chúng ta đã biết, thành phần chính của rừng là cây xanh. Mà cây xanh lại có tác dụng rất lớn đối với môi trường sống. Không đơn thuần là tạo bóng mát, làm đẹp phố phường mà hơn hết cây xanh điều hòa khí hậu giúp cho không khí trong lành, làm sạch bầu khí quyển. Hãy thử tưởng tượng xem nếu như trái đất này không có cây xanh thì chắc chắn xung quanh ta sẽ chỉ là một bầu không khí bụi bặm, ô nhiễm nắng, nóng hoặc mưa lạnh giá, hạn hán ngập lụt sẽ giày xéo lên cuộc sống của người dân. Nói cách khác không có cây xanh sự sống của con người sẽ chấm dứt.

Cuộc sống con người không chỉ được quyết định ở yếu tố vật chất mà nó còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên khách quan. Trong đó xói mòn đất là một hiện tượng tự nhiên thường xảy ra nơi những vùng dồi dào, đất trọc ít cây bao phủ. Xói mòn làm cho lớp đất mặt bị rửa trôi, tạo thành khe rãnh gây lũ lụt, đất trôi lở… ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống con người. Rồi hiện tượng gió, gió mạnh ảnh hưởng lớn đến cây rừng làm giảm 30 – 90% sự đồng hóa thực vật, gió nóng làm giảm khả năng thụ phấn của cây, dèm cát vùi lấp đồng ruộng, nhà cửa… Tất cả những thiên tai khủng khiếp đó đều có thể được ngăn chặn hoặc giảm bớt bằng cách trồng cây xanh. Rừng điều hòa khí hậu, điều tiết dòng chảy trên mặt đất, bảo vệ, cải tạo làm tơi xốp đất, giữ nước cho sản xuất, hạn chế sức phá hoại của gió ngăn sự di chuyển của cát vào sâu đất liền, ngăn chặn gió, bão, mùa màng, làng xóm. Không chỉ thế rừng còn là nguồn cung cấp cho con người gỗ, củi, hoa quả và làm phân xanh. Có thể nói rừng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi con người.

Không chỉ là yếu tố, thành phần chính trong hoàn cảnh sống của con người mà rừng còn là môi trường sống của rất nhiều động vật quý hiếm. Rừng có các loại cây từ thấp lên cao. ở mỗi tầng là một môi trường hoàn cảnh thích nghi riêng biệt với từng loài vật. Nào thỏ, hươu, nai, hổ đến khỉ, vượn, sóc, chim… đó là những loài động vật rất quý hiếm mà môi trường sống duy nhất của chúng chính là rừng – thiên nhiên hoang dã.

Trong rừng có rất nhiều loài gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu,… rồi các loại thuốc quý. Có những khu rừng được con người trồng lên để phục vụ cho chế biến công nghiệp như rừng cao su, rừng tre, nứa, keo tai tượng,….

Bên cạnh đó rừng còn là môi trường sinh thái trong lành – một địa điểm du lịch lý thú, một danh lam thắng cảnh tuyệt vời đầy bí ẩn, hoang dã và tràn đầy hấp dẫn, lôi cuốn.

Ảnh hưởng lớn và có tính chất quyết định đến sự sống con người rừng còn rất có ích với các lĩnh vực khác như nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ… hiểu rõ được những lợi ích và ảnh hưởng của rừng ta mới thấy rõ vị trí và tầm quan trọng của nó như thế nào?

Đất nước ta với ba phần tư diện tích là rừng, đồi núi – một điều kiện thiên nhiên tuyệt vời. Vậy mà giờ đây diện tích rừng đó còn lại bao nhiêu? Không hiểu rõ tầm quan trọng của rừng rất nhiều người đã chặt phá cây bừa bãi nhất là những người dân thiếu hiểu biết “đốt nương làm rẫy” khai phá rừng một cách vô ý thức. Nhưng cũng có những người biết được lợi ích của rừng hiểu được sự sai trái trong hành động của mình nhưng vẫn chặt trộm, khai khác rừng trái phép để kiệm lợi về mình. Hậu quả của những việc chặt phá, khai thác thiếu quy củ, đốt rừng, phá rừng ấy thật không thể tưởng tượng được. Từng tự hào với cánh rừng U Minh rộng lớn, phong phú thì nhưng chỉ vì thiếu ý thức, công tác quản lý kém mà hàng trăm, hàng nghìn hecta rừng bị phá hủy, thiêu rụi trong ngọn lửa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường người dân và thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của nhà nước. Những vùng đồi xanh đẹp đẽ xưa kia những cánh rừng nguyên sinh xưa kia giờ đây chỉ còn là những quả đồi trọc, những khu rừng thứ sinh. Tiếp theo đó là những thảm họa thiên nhiên liên tục xảy ra nào hạn hán, nào lũ lụt, nào sụt lở đất… làm thiệt hại bao tiền của và đau đớn hơn là tính mạng của những người dân vô tội. Không có rừng thì lấy cái gì để ngăn chặn lũ lụt, điều hòa không khí, để chống xói mòn, để bảo vệ làng mạc. Những tai hại to lớn và khủng khiếp ấy đều chỉ vì một sự vô ý thức, sự thiếu hiểu biết và hám lợi của một số cá nhân gây ra.

Mất rừng đồng nghĩa với việc môi trường sống của con người đang dần dần bị tàn phá, hủy hoại. Những loại động vật hoang dã cũng mất đi môi trường sống của mình. Đã bao loài động vật bị tuyệt chủng, bị đem vào danh sách đỏ. Nguy cơ tuyệt chủng tất cả cũng vì chặt phá rừng.

Hiểu rõ tầm quan trọng, thấy rõ những hậu quả của việc tàn phá rừng, chúng ta thêm phần yêu quý và biết bảo vệ rừng hơn.

Hiện nay Đảng và chính quyền nhà nước ta đã có những biện pháp thích hợp và quản lý chặt chẽ trong việc khai thác rừng. Bằng cách khai thác hợp lý kết hợp với việc tái tạo rừng, nhiều khu rừng đã được phục hồi “phủ xanh đồi trọc”.

Tác động của con người tới tái sinh tự nhiên là rất lớn bởi trong tái sinh tự nhiên thường gặp hoàn cảnh bất lợi, ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt, sự sinh trưởng của cây con. Để khắc phục người sản xuất phải chủ động tạo hoàn cảnh sống thích hợp bằng cách chặt phá những cây, cành mọc quá rậm, phát bớt bụi để hạt tiếp xúc nảy mầm dễ và xới đất tơi xung quanh gốc. Là học sinh, sinh viên chúng ta có thể góp sức nhỏ của mình trong công cuộc cải tạo rừng bằng cách tuyên truyền tầm quan trọng của rừng, hậu quả của việc khai thác trái phép và có thể trồng cây quanh nhà để góp phần làm trong sạch không khí, môi trường sống trong xóm làng.

Hãy yêu quý và bảo vệ rừng để trái đất của chúng ta mãi là “hành tinh xanh” “Tổ quốc Việt Nam yêu dấu, có sạch đẹp mãi được không. Điều đó tuỳ thuộc hành động của bạn, chỉ thuộc vào bạn mà thôi”.

Bài viết số 4 lớp 9 Đề 2: Tác hại của ma túy

Chúng ta đang sống trong một đất nước không ngừng phát triển trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Để làm được điều đó, chúng ta phải vượt qua các trở ngại,khó khăn. Một trong số đó là các tệ nạn xã hội như: ma túy, cờ bạc, văn hóa phẩm đồi trụy. Nhưng đáng sợ nhất chính là ma tuý. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về tác hại to lớn của ma túy để phòng tránh cho bản thân, gia đình và xã hội.

Để phòng chống một tệ nạn thì chúng ta cần biết rõ về tệ nạn đó. Ma túy là một loại chất kích thích, gây nghiện có nguồn gốc từ cây túc anh hoặc nhựa cây thuốc phiện được trồng ở 12 tỉnh miền núi phía Bắc Việt nam hay từ lá, hoa, quả cây cần sa được trồng ở các tỉnh giáp ranh biên giới Việt Nam – Campuchia. Đặc biệt là ma túy có một ma lực dẫn dụ ghê gớm, khiến người bị dính vào không thể cưỡng lại được, chẵng khác gì “ma đưa lối, quỷ đưa đường”. Ma túy tồn tại ở nhiều dạng như tép, nước, bột, hồng phiến, bạch phiến, thuốc…và được sử dụng bằng nhiều hình thức hút, chích, hít…Nó được coi là tệ nạn đáng sợ nhất vì sức dẫn dụ con người không kể tuổi tác và khả năng gây nghiện nhanh chóng. Hơn thế nữa, ma túy còn là ngọn nguồn của những tệ nạn xã hội khác.

Chúng ta thường nghe nói ma túy rất có hại nhưng mấy ai hiểu được tác hại thật sự của nó! Trước tiên, nó gây hại trực tiếp đến người nghiện. Về sức khỏe, ma túy gây ra các bệnh khôn lường cho cơ thể. Người nghiện sẽ bị hư hại niêm mạc mũi nếu dùng ma túy theo dạng hít, có khả năng ngưng thở đột ngột, gây nguy hiểm tính mạng. Còn dùng theo dạng hút thì cơ quan chịu ảnh hưởng là phổi. Phổi sẽ bị tổn thương nghiêm trọng, gây ung thư phổi, viêm đường hô hấp, nhiễm trùng phổi…Và nguy hiểm nhất là dùng ma túy dạng chích, đây là con đường ngắn nhất dẫn đến AIDS. Người tiêm đâu có biết rằng trên mũi kim là hàng vạn quả cầu gai gây căn bệnh thế kỉ hiểm nghèo, cứ thế họ truyền tay nhau tiêm chúng, đưa virus vào máu của mình. Ở những tụ điểm tiêm chích, họ còn pha thêm các chất bẩn gây áp-phê, hậu quả là các con nghiện phải cưa cụt tay chân hay nhiễm trùng máu. Ấy là chưa kể đến tình trạng bị chết do sốc thuốc. Câu chuyện “cái chết trắng” của nhà tỉ phú trẻ Raphael, chết ngay bên đường do dùng bạch phiến quá liều. Những người nghiện lâu ngày rất dễ nhận ra, người gầy gò, da xám, tóc xơ xác. Hệ thần kinh bị tổn thương nặng do ảnh hưởng của thuốc, kém tập trung, suy nghĩ, chán nản và thiếu ý chí vươn lên nên việc cai nghiện cũng khó khăn. Đáng ghê sợ hơn, người mới nghiện heroin, khi “phê” thường gia tăng kích thích tình dục, dẫn đến hành vi tình dục không an toàn, có thể bị lây nhiễm HIV, nhưng nếu sử dụng lâu ngày sẽ làm suy yếu khả năng tình dục. Không chỉ dừng ở đó, tiêm chích ma túy còn hủy hoại con đường công danh, sự nghiệp của người nghiện. Đã có bao bài học, biết bao câu chuyện kể về những công nhân, kĩ sư… đã gục ngã trước ma túy, để rồi bị bạn bè, đồng nghiệp xa lánh, con đường tương lai tươi sáng bỗng vụt tắt, tối tăm. Và nhất là những bạn học sinh, tuổi đời còn quá dài mà chỉ vì một phút nông nỗi, bị bạn bè rủ rê đã đánh mất tương lai. Thật đáng thương!

Ma túy không những gây hại cho người dùng nó mà còn cho cả gia đình của họ, khiến họ trở mất dần khả năng lao động, trở thành gánh nặng cho gia đình. Những gia đình có người nghiện ma túy bầu không khí lúc nào cũng lãnh đạm, buồn khổ. Công việc làm ăn bị giảm sút do không được tín nhiệm. Nền kinh tế cũng theo đó mà suy sụp. Bởi những người một khi đã nghiện thì luôn có nhu cầu hơn nữa về ma túy, đồng nghĩa với việc họ phải có tiền, mà tiền thì lấy từ đâu? Từ chính gia đình của họ chứ không đâu xa. Rồi những người vợ, người mẹ sẽ ra sao khi thấy chồng, con mình vật vã khi thiếu thuốc, khi lìa bỏ cõi đời vì mặc cảm, vì bệnh tình đã tới giai đoạn cuối? Thật đau xót cho những gia đình bất hạnh có người nghiện ma túy.

Không dừng lại ở đó, ma túy còn như một con sâu đục khoét xã hội. Khiến cho an ninh, trật tử, quốc phòng bất ổn. Khi muốn thõa mãn cơn ghiền, con nghiện không từ một thủ đoạn, hành vi trộm cắp, giết người nào để có tiền mua heroin, hoặc nổi máu anh hùng xa lộ, đua xe, lạng lách. Những con nghiện mà không được gia đình chấp nhận sẽ đi lang thang làm mất vẻ mỹ quan,văn minh lịch sự của xã hội,vật vờ trên những con đường. Không chỉ thế, nhà nước, xã hội còn phải tốn tiền để tổ chức lực lượng phòng chống và giải quyết những thiệt hại do con nghiện gây ra. Mất tiền xây dựng các trại cải tạo, giáo dục, điều trị cho người nghiện. Một thiệt hại lớn mà ma túy gây ra cho nền kinh tế quốc gia là ngành du lịch bị giảm sút. Các bạn thử nghĩ xem, có ai dám đi du lịch sang một đất nước, một thành phố mà toàn người bị HIV/AIDS. Rồi họ sẽ nghĩ gì về nước ta, họ sẽ nhìn nước ta với ánh mắt khinh thường, chẳng ai dám đầu tư vào đây nữa. Quả là một mất mát, thiệt hại cho nước nhà!

Nhưng các bạn đừng lo, nếu chúng ta biết cách phòng chống thì những mối nguy ngại trên sẽ được giải quyết, sẽ không còn tệ nạn ma túy nữa. Mỗi người phải có trách nhiệm, tích cực tuyên truyền, giáo dục cho người thân mình sự nguy hiểm của ma túy để không ai bị chết vì thiếu hiểu biết. Luôn tránh xa với ma tuý bằng mọi cách, mọi người nên có ý thức sống lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, luôn tỉnh táo, đủ bản lĩnh để chống lại mọi thử thách, cám dỗ của xã hội. Đồng thời cũng lên án, dẹp bỏ tệ nạn bằng cách không tiếp tay cho chúng. Nếu lỡ vướng vào thì phải dùng nghị lực, quyết tâm, vượt lên chính mình để từ bỏ con đường sai trái. Bên cạnh đó nhà nước cũng phải đưa những người nghiện vào trường cai nghiện, tạo công ăn việc làm cho họ, tránh những cảnh ” nhàn cư vi bất thiện”, giúp họ nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống cộng đồng, không xa lánh, kì thị họ.

Ma túy quả là một con quỷ khủng khiếp nhất của gia đình và xã hội, còn hơn cả bệnh tật và đói khát. Chúng ta vẫn có thể phòng trừ nanh vuốt của con quỷ dữ này. Mỗi chúng ta phải nêu cao cảnh giác, chung tay ngăn chặn nó, mở rộng vòng tay đỡ lấy những người nghiện, đừng để họ lún quá sâu vào bóng tối. Đặc biệt là học sinh chúng ta phải kiên quyết nói không với ma túy, xây dựng một mái trường, một xã hội không có ma túy.

]]>
https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-4-35573/feed 0
Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-sang-thu-cua-huu-thinh-36173 https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-sang-thu-cua-huu-thinh-36173#respond Fri, 23 Oct 2020 17:08:40 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-sang-thu-cua-huu-thinh-36173

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
]]>
Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh, Bài văn mẫu ‘Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh’ được Tài Liệu Học Thi tổng hợp nhữngbài văn mẫu lớp 9 hay nhất nhằm mang

Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô giáo và các em học sinh cùng tham khảo Bài văn mẫu: Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh được chúng tôi tổng hợp chi tiết, chính xác và hay nhất.

Hy vọng đây là tài liêu bổ ích giúp mang lại cho các em học sinh tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo và tải mẫu tại đây.

Dàn ý chi tiết.

I. Mở bài

– Mùa thu luôn là đề tài quen thuộc gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân

– Bài thơ “Sang Thu” khiến cho nhà thơ ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển giao mùa từ mùa hạ sang thu,cả bài thơ là một bức tranh thu tươi đẹp.

II. Thân bài

* Bức tranh thiên nhiên mùa thu được Hữu Thỉnh phác họa một cách sinh động và giàu sức biểu cảm bằng khứu giác,thị giác,xúc giác.

– Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người,tâm hồn của mình qua những tín hiệu:

+ Sắc vàng của hoa cúc,của lá ngô đồng,tiếng lá vàng rơi xào xạc.

+ Hương ổi bỗng phả vào gió se thơm ngào ngạt,nồng nàn đánh thức những cảm xúc trong lòng người.

+ Màn sương chùng chình qua ngõ,một chút ngỡ ngàng,bâng khuâng trong tâm hồn nhà thơ và sung sướng thầm thốt lên “Hình như thu đã về”.

+Dòng sông,mưa,đám mây củng có những tín hiệu sang thu=>Tác giả khẳng định rằng “Thu đến thật rồi”.

– Dấu hiệu của mùa thu trong thơ rất bình dị,gần gũi.Tác giả rất tinh tế,khéo léo để nhận ra sự thay đổi rất nhẹ nhàng,dịu dàng của mùa thu chỉ vừa mới chớm.

– Hình ảnh đám mây mùa hạ duyên dáng “Vắt nửa mình sang thu” thật thú vị và độc đáo.

– Tất cả như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

* Tác giả bắt đầu suy ngẫm,chiêm nghiệm thể hiện qua giọng thơ trầm hẳn ở bốn câu thơ cuối

– Khổ cuối nói lên một vài cảm nhận,suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu qua hình ảnh nắng,mưa,sấm.

– Tác giả chiêm nghiệm và sự từng trải qua hình ảnh “Hàng cây đứng tuổi” : hình ảnh gợi cho người đọc nhiều liên tưởng như một đời người trưởng thành rồi già cỗi đi

=>Hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

– Mùa thu khép lại những ngày tháng sôi nổi,bồng bột của tuổi trẻ để mở ra một mùa mới,một không gian mới điềm đạm hơn.

* Nghệ thuật

-Với thể thơ 5 chữ,ngôn ngữ giản dị,hình ảnh đơn sơ,quen thuộc,biện pháp nghệ thuật nhân hóa những hình ảnh màn sương,đám mây,…làm cho bài thơ trở nên sinh động hơn.

III. Kết bài

– Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bưc tranh thu tươi đẹp với nhiều cảm xúc tinh tế.

– Cả bài thơ là bức tranh tuyệt mỹ được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim người nghệ sĩ.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài số 1

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhàng và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, gần gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ đất nước ngàn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của nhà thơ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

“Sang thu” là một bài thơ tái hiện lại một cách nhẹ nhàng sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bồi hồi của nhà thơ khi nhận ra sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những giai điệu dịu êm nhất.

Dấu hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và gần gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể nhận ra được thứ hương rất đỗi nhẹ nhàng và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng nhận ra” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về nhưng điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương chùng chỉnh qua ngõ
Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. HÌnh ảnh “sương chùng chình qua ngõ” khiến người đọc tưởng tượng ra khung cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “chùng chình” dùng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mông lung nhất. Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi.

Có lẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. Đến khổ thơ thứ hai thì dường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Nước mùa thu dâng lên theo mùa “dềnh dàng”, những cánh chim trời bắt đầu “vội vã” bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và dường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tưởng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

Từ “vắt” dùng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã đến thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhàng và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài dùng chữ vẽ tranh.

Điều bất ngờ nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự đến rồi và đất trời đã có nhưng chuyển biến khiến con người có thể nhận ra, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi

Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật mình nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây đứng tuổi. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng đến “hàng cây đứng tuổi”. Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối dường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi trẻ bồng bột, nhiều hối hả. Ở giai đoạn con người ta “đứng tuổi” mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lên đời người ở tuổi xé chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa. Nhịp đập của mùa thu, sự chuyển động của mùa thu rất nhẹ nhàng và êm đềm. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc nhận ra rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm.

Hữu Thỉnh với bài thơ “Sang thu” độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài số 2

Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Những biến chuyển này đã được Hữu Thỉnh cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi sĩ và thể hiện qua những hình ảnh thơ mộng, giàu sức biểu cảm.

Ở khổ thơ đầu, dấu hiệu của mùa thu không phải là Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu như trong thơ cổ; cũng không phải là Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống; lệ ngàn hàng như trong thơ Xuân Diệu cách đây hai phần ba thế kỉ. Vốn hiểu biết nhiều về nông thôn nên Hữu Thỉnh đã đưa vào bài thơ những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà vô cùng quen thuộc của quê hương

Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Đây là khung cảnh một sáng chớm thu ở làng quê Bắc Bộ. Trước hết nhà thơ bất chợt nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió mang hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là gió heo may. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.

Tiếp theo là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ. Lập thu, tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Sương cũng là một trong những dấu hiệu của mùa thu. Sương chùng chình qua ngõ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. Nhà thơ ngỡ ngàng và sung sướng thầm thốt lên: Hình như thu đã về.

Hai từ bỗng và hình như làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng của nhà thơ trước khung cảnh mùa thu – nguồn cảm hứng bất tận của thơ, ca, nhạc, họa.

Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. Bắt đầu là khứu giác: Bỗng nhận ra hương ổi, Phả vào trong gió se. Tiếp theo là thị giác mở rộng để tiếp nhận những tín hiệu báo thu sang. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, lũy tre dọc theo lối ngõ cho đến dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây nhẹ nhàng, thanh thản trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim dường như cũng vội vã hơn.

Cảm giác giao mùa được nhà thơ diễn tả bằng một hình ảnh bật ngờ đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc miêu tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Ấn tượng về cái ào ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn nguyên nhưng nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào hồn từ lúc nào chẳng rõ.

Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa

Nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, chùng chình, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống.

Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời điểm giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:

Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời; hàng cây đứng tuổi ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất ngờ của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật mình, run rẩy vì tiếng sấm. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có giá trị tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc đời.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách dùng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài số 3
“Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu – thu mới về, thu chợt đến.

“Sang thu” thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.

Với thi sĩ Xuân Diệu thì tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn ngàn cây:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

(Đây mùa thu tới)

Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê được “‘phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió dịu.”

“Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt – Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm, về hương thơm lừng, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Vì gió thu “se” lạnh, nên hương ổi mới thêm nồng nàn phả vào đất trời và hồn người.

Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bằng Sơn, Nguyễn Đình Thi,… đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới…”

(Đất nước – Nguyễn Đinh Thi)

“Hương ổi” trong bài “Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.

Sau “hương ổi” và “gió se”, nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là “Sương thu lạnh… Khói thu xây thành” trong “Cám thu tiền thu” của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: “Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun” (Chinh phụ ngâm). Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng “chùng chình” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu về. Nếu các từ ngữ “bỗng nhận ra” biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận.

Chữ “se” vần với chữ “về” (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi: “Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ” (“Tức cảnh chiều thu” – Bà Huyện Thanh Quan). Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ… Chim bay “vội vã”, đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã” ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”:

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Hữu Thỉnh không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi,… mà lại dùng chữ vắt.

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo: cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo.

Khổ thơ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ – mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ, gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cậy và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm” và “hàng cây đứng tuổi là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài “Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Hữu Thỉnh viết bài thơ “Sang thu” vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.

“Sang thu” là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ “Từ chiến hào tới thành phô” xuất bản vào tháng 5/1985. Bao cảm xúc dâng đầy trong những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang… đầy thi vị.

Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Thơ ngũ ngôn trong “Sang thu” thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, lắng đọng và hồn nhiên. “Sang thu” là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài số 4

Vào cuối năm 1977, khi chiến tranh đã chấm dứt, hòa bình lập lại, trong một buổi chiều thu, ra ngoại thành Hà Nội, đến thăm một vườn ổi chín, hương vị dịu dịu… một chút ngỡ ngàng, một chút xao xuyến, Hữu Thỉnh tức cảnh sinh tình. Trong ánh nắng hoàng hôn vàng óng, bài thơ Sang thu ra đời. Hãy tưởng tượng ta đang cùng với nhà thơ đứng giữa vườn ổi mà ngâm nga bài thơ tuyệt vời của ông.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, cô đọng, súc tích. Cả bài thơ là giọng điệu nhẹ nhàng, đôi lúc trầm lắng suy tư. Bài thơ là sự rung động của hồn thơ trước thiên nhiên khi đất trời sang thu, một bức tranh giao mùa tuyệt đẹp.

Mở đầu bài thơ, người đọc có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”.

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Nhưng chính cái bất ngờ ấy mới thật nên thơ và đáng yêu trong một buổi chiều thu ở làng quê Bắc Bộ, nhà thơ đã chợt nhận ra điều gì? “Hương ổi phả vào trong gió se”. Vì sao lại là hương ổi chứ không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bức tranh mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu… nhưng Hữu Thỉnh thì không. Đứng giữa vườn ổi chín vàng, giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc với quê hương. Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận thật tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra những dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm, nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế?

Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút hơi lạnh, còn gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ “Phả vào trong gió se” mới độc đáo làm sao! Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bất chợt trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai nhận ra, thế mà Hữu Thỉnh đã bất chợt nhận ra và xao xuyến vì cái hương đồng gió nội ấy.

Không chỉ có hương ổi trong “gió se”, tiết trời sang thu còn có hình ảnh:

“Sương chùng chình qua ngõ”

Từ “chùng chình” gợi nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn tả sự cố ý đi chậm chạp của nó khi chuyển động. Nó bay qua ngõ, giăng mắc vào giậu rào, hàng cây khô trước ngõ xóm đầu thôn. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng thiếu nữ hay của một người con gái nào đấy. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự hay tâm trạng tác giả cũng “chùng chình”?

Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ: “Hình như thu đã về”.

“Hình như” không có nghĩa là không chắc chắn mà thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương Ổi chín thơm, vàng ươm nơi vườn tược đến cái duyên dáng yểu điệu của một làn sương cứ chùng chình không vội vàng trước ngõ, tác giả đã nhận ra sự chuyển mình nhẹ nhàng nhưng khá rõ rệt của thời tiết và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, yêu mùa thu gắn bó với cuộc sống nơi làng quê, của một người lính đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh. Nếu không phải là Hữu Thỉnh, liệu ta có cảm nhận được cái duyên hương thu, có được cái tâm trạng như nhà thơ không?

Dùng dằng hoa quan họ
Nở tím bên sông Thương
Nắng thu đang trài đẩy
Đã trăng non múi bưởi
Bến cần con nghé đực
Cả chiều thu sang sông?

(Chiều sông Thương)

Sang thu đậm chất dân gian làng quê dân dã, mang đậm hơi thở của ruộng đồng, nhưng vẫn rõ nét triết lí.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.

Mưa bớt dần, sấm mùa hạ ít đi khi sang thu, hàng cây không còn phải giật mình đột ngột. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng hai câu thơ còn có ý nghĩa hàm ngôn: “Sấm” là những âm vang, tiếng động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chính là những con người từng trải, đứng tuổi và họ sẽ vững vàng hơn trước tác động của ngoại cảnh.

Khi sáng tác Sang thu, Hữu Thỉnh cùng với dân tộc vừa trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Cuộc chinh chiến ấy như một mùa hạ oi ả, bức bối. Sống những năm tháng hòa bình, vào một buổi chiều thu êm ả thanh bình ở làng quê, tác giả cảm nhận sự thanh thản trong tâm hồn như “sông được lúc dềnh dàng” bởi trước kia dẫu muốn con người cũng chẳng thể dềnh dàng, chùng chình, cho nên dẫu có gặp sóng gió cuộc đời, tác giả vẫn “bình tĩnh chấp nhận đương đầu, không trở ngại nào đánh gục được”. Hai câu thơ chất chứa suy tư và trải nghiệm về con người và cuộc sống.

Nếu ở khổ 1, trạng thái cảm xúc của tác giả mới chỉ là “bỗng”, “hình như”, thì ở khổ còn lại, sự vận động của mùa thu đã được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của tạo vật:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”.

Vì sao sông thì “dềnh dàng” còn chim lại “vội vã”? Đây là những cảm nhận rất tinh tế và có cơ sở khoa học nhưng vẫn giàu sức biểu cảm. “Sông được lúc dềnh dàng” vì sang thu sông bắt đầu cạn, chảy chậm lại, không cuồn cuộn ào ạt như mùa hè, rất thư thả và chuyển động chậm rãi. Còn những đàn chim vội vã vì mùa hè chim trú mưa, ít có cơ hội kiếm mồi. Bây giờ sang thu khô ráo hơn, chúng tranh thủ đi kiếm mồi và trú rét ở phương Nam khi trời ấm áp. Hai hoạt động dường như có vẻ đối lập nhau, nhưng với lối nhân hóa, Hữu Thỉnh đã phả hồn người vào vật, tác giả đã làm cho con sông trở nên duyên dáng, gần người hơn, thể hiện một không gian đẹp, khơi gợi hồn thơ.

Dấu hiệu sang thu còn được miêu tả rất sinh động qua hình ảnh:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.

Đây là một liên tưởng sáng tạo, thú vị. Mây mùa hạ thường xám xịt, đen kịt tạo cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong vắt, xanh ngắt. “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến). Sự thật, không hề có đám mây nào như thế. Vì sao có sự phân chia rạch ròi, mắt nhìn thấy được trên bầu trời. Đó là đám mây trong liên tưởng, tưởng tượng của tác giả. Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ, cũng dềnh dàng, chùng chình, bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc cảm nhận không gian và thời gian lúc chuyển mùa mới đẹp làm sao! Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bài và tiêu biểu nhất của tiết trời sang thu.

Nhà thơ cảm nhận những biểu hiện nào khác của thời tiết khi chuyển hạ qua thu?

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”.

Đại từ phiếm chỉ “bao nhiêu” diễn tả số nhiều. Không đếm được. Làm sao đếm được nắng, nhưng tác giả cảm nhận rằng cuối hạ đầu thu đã bớt nồng nàn, oi ả, tia nắng đã bớt rực rỡ và những cơn mưa rào ào ạt cũng đã thưa dần, không chỉ vơi mà mưa cũng ít dần.

Hữu Thỉnh cũng đã có những câu thơ, đoạn thơ gần tứ thơ này nhưng không tài hoa, bất ngờ, thú vị bằng. Chẳng hạn:

“Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tối nao”

Sang thu là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thị triết lí, đã nối tiếp hành trình thơ thu dân tộc, góp một tiếng thu đằm thắm về mùa thu quê hương, đem đến cho chúng ta tình quê hương đất nước qua nét đẹp mùa thu Việt Nam.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Bài số 5.

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn, cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài “Sang thu” được ông sáng tác cuối năm 1977.

Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.

Không như những nhà thơ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: Hương ổi.

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

“Bỗng nhận ra” là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sững sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. Nhà thơ nhận ra tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi. “Phả” là một động từ mang ý tác động được dùng như một cách khẳng định sự xuất hiện của hơi thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ nhận ra, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngào ngạt, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những cảm xúc trong lòng người.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà nhà thơ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên chùng chình chưa muốn dời chân:

“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ láy tượng hình “chùng chình” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự dùng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “Chùng chình” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, chuyển động chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn nhà thơ? Một chút ngỡ ngàng, một chút bâng khuâng, nhà thơ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho nhà thơ giật mình thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất ngờ. Có lẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên.

Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội và
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Nếu ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: Thu đến thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Dòng sông không còn cuôn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thanh thản. Mọi chuyển động dường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là bắt đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể nhận ra sự bắt đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vửa mới chớm, rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng. Điểm nhìn của nhà thơ đuợc nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới bắt đầu vì thế mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì thế càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm.

Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được nhà thơ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ào ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất ngờ cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị.

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ “hàng cây đứng tuổi” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái đứng tuổi của cây chính là cái đứng tuổi của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã đứng tuổi. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những ngày tháng sôi nổi bồng bột của tuổi trẻ, để mở ra một mùa mới, một không gian mới thâm trầm, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang thu”, con người không còn bất ngờ trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Download file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-bai-tho-sang-thu-cua-huu-thinh-36173/feed 0
Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 5 (Đề số 1 đến đề số 5) https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-5-de-so-1-den-de-so-5-36481 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-5-de-so-1-den-de-so-5-36481#respond Fri, 23 Oct 2020 16:58:18 +0000 https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-5-de-so-1-den-de-so-5-36481

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
  3. Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương (Dàn ý + 14 Mẫu)
]]>
Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 5 (Đề số 1 đến đề số 5)

Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 5 (Đề số 1 đến đề số 5), Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 5 là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay

Tài Liệu Học Thi xin gửi đến quý thầy cô giáo cùng các em học sinh bộ sưu tập Bài Tập làm văn số 5 lớp 9 (từ đề 1 đến đề số 5) nhằm hỗ trợ cho việc dạy và học hiệu quả môn Ngữ văn lớp 9 của các thầy cô giáo và cùng các em học sinh. Bộ sưu tập những bài tập làm văn số 5 lớp 9 được tuyển chọn từ những cuộc thi học sinh giỏi môn văn trên toàn quốc. Những bài văn mẫu lớp 9 này sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới cho bài viết của mình. Sau đây, mời quý thầy cô giáo và các em cùng tham khảo.

Bài văn mẫu lớp 9 số 5 đề 1: Hãy nêu suy nghĩ của em về Bác Hồ kính yêu

Bài làm 1

“Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Suốt đời, Bác hi sinh cho độc lập, tự do…”.

Trên đây là câu hát tiêu biểu trong muôn ngàn câu hát, bài thơ ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

Đất nước Việt Nam tự hào về Bác Hồ bởi Bác chính là sự kết tinh những tinh hoa truyền thống của bản sắc dân tộc. Nhân dân ta đã thấy ở Bác Hồ con người Việt Nam đẹp nhất và nhân dân thế giới gắn liền tên nước Việt Nam với tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam – Hồ Chí Minh.

Với vai trò của một lãnh tụ cách mạng, Bác đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình đối với dân, với nước. Bác là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, cùng Đảng dẫn đường chỉ lối cho dân tộc vùng lên phá bỏ xích xiềng nô lệ thực dân, phong kiến, giành quyền sống tự do. Người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chủ quyền độc lập thiêng liêng. Nếu so sánh sự nghiệp đấu tranh chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc ta là một con tàu giữa đại dương đầy bão tố thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thuyền trưởng tài ba, sáng suốt, đã đưa con tàu vượt qua trùng trùng sóng gió, cập bến vinh quang.

Chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954 và chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã tôn vinh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất, tuy nhỏ bé mà đã đánh gục hai tên thực dân, đế quốc “khổng lồ” là Pháp và Mĩ. Việt Nam đã trở thành gương sáng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới noi theo.

Sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ vĩ đại như non cao, biển rộng nhưng Bác lại sống một cuộc sống vô cùng giản dị và tuyệt vời trong sáng. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Người dành hết cho nhân dân, cho Tổ quốc. Câu nói tâm huyết nếu rõ mục đích phấn đấu và lí tưởng cao cả của Bác Hồ đã làm rung động trái tim bao người: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành… Mục đích ấy, lí tưởng ấy là nguồn sức mạnh vô biên, thôi thúc Bác suy nghĩ, hành động và cống hiến cuộc đời mình cho dân, cho nước.

Nếp sống giản dị của Bác rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân. Bữa ăn chỉ vài món cá kho, rau luộc, cà muối… Chỗ ở là căn nhà sàn bằng gỗ đơn sơ, xung quanh là vườn cây, ao cá. Quan niệm sống của Bác là: Mình vì mọi người, cho nên Bác lấy cống hiến làm niềm vui, làm hạnh phúc của bản thân. Kính phục và yêu mến Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi: .

Bác sống như trời đất của ta,

Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa.

Tự do cho mỗi đời nô lệ,

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Như đỉnh non cao tự giấu hình,

Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh.

Bác mong con cháu mau khôn lớn,

Tiếp bước cha anh, tiến kịp mình.

(Theo chân Bác)

Đức tính khiêm tốn, giản dị của Bác đã trở thành huyền thoại. Sau khi Bác mất, căn nhà sàn Bác ở mở rộng cửa đón đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế đến thăm. Không ai là không xúc động trước những vật dụng gắn bó với Bác gần như suốt cuộc đời: chiếc máy chữ và chiếc đồng hồ cũ kĩ trên bàn làm việc, đôi dép lốp cao su mòn gót…

Giường mây, chiếu cói đơn chăn gối.

Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn…

Bác không bao giờ đòi hỏi điều kiện vật chất tối đa cho riêng mình. Ngược lại, Bác thanh thản, lạc quan trong cuộc sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư nhưng những gì Người để lại cho nhân dân, cho đất nước có thể sánh ngang với núi cao, biển rộng.

Nhận xét về Bác Hồ, nhà phê bình nghiên cứu văn học Quách Mạt Nhược của Trung Quốc viết: Hồ Chí Minh là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Với trí tuệ kiệt xuất, Bác đã: Hai tay xây dựng một cơ đồ. Đó là sự nghiệp cách mạng vẻ vang, ghi dấu son trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vì yêu nước, thương dân cơ cực, lầm than trong vòng nô lệ của thực dân, phong kiến nên Bác đã rời Tổ quốc, ra đi tìm đường cứu nước.

Tình nhân ái bao la là cội nguồn tư tưởng, là sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Bác trên con đường cách mạng:

Bác ơi tim Bác mênh mông thế,

Ôm cả non sông, mọi kiếp người

(Theo chân Bác – Tố Hữu).

Từ trong sâu thẳm tâm hồn, mỗi công dân Việt Nam đều nhận thấy rằng:

Người là Cha, là Bác, là Anh.

Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ

(Tố Hữu).

Trước lúc đi xa vào cõi vĩnh hằng, Bác viết trong Di chúc: Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng… Sự ra đi của Bác là một tổn thất lớn lao không gì bù đắp được. Bác đã hóa thân vào sông núi, biển trời… của đất nước Việt Nam mà Người hằng yêu dấu.

Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân thế giới yêu mến và khâm phục, còn kẻ thù cũng phải nghiêng mình kính nể bởi Bác Hồ là hiện thân sinh động nhất của truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm. Căm thù chiến tranh, yêu mến hòa bình, nỗ lực cống hiến cho một nền hòa bình, thịnh vượng của toàn nhân loại, những điều đó đã tạo nên sức cảm hóa, thuyết phục lớn lao của Bác. Bác Hồ đã được Hội đồng hòa bình thế giới phong cho danh hiệu cao quý là Chiến sĩ hòa bình, là Danh nhân văn hóa của nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại vinh quang cho đất nước Việt Nam dân tộc Việt Nam. Các thế hệ tiếp nối đã đi theo con đường cách mạng đúng đắn mà Bác đã dẫn đường chỉ lối, biến khát khao cháy bỏng của Người thành hiện thực: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh để sánh vai với các cường quốc khắp năm châu.

Bài làm 2

Có một con người mà khi nhắc đến tên, những người Việt Nam đều vô cùng kính yêu và ngưỡng mộ, đó là Hồ Chí Minh: vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.

Trước hết ta thấy Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Bác là người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận cứu nước đầy gian khổ, lãnh đạo dân ta tới chiến thắng, khai sáng nền độc lập tự do ở đất nước Việt Nam. Người bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường đi và tương lai cho đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi đói nghèo, đi lên xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp. Tư tưởng của Người có giá trị vô cùng to lớn đối với Cách Mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Người đã hy sinh cả cuộc đời vì nền độc lập tự do của dân tộc, Người yêu nước thương dân sâu sắc, bởi vậy triệu triệungười dân Việt Nam đều là con cháu của Người. Ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước nhưng cách đối xử của Bác đối với cá nhân từng người vô cùng thân mật và gần gũi:

“Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người.”

(Tố Hữu)

Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc Việt Nam lại có một vị lãnh tụ giản dị và gần gũi với mọi người như thế: Sống trong ngôi nhà sàn nhỏ, ăn những món ăn dân dã, mặc áo bà ba nâu và tư trang chỉ là một chiếc rương nhỏ và mấy bộ quần áo bạc màu… Có lẽ bởi vậy mà với người Việt Nam, Bác Hồ không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là vị lãnh tụ vĩ đại được mọi người dân Việt Nam kính yêu và ngưỡng vọng.

Bác Hồ còn được biết đến ở cương vị một danh nhân văn hoá thế giới. Bác dã từng là chủ bút tờ báo “Người cùng khổ” ở Pháp, đã từng viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”gây tiếng vang lớn. Người còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với những tập truyện ký bằng tiếng Pháp, “Tuyên ngôn độc lập” và “Nhật ký trong tù” cùng rất nhiều những vần thơ khác nữa…Bác Hồ đã từng đi khắp các châu lục trên thế giới, thông thạo nhiều thứ tiếng, am hiểu nền văn hoá của nhiều dân tộc. Bác đã rèn giũa và tạo dựng cho mình một phong cách riêng, kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, thanh cao và giản dị,giữa tinh hoa văn hoá nhân loại và tinh hoa văn hoá Việt Nam.

Mặc dù Bác đã đi xa nhưng trong lòng mọi người dân Việt Nam Bác vẫn là người đẹp nhất.

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.

Càng tìm hiểu về cuộc đời vĩ đại và cao đẹp của Bác,em càng kính yêu và tự hào về Bác hơn.Điều đó khơi dậy trong em mong muốn học tập, phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành con người có ích cho xã hội.

Bác là tinh hoa khí phách của dân tộc,cuộc đời của Bác là một tấm gương sáng. Bởi vậy mà chúng ta cần “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại ”.

Bài văn mẫu lớp 9 số 5 đề 2: Lấy nhan đề “Những người không chịu thua số phận”, em hãy viết bài văn nêu suy nghĩ của mình về những con người ấy

Bài làm 1

Người Việt Nam hay có câu “ số nó phải thế” quan niệm về số phận, thiện định không biết tự bao giờ đã ăn sâu vào tiềm thức. Vì thế, người Việt thường thiếu tính tự lập và hay ỉ lại. Nhưng có rất nhiều người do tạo hóa trêu ngươi đã phải mang trong mình số phận kém may mắn như thấy giáo Nguyễn Ngọc Kí bị hỏng tay, anh Hoa Xuân Tứ bị cụt tay, anh Đỗ Trọng Khơi bị bại liệt … Đã không chịu đầu hàng trước “ thiện mệnh” . Họ đã tự đứng lên từ trong gian khó để trở nhành những tấm gương sáng về lòng kiên trì, nghị lực và ý chí vươn lên.

Đã nhiều lần em tự hỏi mình có đủ hai tay, hai chân mà đôi khi làm việc còn vụng về vậy mà họ những con người không may chịu khiếm khuyết về hình thể lại có thể làm được những điều kỳ diệu như vậy.

Mỗi người họ sinh ra với những nỗi bất hạnh khác nhau, nhưng có một điểm chung chính là “không chịu đầu hàng số phận”. Họ đã biết vươn lên khẳng định mình là người có ích trong xã hội. Và người mà lớp lớp học sinh đều biết đến chính là người thầy Nguyễn Ngọc Ký.

Chắc có lẽ trong lịch sử giáo dục Việt Nam đây là người thầy đầu tiên soạn bài, chấm bài, viết văn … bằng đôi chân của mình. Đứng trước hàng triệu học trò thấy không chỉ truyền đi kiến thức của mình mà còn truyền đi cả ý chí mạnh mẽ vươn lên để trở thành một nhà giáo ưu tú.

Câu chuyện của thầy bắt đầu từ những năm 60,70 của thế kỷ trước. Khi miền Bắc đang trong giai đoạn xây dựng đất nước thì cái tên Nguyễn Ngọc Ký đã trở thành một câu chuyện mà ai ai cũng nhắc đến. Sinh ra trong một gia đình nghèo, đôi tay lại bị bại liệt, nhưng ý chí và niềm khao khát học chưa bao giờ nguội lạnh. Ngày ngày đứng cửa lớp nghe trộm cô giảng bài. Thấy từng kể lại rằng, ngày đó nhìn thấy đàn gà bới đất tìm thức ăn thấy liền nảy ra ý nghĩ sẽ dùng chân để viết. Nghĩ là làm cậu bé ký đã dùng chân kẹp gạch tập viết trên sân nhà. Sau này, khi cô giáo đến chơi đã mang theo cho em vài viên phấn để tập viết.

Thương cậu học trò hiếu học, lại kiên trì đến tập viết cô giáo để em theo học cùng chúng bạn. Cũng từ đây, cuộc đời của Ký đã rẽ sang một trang mới. Thầy đã nhiều năm liên đạt học sinh giỏi, đạt danh hiệu vợ sạch chữ đẹp, hai lần được Bác Hồ tặng huy hiệu.

Cũng nhờ thành tích học tập xuất sắc mà Thầy được tuyển thẳng vào khoa văn của trường đại học Tổng Hợp. Với nhiều sáng tác đặc sắc, trong lĩnh vực văn học cùng nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà thầy đã được phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú. Tấm gương và cuộc đời của thầy đã trở thành câu chuyện được in trong sách đạo đức của nhiều thế hệ học sinh. Như một tấm gương sáng về tính kiên trì không chịu đầu hàng số phận.

Và còn rất nhiều những tấm gương khác như anh Trần Văn Thước, không may bị tai nạn lao động khiến bại liệt toàn thân vẫn trở thành một nhà thơ. Hay trong những năm gần đây cái tên Nguyễn Công Hùng được nhiều người biết đến dưới danh hiệu Hiệp sỹ công nghệ thông tin. Sinh ra bị bại liệt từ nhỏ, thân hình gầy gò, tay chân teo tóp trọng lượng chỉ khoảng 12kg. Cùng với đó anh còn bị căn bệnh phổi hành hạ, nhưng vượt lên trên nghịch cảnh và số phận anh đã trở thành một chuyên gia tin học. Từ một người gần như mất hoàn toàn khả năng vận động danh đã được vinh danh Hiệp sỹ công nghệ thông tin vì những đóng góp cho cộng đồng của mình.

Không từ ngữ nào có thể tả được những khó khăn, những giọt nước mắt chống chịu với bệnh tật của họ. Nhưng vượt lên trên tất cả là tình yêu, niềm tin cuộc sống cùng với hoài bão, khát khao được sống được trở thành người có ích cho xã hội đã khiến họ chiến thắng mọi khó khăn.

Những con người không chịu thua số phận xứng đáng được mọi người yêu quý, và kính trọng cũng như yêu thương. Chúng ta hãy cùng nhau chung tay giúp đỡ, chia sẻ để những khó khăn vất vả của họ vơi đi. Cùng nhau làm nên một xã hội tốt đẹp ngập tràn yêu thương.

Bài làm 2

Tôi từng nghe câu nói này của Hellen Killer: “Tôi đã khốc khi không có giày để đi cho đến khi nhìn thấy một người không có chân để đi giày.” Cuộc sống là vậy đó, nỗi đau đớn và bất hạnh của bạn chưa phải là duy nhất, là lớn nhất bởi ngoài kia còn đầy rẫy những số phận bất hạnh khác. Nhưng điều làm nên sự khác biệt giữa những số phận ấy là gì. Phải chăng là một trái tim mạnh mẽ, ý chí sắt đá bản lĩnh kiên cường, nghị lực phi thường của “những người không chịu thua số phận”.

Cuộc sống là một cuộc đấu tranh bất tận. Đấu tranh với với người khác đấu tranh với chính mình. Bản chất cuộc sống vốn phong phú và phức tạp, không có điều gì dễ dàng cũng không có điều gì là khó khăn mãi mãi. Mỗi người đều óc những số phận riêng, môi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh. Nhưng những người không chịu thua số phận-những người sống không chỉ bằng đồ ăn, nước uống mà còn bằng ý chí, nghị lực, bản lĩnh và niềm tin sắt đá vào cuộc sống, là sự chiến thắng những gì nghiệt ngã, đớn đau nhất của số phận. Họ chứng tỏ với chúng ta rằng, con người có thể bị đánh bại nhưng không bao giờ bị tiêu diệt. Con người không chịu thua số phận chưa và không bao giờ bị quật ngã bởi hoàn cảnh, những cú giáng mạnh mẽ của cuộc sống đầy sóng gió.

Những người không chịu thua số phận sẽ luôn tìm thấy niềm tin, sự cố gắng mỗi ngày từ chính mảnh đất khô cằn họ phải trải qua. Họ tìm thấy trong đau thương niềm hạnh phúc, tìm thấy trong thất bại những thành công, tìm thấy trong bất hạnh những tia hi vọng, hạnh phúc dù là mong manh nhất. Người không chịu thua số phận luôn biết tìm cách vượt qua sự khó khăn cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần của mình để tìm lấy một mục đích, lí tưởng sống cho mình. Cuộc sống lắm khi đã phải ngả mũ bái phục họ, từ cách họ giành chiến thắng, từ cách họ bước lên vũ đài chiến đấu, từ cách họ có được hạnh phúc sau hành trình trải đầy gai hoa hồng. Hãy lấy Nick Vuijick làm minh chứng sống động. Từ nỗi thiệt thòi, bất hạnh của số phận tật nguyền, anh đã vươn lên trở thành một nhà diễn giả truyền lửa cho rất nhiều số phận bất hạnh khác. Đằng sau thành công của cầu thủ Công Phượng là những khó khăn, những giọt mồ hôi, nước mắt đã rỏ xuống sân cỏ để tỏa sáng khẳng định tài năng chuyên nghiệp của mình, sau những lần bị từ chối vì quá gầy còm, ốm yếu, gia đình khó khăn mẹ anh đã phải đèo anh mấy chục cây số để thoả niềm đam mê sân cỏ của Phượng. Nhờ những ý chí, niềm tin và niềm đam mê mãnh liệt, giờ đây Công Phượng được coi là messi của Việt Nam. Đó chẳng phải là những người không chịu thua số phận đó ư.

Từ những tấm gương ấy, chúng ta thêm tình yêu bát ngát vào cuộc sống, vào con đường gian nan lắm gai hoa hồng mà chúng ta đang bước qua. Ta càng thấy cảm phục và mến một nghị lực của họ vì những điều họ đã đang và sẽ trải qua. Họ giống như những con người phi thường bay lên nhờ đôi cánh to khỏe dưới bầu trời cao rộng của chính mình. Chính tình yêu mãnh liệt và niềm tin tưởng bát ngát của họ vào cuộc sống đã khiến trái tim ta càng sục sôi tinh thần vượt khó. Ta có thể sống giữa cuộc đời đầy sóng gió ấy sao nếu ta không có một bản lĩnh, ý chí, nghị lực thép? Có thể ta thích cuộc sống an toàn, nhưng sự an toàn sẽ gây ra cảm giác êm ái, chán nản và rồi tự buông thả mình. Đôi khi trong những khó khăn, bất hạnh ta nhìn thấy được những vì sao đôi khi ta cũng cần tri ân những thiếu hụt trong cuộc sống.

“Nếu bạn sinh ra trong nghèo khó thì đó không phải là lỗi của bạn, nhưng nếu bạn chết trong nghèo khó thì đó là lỗi của bạn”. Vậy nên để không phải chết trước sự yếu hèn và khinh bỉ của những khó khăn hãy vượt lên số phận, chiến thắng hoàn cảnh bản thân để tìm thấy mình và khẳng định mình. Hãy sống như những đóa hoa, tỏa rạng dưới ánh mặt trời.

Bài văn mẫu lớp 9 số 5 đề 3: Hãy nêu suy nghĩ của em về hiện tượng Việt Nam đạt được nhiều thành tích cao trong các cuộc thi quốc tế

Bài làm 1

Thanh thiếu niên ngày nay là thế hệ tương lai là thành phần chính quyết định lên một đất nước phát triển như thế nào. Hiểu được điều đó, Việt Nam chúng ta luôn luôn chú trọng vào văn hóa, giáo dục, học tập. Mặc dù điều kiện kinh tế hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển, nhưng đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế về toán, lí, ngoại ngữ,… Năm 2004, sinh viên Việt Nam lại đoạt giải vô địch cuộc thi Robocon châu á tại Hàn Quốc. Đó là điều đáng tự hào của mỗi chúng ta

Trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm bắc thuộc ,điều kiện kinh tế của Việt Nam hạn chế , cơ sở vật chất chưa phát triển vậy mà đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế. Ngay từ những kì thi đầu tiên trên trường quốc tế, Việt Nam đã khẳng định mình là một đất nước hiếu học qua thành quả đạt được trong kì thi: tham dự thi toán quốc tế năm 1974 ,Việt Nam đã đoạt liền 4 huy chương vàng, hay lần thi Olimpic Toán quốc tế tại Anh , Lê Bá Khánh Trình với số điểm tuyệt đối 40/40 đã được nữ hoàng Anh trao giải đặc biệt. Ngay cả trong lĩnh vực mới mẻ là chế tạo Rôbôcon, năm 2004 Việt Nam vinh dự chiến thắng cả những đất nước vốn có nền công nghệ phát triển như Nhật Bản , Hàn Quốc ,Trung Quốc để mang về chiếc cúp vàng cho quê hương Việt Nam … Qua đó ta thấy được tinh thần hiếu học của cả một dân tộc đó chính là niềm tự hào của đất nước sự khẳng định cho sức mạnh của trí tuệ Việt Nam.

Thật vậy, Việt Nam là một đất nước có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Lịch sử lâu đời đã chứng minh điều đó. Ngay từ những ngày đầu xây dưng đất nước, những người đúng đầu một nước đã nhận ra tầm quan trọng của nền giáo dục ảnh hưởng đến sự phát triển thịnh vương, suy tồn của cả một đất nước. Trường học được mở rộng rãi, các cuộc thi tìm kiếm những người tài cống hiến cho tổ quốc ra đời. Đăc biệt là dưới triều đại nhà Lê, thi cử được chú trọng nên mở rất nhiều khoa thi, có tới 1780 tiến sĩ, và 27 trạng nguyên. Tiếp đến những tháng ngày đất nước chìm trong bóng tối, bóng tối của sự đói nghèo, của sự áp bước đô hộ của thế lực bên ngoài, thế nhưng con người Việt Nam không ngừng phấn đấu cố gắng hết mình học tập và rèn luyện. Những năm đói nghèo nhất của lịch sử, Bác Hồ đã kêu gọi, cùng toàn dân chống giặc dốt giặc đói. Bác hiểu được rằng cái chữ, cái học quan trọng như thế nào đối với cuộc sống của người dân. Đất nước nghèo nàn,lạc hậu nên nếu các bạn nước khác cố gắng một thì học sinh-sinh viên Việt Nam phải cố gấp hai ba lần để bù đắp những thiếu hụt ,thiệt thòi vể điều kiện học tập. Dường như chính sự nghèo nàn lạc hậu của đất nước đã hun đúc ý chí tìm tòi, sáng tạo của học sinh Việt Nam. Hiếu học giúp đào tạo cho đất nước nguồn nhân lực tài năng sáng tạo. Hiếu học, học tập những tri thi của nhân loại áp dụng vào thực tiễn phát triển đát nước toàn diện, sánh vai cường quốc năm châu, tự hào bạn bè quốc tế.

Trong cuộc sống chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những câu chuyện về lòng hiếu học. Nếu nhắc đến tâm gương xa xưa, chúng ta không thể không nhắc đến Nguyễn Hiền- cậu học trò nhỏ hiếu học trở thành trạng nguyên khi mới 13 tuổi, hay như Cao Bá Quát, Lương Thế Vinh,…. Hay như ngày nay chúng ta có thể biết đến rất nhiều như cậu bé thần đồng Nguyễn Ngọc Nam mới 13 tuổi, thành tích của Nhật Nam đạt được vượt xa khả năng của người lớn. Em là tác giả, dịch giả trẻ tuổi nhất Việt Nam với nhiều tác phẩm như: Tớ đã học tiếng Anh như thế nào, Tôi tư duy, tôi thành đạt, Những con chữ biết hát. Cậu bé này còn đạt 8.0 IELTS và TOEFL IBT 107/120 điểm.

Trong cuộc thi hùng biện tiếng Anh Wordstorm, Nhật Nam đã “hạ gục” bốn sinh viên và giành giải nhất.

Bên cạnh những con người hiếu học, cố gắng hết mình đạt được thành công để góp một phần sức lực của mình đối với đất nước, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều những con người lười nhác, chểnh mảng học hành, học như chơi, không nghiêm túc tập trung,… dẫn đến kết quả kém, học chống đối, học cho có. Những còn người đó cần nhìn lại chính mình, nhìn nhậ lại bản thân, và ý nghĩa cuộc sông của mình để có thể hoàn thiện bản thân, cố gắng hết sức mình vì bản thân, gia đình, xã hội

Lòng yêu nước,nỗi khát khao quê hương xứ sở đẹp giàu, là sức mạnh to lớn giúp học sinh -sinh viên Việt Nam đạt tới những chân trời khoa học. Những tấm huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế mà chúng ta có được không chỉ bởi sự nỗ lực của cá nhân mà còn nhờ sự quan tâm chăm sóc của gia đình , của thầy cô và nhất là sự chăm lo của Đảng ,nhà nước đối với tài năng trẻ . Bởi lẽ tự ngàn xưa, người Việt Nam ta đã quan niệm “hiền tài là nguyên khí của quốc gia ”. Chính vì thế chúng ta cần nỗ lực cố gắng hết mình, ra sức rèn luyện, học tập thật tốt để không phụ sự kì vọng của mọi người, công ơn dậy dỗ thầy cô và hơn hết là chính bản thân mình để bản thân mình có thể cống hiến phần nào vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.

Sự thành công của học sinh -sinh viên Việt Nam đã đem đến cho người Việt Nam và bản thân em lòng tin và niềm tự hào sâu sắc về trí tuệ Việt Nam ,thôi thúc trong em khát vọng được chinh phục những chân trời tri thức. bản thân mình, từ đó góp phần xây dựng đát nước giàu đẹp, phát triển.

Bài làm 2

Trên bản đồ thế giới Việt Nam chỉ có một vị trí rất khiêm tốn, nhưng trong các kỳ thi quốc tế, Việt Nam được biết đến như là quê hương của những người con ưu tú, biết vượt qua khó khăn để làm nên những điều kỳ diệu.

Trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm bắc thuộc, điều kiện kinh tế của Việt Nam hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển vậy mà đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế. Không mấy ai không nhớ lần đầu tiên tham dự thi toán quốc tế năm 1974, Việt Nam đã đoạt liền 4 huy chương vàng. Lần thi Olimpic Toán quốc tế tại Anh, Lê Bá Khánh Trình với số điểm tuyệt đối 40/40 đã được nữ hoàng Anh trao giải đặc biệt. Ngay cả trong lĩnh vực mới mẻ là chế tạo Rôbôcon, những chú rôbôt của nhóm FXR-sinh viên Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh đã xuất sắc vượt trên cả những đất nước tên tuổi như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để mang về chiếc cúp vàng cho quê hương Việt Nam…

Những thành tích ấy không chỉ làm rạng danh đất Việt mà còn là sự khẳng định cho sức mạnh của trí tuệ Việt Nam. Tại sao một đất nước nhỏ bé nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể sản sinh ra những con người ưu tú đến thế? Câu hỏi ấy không chỉ người Việt Nam mới biết rõ câu trả lời. Suốt chiều dài thăng trầm của lịch sử, lòng ham hiểu biết, ý chí học tập, tìm tòi, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức luôn được nung nấu trong trái tim mỗi người Việt Nam.

Tự thuở xưa, bằng ánh sáng của những con đom đóm, Mạc Đĩnh Chi đã miệt mài học tập để trở thành lưỡng quốc trạng nguyên, Nguyễn Hiền nhờ tự học mà đoạt giải khôi nguyên khi mới 12 tuổi, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh và biết bao người nữa đã làm nên truyền thống hiếu học của nước nhà… Họ đã trở thành tấm gương, thành nội lực tinh thần để học sinh – sinh viên Việt Nam cố gắng hết mình, cần cù say mê học tập.

Đất nước nghèo nàn, lạc hậu nên nếu các bạn nước khác cố gắng một thì học sinh – sinh viên Việt Nam phải cố gấp hai ba lần để bù đắp những thiếu hụt, thiệt thòi vể điều kiện học tập. Dường như chính sự nghèo nàn lạc hậu của đất nước đã hun đúc ý chí tìm tòi, sáng tạo của học sinh Việt Nam. Lòng yêu nước, nỗi khát khao quê hương xứ sở đẹp giàu, là sức mạnh to lớn giúp học sinh – sinh viên Việt Nam đạt tới những chân trời khoa học.

Những tấm huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế mà chúng ta có được không chỉ bởi sự nỗ lực của cá nhân mà còn nhờ sự quan tâm chăm sóc của gia đình, của thầy cô và nhất là sự chăm lo của Đảng, nhà nước đối với tài năng trẻ. Bởi lẽ tự ngàn xưa, người Việt Nam ta đã quan niệm “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Sự thành công của học sinh – sinh viên Việt Nam đã đem đến cho người Việt Nam và bản thân em lòng tin và niềm tự hào sâu sắc về trí tuệ Việt Nam, thôi thúc trong em khát vọng được chinh phục những chân trời tri thức.

Bài văn mẫu lớp 9 số 5 đề 4: Hãy nêu suy nghĩ của em về hiện tượng vứt rác thải ra nơi công cộng.

Bài làm 1

Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề bức thiết đối với toàn nhân loại. Việc vứt rác bừa bãi có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống. Nhưng đây lại là một hiện tượng rất phổ biến hiện nay, đươc biểu hiện rõ nhất ở những nơi công cộng.

Hiện tượng vứt rác bừa bãi xuất hiện ngày càng nhiều, từ nơi học tập, làm việc cho đến các địa điểm nổi tiếng. Ra ngoài đường phố, ta dễ dàng bắt gặp những người phát tờ quảng cáo. Sẽ không có gì đáng nói nếu như họ không phát một cách tràn lan, bừa bãi, khiến mặt đường chỉ sau vài phút đã tràn ngập giấy rác. Cũng có nhiều người vừa đi đường vừa ăn uống rồi tiện tay vứt vỏ, hộp xuống đường. ngay cả công viên- nơi được coi là có bầu không khí trong lành, giúp con người có những giây phút thư giãn cũng không tránh khỏi nguy cơ ô nhiễm.

Thật đáng buồn khi ta ngồi trên ghế đá và thấy bã kẹo cao su được nhét vào khe, váo mặt sau của ghế. Đến thăm các danh lam thắng cảnh, ta cũng thấy đâu đâu cũng rác tràn ngập. Hồ Gươm, Hồ Tây… rác nổi lềnh bềnh do người dân xả ra, du khách ném xuống, đặc biệt là trong các dịp lề Tết. Sông Tô Lịch mạt nước đen ngồm, bốc mùi hôi hối do giấy rác, thậm chí là xác súc vật mà những người vô ý thức đã ném xuống. Thật khó để tin được con sông ấy xưa kia đã được ca ngợi: “Bên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.” Học sinh chúng ta cũng không ít lần đã từng vứt rác bừa bãi.

Ở trường, lớp các thầy cô giáo nhắc nhở nhưng dường như không có tác dụng hoặc nếu có cũng chỉ thực hiện trong trường, khi ra ngoài xã hộ i- một phạm vi lớn hơn, không ít bạn đã quên mất điều này. Việc vứt rác bừa bãi gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và đời sống của co người. Sông, hồ vì rác phủ khắp nên không thể chảy được. Nguy hiểm hơn nếu người dân đem xác súc vật ném xuống đố sẽ là mầm mống của nhiều dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh về đường hô hấp. Đường phố cũng trở nên mất mĩ quan khi mà nơi đâu cũng thấy rác. Hình ảnh đất nước Việt Nam xinh đẹp sẽ không gây được thiện cảm với bè bạn quốc tế bởi các địa điểm du lịch không có được môt khung cảnh xanh- sạch- đẹp. Còn du khách quốc tế nhiều người vẫn “nói vui”: du lịch Việt nam có bốn chữ “b”: “bụi”, “buồn”, “bám”và nhất là “bẩn”. Điều này cho thấy du lịch Việt Nam đang ngầy càng mất điểm trong mắt thế giới nếu hiện tượng trên vẫn cứ tiếp tục. Không chỉ có vậy, hàng năm nhà nước ta đã phải bỏ ra một khoản tiền không nhỏ đẻ nạo vét đường cống sau những trận mưa lũ, nước sông tràn vào mang theo rác thải. như vậy vứt rác bừa bãi gây hại đến sức khỏe và thiệt hại về kinh tế.

Chắc hẳn nhiều người sẽ thắc mắc: vứt rác bừa bãi ảnh hưởng xấu như thế vậy tại sao người dân lại vẫn tiếp tục làm. Có lẽ nguyên nhân khách quan là do hệ thống thùng rác chưa được bố trí hợp lí, để tìm được một chiếc thùng rác trên tuyến phố lớn nhiều khi cũng rất khó khăn. Nhưng chủ yếu vẫn là do ý thức của con người. Đối với các em nhỏ, các em có thể chưa ý thức đươc việc mình làm, các em chỉ bắt chước, làm theo người lớn. Vậy nên không thể phủ nhận ngườ dân Việ Nam chưa có ý thức giữ gìn moi trường. phần lớn đều dùn đâu vứt đấy trong khi thùng rác có thể chỉ cách vài bước chân. Cũng co người luôn giữ trong mình ý nghĩ vị kỉ, chỉ lo giữ cho nhà mình, nơi mình làm việc sạch sẽ, ra ngoài đường thì thẳng tay vứt rác.

Vậy trước thực trạng đáng lo trên, chúng ta cần phải làm gì? Đầu tiên và quan trọng nhất là nâng cao ý thức của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Kĩ năng thức tế, biết áp dụng những điều đã học vào việc giữ gìn môi trường cần được chú trọng hơn là việc học nhiều lí thuyết như hiện nay.Và có lẽ để khắc phục hiện tượng vứt rác bừa bãi các cơ quan chức năng nên đề ra chế tài xử phạt nghiêm khắc như ở nhiều nước bạn, có thế người dâ mới chủ động chấp hành. Tuy nhiên cũng có rất nhiều tín hiệu vui, ngà càng có nhiều chương trình tuyên truyền ý thức được phổ biến, đâu đó trên các con phố ta vẫn thấy thấp thoáng màu áo xanh tình nguyệ đi dọn dẹp đường phố, vớt rác ở sông hồ. Đấy là những hành động đệp mà chúng ta cần noi theo.

Để môi trường trở nên sạch đẹp, xã hội ngày càng văn minh, mỗi người phải nhận thức được trách nhiệm của mình đối với viêc bảo vê môi trường. Ngay từ những hành động nhỏ nhất như ngăn chặn thực trạng vứt rác bừa bãi, ta đã góp phần vào việc bảo vệ môi trường xung quanh.

Bài làm 2

Cùng với sự thành công thái quá của con người trong lĩnh vực công nghiệp – dịch vụ, khoa học kĩ thuật thì nó cũng gây áp lực cho vấn đề môi trường của thế giới. Ở Việt Nam, bên cạnh những vấn đề nhức nhỗi như hiện tượng xả nước thải trực tiếp ra sông suối, khai thác sa khoáng làm ô nhiễm nguồn nước,… còn có một hiện tượng phổ biến làm ô nhiễm môi trường, đó là vứt rác bừa bãi. Có những người ngồi bên hồ chỉ là hồ đẹp nổi tiếng, người ta cũng tiện tay vứt rác xuống.

Xả rác bừa bãi là thói quen của nhiều người. Trong trường học, nhiều học sinh sau khi ăn quà không để rác vào sọt mà vứt lung tung trên sàn lớp, sân trường. Nhiều túi ni lông, giấy thải bay tứ tung nhìn rất bẩn và khó chịu. Ở một số gia đình, khi có xe đổ rác thì không mang rác ra xe mà khi xe đi qua rồi lại vứt ở góc tường, trước ngõ hay gần nơi họ sống. Một số người đi xe gắn máy, xe buýt, ô tô,… Sau khi dùng thứ gì đó thì vứt luôn vỏ đựng xuống lòng đường. Hay một số người ăn kém, uống nước ngọt bên đường sẵn sàng vứt luôn que kem vỏ chai gần nơi họ ngồi… Và còn biết bao người thiếu ý thức bảo vệ môi trường. Họ vứt rác bừa bãi thành thói quen, xả rác bừa bãi nơi công cộng, đường phố.

Vậy, nguyên nhân của hành động thiếu văn hóa này xuất phát từ đâu? Khách quan, có thể thấy việc tuyên truyền, giáo dục ý thức cho người dân của các cơ quan chuyên trách đối với việc bảo vệ môi trường chưa thực sự cao. Các qui định xử phạt lại thiếu và chưa thật nghiêm khắc. Về chủ quan, ta thấy rất nhiều người không có ý thức bảo vệ môi trường tiện tay thì vứt, cốt sao sạch nhà mình, còn ngoài đường ra sao thì kệ. Họ đâu ý thức rằng những việc làm tưởng như rất bình thường, đó lại có tác hại lớn thế nào đến môi trường sống của chính họ và những người xung quanh.

Vứt rác bừa bãi gây ra hậu quả vô cùng lớn. Hành động này làm xấu cảnh quan thiên nhiên gây mất mĩ quan đường phố. Nguy hại hơn, nó làm cho môi trường sống của chúng ta lại ô nhiễm: Vứt rác ra sông hồ làm ô nhiễm nguồn nước, chôn rác không phân hủy làm ô nhiễm đất, làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm tầm nhìn,…Gây ảnh hưởng xấu đến các loài sinh vật chứ không kể riêng con người. Sức khỏe của con người suy giảm, dễ mắc các bệnh về hô hấp, về tiêu hóa, ung thư,…Các loại sinh vật sống ở biển, hồ sẽ chết vì nuốt phải rác không phân hủy, chết vì nguồn nước quá ô nhiễm gây hoang mang cộng đồng.

Bởi vậy, chúng ta phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng này. Ở Sing-ga-po, những người vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng dù là rác rất nhỏ như mẩu thuốc lá hay vỏ kẹo cao su,…Cũng bị phạt rất nặng. Đó chính là một kinh nghiệm mà đất nước ta cần học tập. Cần có những hình thức xử phạt thật nghiêm hành động này. Bên cạnh đó, các ban ngành chính quyền, các cơ quan chức năng, đoàn thể,…Cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho người dân để họ không vứt rác bừa bãi. Mặt khác chúng ta cần tích cực trồng cây xanh, phủ đồi trọc giữa môi trường Xanh – Sạch – Đẹp.

Tóm lại, vứt rác bừa bãi là hành vi thể hiện trình độ văn hóa của mỗi người – Để không bị đánh giá là vô văn hóa, giữ gìn vệ sinh trong sạch, chúng ta nên vứt rác đúng chỗ.

Bài văn mẫu lớp 9 số 5 đề 5: Em hãy nêu suy nghĩ về hiện tượng lạm dụng Internet của học sinh, sinh viên thời nay

Bài làm 1

Trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, thì internet dường như là một thứ không thể thiếu. Nhưng việc lạm dụng internet quá mức đã trở thành một mặt tiêu cực của internet.

Internet là một phương tiện tuyệt vời. Nó là một thành tựu khoa học công nghệ hữu ích đối với con người. Internet có rất nhiều mặt tích cực. ví dụ như nó là một công cụ để con người cập nhật tin tức, thông tin liên quan đến công việc cũng như cuộc sống của họ. Không chỉ là cập nhật thông tin mà nhờ có internet con người có thể liên lạc với nhau mà không cần lo ngại khoảng cách cũng như điều kiện khí hậu. Mọi người có thể nhìn thấy nhau, nói chuyện, chia sẻ với nhau mà không cần lo lắng những điều kiện khách quan không cho phép. Internet còn rất nhiều điểm mạnh. Tuy nhiên cũng chính vì những điểm mạnh ấy mà đã dẫn đến hiện tượng nghiện internet đặc biệt là trong giới trẻ. Nghiện internet là hiện tượng con người dành qua nhiều thời gian sử dụng internet. Nghiêm trọng hơn, họ còn coi internet là thứ không thể thiếu, là quan trọng nhất hơn cả những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày như ăn, ngủ, nghỉ,… Tại sao nghiện internet lại là một hiện tượng xấu? Một ngày mỗi người có 24 giờ để làm việc và sinh hoạt. Nhưng 24 giờ đó, chúng ta đã mất 12 giờ để ăn, ngủ, sinh hoạt. Còn 12 giờ còn lại để làm việc. Tuy nhiên nếu bạn nghiện internet thì thời gian bạn làm việc thực sự rất ít có thể là bằng 0. Điều đáng nói là đa số người nghiện internet là học sinh sinh viên. Thời gian học tập ở trường thường là cả ngày rồi, vì vậy nếu nghiện, họ sẽ không có thời gian để tập trung vào việc học của mình. Ai cũng biết chỉ học ở trường thôi thì không đủ để bạn lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ.

Theo một nghiên cứu cho rằng, việc học trên lớp chỉ có thể giúp học sinh tiếp thu được tối đa 5% kiến thức, còn lại là nhờ vào việc học tập ở nhà. Nếu nghiện internet, tôi dám chắc bạn sẽ không bao giờ có thể học tốt được. Không chỉ ảnh hưởng lớn đến việc học, nghiện internet còn có hại cho sức khỏe của người sử dụng. Dành quá nhiều thời gian cho việc ngồi trước màn hình máy tính không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người dùng. Theo một nghiên cứu cho rằng 45% stress là do ngồi trước màn hình máy tính quá lâu. Không chỉ bị căng thẳng, người dùng còn có một số triệu chứng khác như trầm cảm , tự kỷ… Không chỉ thế một số bệnh lý khác cũng có thể xảy ra. Sức khỏe của người nghiện internet sẽ bị đe dọa nếu tình trạng này diễn ra quá lâu mà không có sự biến chuyển. Ngoài sức khỏe, học tập, công việc, nghiện internet còn ảnh hưởng đến kinh tế của bạn. Số tieefn bạn phải bỏ ra để phục vụ cho nhu cầu sử dụng internet của mình không phải là nhỏ. Kéo dài sẽ khiến kinh tế bị kiệt quệ một cách nhanh chóng. Bản thân internet không hề gây nghiện mà là những ứng dụng của nó. Như những trò chơi giải trí, trang mạng xã hội. Việc bỏ ra hàng giờ để lướt facebook, zalo, instagram… là điều thường thấy trong giới trẻ. Việc đắm chìm trong các trang mạng xã hội dẫn tới cụm từ rất quen thuộc: “sống ảo”. Vâng, chắc hẳn ai cũng biết cụm từ này. Căn bệnh này đã được đề cập bởi không ít bài báo cũng như truyền hình. căn bệnh sống ảo đang trở thành thực trạng lớn của giới trẻ hiện nay. Việc lạm dụng internet đã trở thành mối nguy hiểm lớn đối với xã hội. Không chỉ trong bộ phận giới trẻ mà những ngời lớn tuổi hơn cũng xảy ra hiện tượng này. Nhưng giới trẻ là một lực lượng lao động mới sau này, là bộ phận quyết định phần lớn tới sự phát triển của đất nước sau này. Chính vì vậy, nghiện internet thực sự là một vấn đề đáng được quan tâm, và việc giảm thiểu tình trạng này cũng là cấp thiết. Trước hết để nghiện internet được giảm thiểu thì ý thức của giới trẻ về vấn đề này phải được nâng cao. Giới trẻ phải hiểu được thế nào là đủ với inernet, và sử dụng như thế nào là hợp lý. Có được như vậy, những tích cực, lợi ích mà internet đem lại mới được khai thác một cách tốt nhất. Bởi internet nếu sử dụng đúng cách, nó sẽ là công cụ hỗ trợ con người phát triển không chỉ trong công việc mà còn là đời sống tinh thần. Để làm được điều đó, việc giáo duc và tuyên truyền về sử dụng internet không bao giờ là thừa thãi. Không chỉ nhà trường mà gia đình cũng cần có những biện pháp phù hợp để giáo dục thế hệ trẻ. Ý thức tự giác sẽ được hình thành nếu ta biết cách gây dựng nó.Chính vì thế mà những yếu tố khách quan tác động luôn là cần thiết. Những quán nét, quán game cần phải được quản ký chặt chẽ theo qui định của pháp luật. Chúng ta cần thắt chặt quản lý và nghiêm túc hơn trong vấn đề này. Bởi lẽ nếu chỉ từ phía chủ quan là ý thức của người dùng thì việc hạn chế, đẩy lùi tình trạng nghiện internet thực sự quá khó khăn. Những thói xấu rất dễ nhiễm vào tâm trí của con người nhưng ngược lại thói quen tốt, tích cực thì cần thời gian, cần quá trình rèn luyện. Cho nên để đạt được kết quả cao nhất, cần phải có sự kết hợp, phối hợp giữa các bên trong vấn đề này.

Internet không phải là xấu. Nó xấu bởi cách con người sử dụng và khai thác nó. Hãy để nó trở nên tích cực trong mắt mọi người. Giới trẻ hãy thức tỉnh, bớt sống ảo. Hãy rèn luyện cho tương lai sắp tới của bạn. Đừng đắm chìm mãi vào thế giới game, trang mạng xã hội, hãy biết lo cho cuộc sống của bản thân mình. Không đoạn đường nào dẫn tới thành công mà ngọt bùi trong nhung lụa. Cũng không có đoạn đường nào quá gập ghềnh không thể vượt qua. Điều quan trọng là ý chí của bạn, niềm tin của bạn. Đừng để niềm tin chết yểu để đổi lấy những tháng ngày đắm chìm trong những thứ không đáng.

Bài làm 2

Internet – nơi hội tụ các nguồn thông tin trở thành thế giới thu nhỏ được mọi người đặc biệt quan tâm, nhất là các bạn học sinh, thanh niên. Trên Internet có rất nhiều thể loại giải trí khác nhau làm cho nhiều bạn trẻ lạm dụng dẫn đến tình trạng nghiện ngập và trở thành vấn đề nóng mà mọi người vô cùng bức xúc.

Nghiện Internet là lạm dụng quá mức, sử dụng vô tổ chức ở mọi lúc mọi nơi, không làm chủ bản thân, bỏ cả ăn uống, nghỉ ngơi, học hành mà sa đọa trong thế giới hư ảo.

Có rất nhiêu nguyên nhân dẫn đến nghiện Internet nhưng chủ yếu là do bản thân các bạn trẻ chưa nhận thức được mặt trái của Internet, còn ham chơi, tò mò, hiếu động, muốn chứng tỏ bản thân với người xung quanh. Các bậc phụ huynh chưa quản lí chặt chẽ con em mình, còn thiếu sót trong vấn đề giáo dục con cái. Nhà nước và chính quyền địa phương không quản lí các tiệm Net, để mặc các chủ tiệm mở cửa sát bên trường học và mọc lên ngày càng nhiều.

Trong xã hội đang phát triển và hội nhập, chúng ta không thể phủ nhận tiện ích mà Internet mang lại,Internet trở thành từ điển sống của tất cả mọi người. Nhờ Internet, con người có thể tra cứu tài liệu, cập nhật thông tin hàng ngày, hàng giờ mà không mất thời gian, công sức; là công cụ làm việc đối với một số ngành công nghệ thông tin; cung cấp các thể loại giải trí như phim, âm nhạc, trò chơi,… Nhưng bên cạnh đó có không ít tác hại do việc quá lạm dụng của các bạn học sinh, thanh niên. Ngoài những thông tin hữu ích, Internet còn chứa rất nhiều những thông tin mang tính chất đồi trụy; các trò chơi giải trí bạo lực khiến nhiều bạn trẻ nghiện bỏ rơi cuộc sống thực tại. Từ đó tệ nạn xã hội cũng xảy ra nhiều hơn như giết người, trộm cắp để thỏa cơn nghiện… Rất nhiều bạn mắc bệnh hoang tưởng từ những trò chơi khiến gia đình vô cùng lo lắng, xã hội vô cùng bức xúc. Có thể nói Internet cũng là nguyên nhân dẫn đến suy thoái đạo đức con người.

Bởi vậy, mỗi chúng ta hãy biết tự trang bị kiến thức về Internet cho bản thân để tránh tình trạng nghiện ngập. Các bậc phụ huynh, nhà nước, chính quyền, đặc biệt là trường học phải quan tâm, quản lí, giáo dục các bạn trẻ tránh xa những tư tưởng không lành mạnh, giúp đỡ người nghiện ngập quay về thế giới thực, không để họ mãi chìm đắm trong cái thế giới hư vô có thể giết người này.

Trong mỗi chúng ta, ai cũng xứng đáng được hưởng những điều tốt đẹp của cuộc sống, ai cũng có quyền thả mình vào Internet nhưng đừng lạm dụng nó, phải biết chắt lọc, biết dừng lại đúng lúc trước khi biến thành con nghiện.

“Hãy để chúng ta làm chủ Internet và đừng bao giờ để Internet điều khiển chúng ta”.

Tài liệu vẫn còn, mời các bạn tải về để xem tiếp

]]>
https://quatangtiny.com/bai-tap-lam-van-mau-lop-9-so-5-de-so-1-den-de-so-5-36481/feed 0
Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu https://quatangtiny.com/phan-tich-truyen-ngan-ben-que-cua-nguyen-minh-chau-37176 https://quatangtiny.com/phan-tich-truyen-ngan-ben-que-cua-nguyen-minh-chau-37176#respond Fri, 23 Oct 2020 16:20:14 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-truyen-ngan-ben-que-cua-nguyen-minh-chau-37176

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Phân tích truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Dàn ý + 16 mẫu)
  3. Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân
]]>
Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu

Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu, Xin giới thiệu đến các bạn bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu được chúng tôi tổng

Nhằm đem đến cho các bạn có thêm nhiều tư liệu kham khảo, Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các em 3 bài văn mẫu Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu. Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu là bài văn mẫu trong chương trình môn Ngữ Văn lớp 9. Đây là tài liệu hữu ích, giúp các em có thêm nhiều ý tưởng, gợi ý cho việc hoàn thiện bài văn tả của mình. Mời các bạn cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.

Đề bài: Phân tích truyện ngắn Bến Quê của Nguyễn Minh Châu

Bài làm 1

Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông đã để lại cho văn học nước nhà một sự nghiệp thơ văn khá đồ sộ như : Bức tranh, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng…Đây là thời kỳ nhà văn đang “đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn của con người” thời kỳ mà con người Việt Nam dường như chỉ sống trong lý tưởng và sống bằng lý tưởng.Nhưng khi đất nước hòa bình, anh đã rất nhạy cảm và nhìn ra được những thay đổi của con người, những cuộc đời trĩu nặng đau thương nhưng nồng nàn khắc khoải với cuộc sống. Đọc “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm.

Tác phẩm được tạo nên bởi cốt truyện thật đơn giản nhưng cũng rất đặc biệt. Tác giả đặt nhân vật của mình vào một căn bệnh hiểm nghèo – đó là bị liệt toàn thân, không thể di chuyển được dù chỉ là nhích người trên giường bệnh. Và anh làm một công việc để có điều kiện đi khắp nơi trên trái đất không xót một xó xỉnh nào. Một cách xây dựng rất tinh tế, ngay mở đầu câu chuyện đã thu hút bạn đọc phải tò mò đọc tiếp những tình huống, chi tiết của truyện.

Nhưng đâu chỉ dừng lại là tình huống trớ trêu ấy mà nhà văn xây dựng lên tình huống khác cũng đầy nghịch lý. Khi Nhĩ phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết rằng mình sẽ không bao giờ được đặt chân lên mảnh đất ấy cho dù nó ở rất gần anh, Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình cái điều khao khát ấy, nhưng rồi cậu ta lại xa vào một đám chơi cờ trên hè phố và làm lỡ chuyến đò sang sông duy nhất trong ngày. Tạo ra một chuỗi những nghịch lý như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc đi đến nhận thức về cuộc đời : đời người chứa nhiều những bất thường, những nghịch lý rất ngẫu nhiên, không ai nói trước và khó tránh được sự vòng vèo đó.

Truyện mở đầu với hình ảnh, Nhĩ từ khung cửa sống của căn phòng đã nhìn thấy những cảnh vật vô cùng tươi đẹp và tràn trề sức sống. Từ gần tới xa Nhĩ nhận thấy : bông hoa bằng lăng tím, con sông Hồng như rộng ra, vòm trời như cao hơn, bãi bồi bên kia sông sao mà gần gũi thế…Một sự cảm nhận bình dị nhưng qua con mắt của một người đã từng đi khắp nơi nay bị bệnh thì lại khác.Phải chăng, có như vậy tác phẩm mới diễn tả hết được những triết lý của cuộc đời và làm hiện lên một không gian có chiều sâu và chiều rộng. Không gian vẫn như xưa mà Nhĩ cảm thấy mới mẻ và giàu đẹp vô cùng. Qua đó tác phẩm muốn rút ra một triết lý cho cuộc đời : quê hương là máu thịt, là tâm hồn của chúng ta, hãy đừng vô tình mà phải biết gắn bó và trân trọng.

Trong mỗi chúng ta ai cũng biết rằng: gia đình, người thân là chỗ dựa tinh thần quan trọng nhất của cuộc đời ta. Đặc biệt đối với nhân vật Nhĩ thì Liên vợ anh là người chăm sóc, quan tâm đến anh nhiều nhất.Nhìn vợ bước xuống cầu thang anh đã xót xa “ suốt cả một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm” , nhớ đến vợ anh thời con gái còn mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữa thị thành mà cuộc đời nào có khấm khá gì. Cái nghèo đã không che giấu được của cả gia đình, khi Nhĩ nhìn thấy “ Liên đang mặc áo vá”, cảm nhận “ những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai”. Và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu, sự tần tảo, đức hy sinh thầm lặng của người vợ. Chính trong những ngày cuối đời, nhân vật mới thực sự thấu hiểu lòng biết ơn sâu sắc người vợ của mình “ cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi phới bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời nay và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm…Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Sang được bờ bên kia sông với Nhĩ vừa là ước mơ vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Hình ảnh con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến. Nhĩ đã nhờ đứa con trai – niềm hy vọng của vợ chồng anh thực hiện ước mơ ấy. Nhưng đứa con trai đã không hiểu được khát khao của người cha, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị thu hút vào trò chơi hấp dẫn ngay bên hè đường “ sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè”, để rồi làm lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Hình ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ “ cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng sáo” cứ chập chờn, khi là đứa con, khi là chính nhân vật. Từ hoàn cảnh của mình, từ đứa con trai Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật phổ biến của đời người “ con người ta trên con đường đời thật khó tránh được những cái vòng vèo hoặc chùng chình”. Nên anh cũng không trách đứa con trai của mình. Còn với đám trẻ con và ông giáo Khuyến, Nhĩ cũng đã nhận ra tình làng nghĩa xóm vô cùng ấm áp và cần thiết cho con người.

Miền đất bãi bồi bên kia sông cũng gợi trong Nhĩ bao suy ngẫm về cuộc đời thực. Cuộc đời thực ấy đối lập với sự cầu kỳ mà cần đến sự giản dị.Nhưng để hiểu được ý nghĩa của cuộc đời, người ta phải có “ con mắt xanh”, phải “ in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”. Cái nghịch lý ấy không triết luận dài dòng mà nằm ngay trong tâm trạng giày vò “ mà lời lẽ không bao giờ giải thích hết giữa say mê và ân hận đau đớn”. Nhưng chặng đường đến với cuộc đời mỗi người lại chọn cho mình một cách riêng, và chặng đường ấy như cuộc chạy tiếp sức từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Có thể nói truyện ngắn “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, những trải nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời. Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trong những vẻ đẹp bình dị nhưng thiêng liêng bền vững của cuộc sống, của quê hương gia đình. Bên cạnh đó tác giả rất thành cồn ở cách xây dựng tình huống, nhân vật đặc sắc hấp dẫn.Ông như một ngôi sao vút qua bâu trời sáng lòa rồi tan biến vào cõi vĩnh hằng.Nhưng với di sản văn học của ông để lại cho đời, đặc biệt là truyện ngắn trên cũng đáng cho chúng ta tự hào.

Bài làm 2

Bến quê là truyện ngắn được lấy làm tên chung cho tập truyện của nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), xuất bản năm 1985. Ở tác phẩm này, ngòi bút của nhà văn hướng vào những sự việc tưởng chừng nhỏ nhặt, tầm thường, để thông qua đó phát hiện ra chiều sâu của đời sống tinh thần với bao nhiêu quy luật và nghịch lí, vượt ra khỏi tầm nhìn, tầm suy nghĩ hạn hẹp trước đây của tác giả nói riêng và mọi người nói chung.

Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh mọi người sự trân trọng vẻ đẹp và giá trị của những điều bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương. Triết lí trong Bến quê sâu sắc, mang tính trải nghiệm, có ý nghĩa tổng kết của một con người sắp giá từ cuộc sống.

Cốt truyện được xây dựng trên một tình huống chứa đựng mâu thuẫn. Nhân vật chính là anh Nhĩ, người đã từng đi khắp nơi trên thế giới, nhưng cuối đời lại bị cột chặt vào giường bởi một căn bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng chính vào thời điểm ấy, Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc một vẻ đẹp mộc mạc mà vô cùng quyến rũ. Cũng như mãi cho đến lúc nằm liệt giường, nhận sự săn sóc từng miếng ăn, ngụm nước của vợ con, Nhĩ mới cảm nhận được nỗi vất vả, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của người vợ hiền. Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, cái miền đất gần gũi nhưng đã trở nên xa vời đối với anh. Anh đã suy ngẫm và chiêm nghiệm ra cái quy luật đầy nghịch lí của đời người: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình.

Muôn nắm được nội dung tác phẩm, trước hết, chúng ta phải tìm hiểu sơ qua về tình huống của truyện.

Nhân vật Nhĩ rơi vào một hoàn cảnh đặc biệt là bị liệt toàn thân. Căn bệnh hiểm nghèo ấy khiến anh hầu như không thể tự di chuyển, dù chỉ là nhúc nhích đôi chút trên giường. Mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác, mà chủ yếu là chị Liên, vợ anh. Trong nhiều tác phẩm, các nhà văn hay đặt nhân vật vào hoàn cảnh giáp ranh giữa sự sống và cái chết và khai thác tình huống ấy để nói về khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người, về lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng… Nhưng ở truyện này, nhà văn Nguyễn Minh Châu không khai thác theo hướng đó mà lại chiêm nghiệm, suy ngẫm để rút ra triết lí về đời người.

Kịch tính của truyện nằm ở cái điều trớ trêu là suốt mấy chục năm công tác, Nhĩ đã có điều kiện đặt chân đến hầu như khắp mọi nơi trên thế giới. Ấy thế mà những năm cuối đời, căn bệnh bại liệt quái ác lại buộc chặt anh vào giường và hành hạ anh suốt mấy năm trời.

Vào một buổi sáng, Nhĩ muốn nhích người đến gần bên cửa sổ. Anh phải nhờ đám trẻ hàng xóm giúp đỡ. Tình huống nghịch lí ấy lại dẫn đến một tình huống thứ hai trong truyện cũng không kém phần nghịch lí: Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhưng anh biết rằng mình sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần. Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình điều khao khát đó, nhưng rồi cậu ta lại sa vào một đám chơi phá cờ thế trên hè phố và có thể sẽ để lỡ mất chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.

ạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn người đọc lưu ý đến một vấn đề của cuộc đời: cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài dự định, ước muốn và cả những tính toán cố sẵn. Nhưng ý nghĩa của tình huống trong truyện Bến què không dừng ở dó mà nó còn mồ ra một nội dung triêt lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả đời người, qua suy ngẫm của nhân vật Nhĩ: Con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình… Cũng như sự giàu có lẫn vẻ đẹp gần gũi của bãi bồi bên kia sông hay phẩm chất của người vợ tần tảo, giàu tình yêu và đức hi sinh thì phải đến lúc này, khi sắp giã biệt cuộc đời, Nhĩ mới thấu hiểu và cảm nhận thấm thía.

Vẻ đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu được miêu tả qua cái nhìn và cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ. Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến xa, tạo thành một không gian có chiều sâu, chiều rộng. Đầu tiên, anh nhìn thấy những bông bằng lăng tím ngay phía ngoài cửa sổ, rồi đến con sông Hồng với màu nước đỏ nhạt và sau cùng là bãi bồi bên kia sông.

Cảnh vật thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp vô cùng quyến rũ : Bên kia những cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bèn kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ…

Không gian và những cảnh sắc ấy vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng hầu như rất mới mẻ đối với Nhĩ. Tưởng chừng như lần đầu tiên trong đời, anh cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của nó. Từ hoàn cảnh cụ thể của mình, Nhĩ đã quan sát, suy ngẫm để rút ra quy luật giống như một nghịch lí của đời người.

Nhĩ bị bệnh đã lâu ngày. Mọi sự, anh đều phải trông cậy vào vợ con. Trong buổi sáng hôm đó, Nhĩ đã linh cảm rằng thời gian của đời mình không còn bao lâu nữa: Nhĩ khó nhọc nâng một cánh tay lên khẽ ẩy cái bát miến trên tay Liên ra. Anh ngửa mặt như một đứa trẻ để cho thằng Tuấn cầm chiếc khăn bồng tẩm nước ấm khẽ lau miệng, cằm và hai bên má cho mình. Rồi anh hỏi vợ : Đêm qua lúc gần sáng em cô nghe thấy tiếng gì không?…

Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ? Chị Liên dường như cũng đã cảm nhận được tình cảnh và tâm trạng của chồng nên lảng tránh trả lời những câu hỏi của anh.

Anh Nhĩ nghĩ về chị Liên thật cảm động. Lần đầu tiên, anh để ý thấy vợ mình mặc tấm áo vá. Những ngón tay gầy guộc của chị âu yếm vuốt ve vai anh và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Nhĩ nói với vợ: Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vân nín thinh. Chị Liên trả lời: Có hề gì đâu… Miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này. Chính trong những ngày cuối đời, Nhĩ mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ hiền thục, đảm đang:…, cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liến vẫn giữ nguyền vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.

Vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp bình dị, gần gũi của cảnh vật qua ô cửa sổ, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp phải giã biệt cõi đời, trong tâm thức Nhĩ bừng dậy một khát khao vô vọng là được đặt chân một lần lên cái bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững của những điều bình thường và sâu sắc của cuộc sống thường bị người ta bỏ qua hoặc lãng quên, nhất là thời còn trẻ, khi những ham muốn xa vời, hão huyền đang lôi cuốn con người tìm đến. Sự thức tỉnh này chỉ đến với người ta ở cái tuổi đã từng trải, với Nhĩ thì đó là thời gian cuối đời, lại phải nằm liệt trên giường bệnh. Bởi thế sự thức tỉnh của anh xen lẫn niềm ân hận, xót xa: Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia.

Nhĩ đã nhờ con trai thay mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ ấy. Nhưng anh lại gặp thêm một nghịch lí nữa là đứa con không hiểu được ước muốn tha thiết của cha nên làm theo một cách miễn cưỡng và rồi lại bị cuốn hút vào trò chơi phá cờ thể rất hấp dẫn mà nó gặp trên đường đi, để rồi cố thể sẽ lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Anh Nhĩ không trách con, bởi vì nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu. Nó cũng giông hệt như anh mấy mươi năm về trước.

Cuối truyện, tác giả tả khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này, Nhĩ đã thu hết tàn lực dồn vào một cử chỉ có vẻ kì quặc: Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó. Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau mau xuống bến kẻo lỡ đò, nhưng hình ảnh này còn có ý nghĩa sâu xa hơn. Đó là ý muôn thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, hãy cố gắng dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, bền vững vốn rất giản dị, gần gũi của cuộc đời xung quanh ta.

Nhân vật Nhĩ là nhân vật tư tưởng, một loại nhân vật xuất hiện khá nhiều trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Nhà văn đã gửi gắm qua nhân vật này nhiều điều mà ông quan sát, suy ngẫm, triết lí về cuộc đời và con người. Nhưng nhân vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho tác giả. Những chiêm nghiệm, triết lí của ông đã được chuyển hóa nhuần nhuyễn vào đời sống nội tâm của nhân vật, với diễn biến tâm trạng tinh tế dưới sự tác động của hoàn cảnh bất thường.

Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của truyện là nhà văn đã sáng tạo ra những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Vậy hình ảnh biểu tượng là gì?

Trong truyện Bến quê, hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất, khiến cho các hình ảnh không bị tước đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm để chỉ đơn thuần là hình ảnh ước lệ. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực, nhưng phải đặt nó vào trong cả hệ thống hình ảnh và nó chỉ có thể toát lên ý nghĩa khi đối chiếu với chủ đề của tác phẩm.

Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được miêu tả trong truyện cũng mang ý nghĩa khái quát, tượng trưng. Đó là vẻ đẹp dung dị, tự nhiên của đời sông thể hiện qua những sự vật gần gũi, thân thuộc như một bến đò, một dòng sông, một bãi bồi,… nói rộng ra là quê hương, xứ sở.

Nhiều hình ảnh và chi tiết khác trong truyện cũng chứa đựng ý nghĩa biểu tượng khá rõ: Những bông hoa bằng lăng cuối mùa màu sắc như đậm hơn; tiếng những tảng đất lở ở bờ sông bên này, khi cơn lũ đầu nguồn dồn về, đã đổ ụp vào cả trong giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng. Hai chi tiết này gợi cho người đọc ý nghĩ là sự sống của nhân vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng.

Đứa con trai của Nhĩ sa vào một đám chơi phá cờ thế trên lề đường là chi tiết giống như điều mà Nhĩ gọi là sự chùng chình, vòng vèo mà trên đường đời, người ta khó lòng tránh khỏi..

Hành động và cử chỉ của Nhĩ ở cuối truyện cũng mang ý nghĩa biểu tượng. Bằng việc đặt nhân vật vào tình huống có tính nghịch lí, truyện Bến quê phát hiện một điều có tính quy luật: trong cuộc đời, con người thường khó tránh khỏi những diều vòng vèo, chùng chình, đồng thời thức tỉnh về những giá trị và vẻ đẹp đích thực của đời sống ở những điều quen thuộc, bình thường mà bền vững muôn đời.

Qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, chúng ta cảm nhận dược ý nghĩa triết lí về cuộc đời con người mà nhà văn dặt ra trong tác phẩm: Hãy cố gắng tìm hiểu và cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà quý giá ẩn chứa trong những gì quen thuộc, gần gũi nhất của gia đình và quê hương.

Truyện được kể theo cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, trong một cảnh ngộ đặc biệt. Giọng trầm tư, suy ngẫm của một người từng trải, cùng với giọng xúc động, đượm buồn, có cả sự ân hận và xót xa của một người nhìn vào hiện tại và quá khứ của mình ở cái thời điểm biết mình sắp phải từ giã cuộc đời. Những đoạn tả hàng cây bằng lăng, con sông, bờ bãi bên kia sông là những đoạn vãn rất hay. Tác giả đã miêu tả những sắc thái khác nhau của vẻ đẹp thiên nhiên bằng tính từ chỉ màu sắc và những đường nét tạo hình rất gợi cảm.

Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc, chứa đựng những chiêm nghiệm, triết lí sâu sắc về đời người. Những cảm xúc tinh nhạy đã được tác giả thể hiện bằng lời vãn hàm súc, giản dị và những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng nhưng dễ hiểu.

Bài làm 3

Không hiểu sao, đã từ lâu, khi đọc Bến quê, tôi cứ đinh ninh đây là bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu gửi lại cho đời, được ông viết ngay từ hơn bốn năm trước lúc ra đi, và hơn hai năm khi biết mình bị trọng bệnh – bệnh ung thư máu. Trong một dung lượng cho rất kiệm, chỉ khoảng sáu trang sách (Bến quê có lẽ thuộc trong số những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Minh Châu), nhà văn đã gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc, minh triết về cuộc đời con người, chỉ có thể có được khi một người đã đi gần trọn đời mình, nhìn lại và vượt qua mọi ham hố, danh vọng, ảo tưởng, để thấu đạt tới những giá trị đích thực, giản dị và bền vững của cuộc sống.

Cũng như ở nhiều truyện ngắn thành công khác của mình, Nguyễn Minh Châu đã sáng tạo một tình huống đặc biệt trong Bến quê để đặt nhân vật vào đó mà soi rọi vào thế giới bên trong của họ, làm bật lên vấn đề tư tưởng của truyện. Tình thế (theo cách gọi của Nguyễn Minh Châu) hay tình huống trong Bến quê là một hoàn cảnh đầy vẻ nghịch lí. Nhân vật chính của truyện – anh Nhĩ – từng đi khắp mọi nơi trên Trái đất, về cuối đời lại bị cột chặt vào giường bệnh bởi một căn bệnh hiểm nghèo đến nỗi không thể tự mình dịch chuyển lấy vài mươi phần trên chiếc phản hẹp kê bên cửa sổ.

Nhưng cũng chính vào một buổi sáng trong những ngày cuối đời mình, từ cửa sổ căn gác, Nhĩ đã nhận ra được ở vùng đất bãi bồi bên kia sông, nơi bến quê quen thuộc, một vẻ đẹp binh dị mà hết sức quyến rũ.

Vào cái buổi sáng đầu thu ấy, từ trên chiếc phản hẹp kê bên cửa sổ căn gác nhà mình, Nhĩ đã gặp nơi không gian ngoài kia những vật quen thuộc lại được hiện ra trong những màu sắc và vẻ đẹp lần đầu anh được thấy. Những bông hoa bằng lăng thưa thớt cuối mùa như tím thêm hơn. Tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn vào màu xanh non những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Cảnh bãi bồi bên kia sông, một không gian gần gũi và quen thuộc vẫn hiện ra phía trước cửa sổ nhà Nhĩ, nhưng anh lại chưa một lần đặt chân đến, dù suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái đất. Bởi thế, cái bờ bên kia sông Hồng đối với Nhĩ là một chân trời gần gũi mà xa lắc.

Cũng trong những ngày này, khi nằm liệt giường, nhận sự chăm sóc đến từng miếng ăn, ngụm nước của người vợ, Nhĩ mới cảm thấy hết nỗi vất vả của vợ, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ mình. Cũng như nhiều nhân vật phụ nữ khác của Nguyễn Minh Châu, Liên – người vợ của Nhĩ – là hiện thân của vẻ đẹp tâm hồn, lòng vị tha và đức hi sinh thầm lặng, khiêm nhường. Những cử chỉ dịu dàng chăm sóc tỉ mỉ, ân cần, những lời động viên và sự thấu hiểu tâm trạng của chồng, rồi tấm áo vá và những bước chân đi rất nhẹ trên bậc cầu thang gỗ đã mòn lõm – bấy nhiêu chi tiết ấy đã đủ nói lên nhân vật Liên, dù chỉ hiện ra chốc lát ở phần đầu của truyện, cũng để lại cho người đọc về một hình tượng đẹp, giản dị mà sâu xa. Sau bao năm tháng bôn tẩu, mà cuộc đời dành cho những chuyến đi khắp chân trời, đến lúc này, ở những ngày cuối đời mình, Nhĩ mới thấy và hiểu được nơi bến đậu bình yên, điểm tựa cho cuộc đời anh chính là gia đình, là người vợ suốt đời tảo tần, thầm lặng. Nhĩ nói với Liên bằng cả lòng biết ơn xen lẫn niềm ân hận: Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh. Và Liên đã trả lời: có hề sao đâu… miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này…

Trong cái buổi sáng có lẽ cuối cùng cua cuộc đời mình, Nhĩ vô cùng khao khát được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, cái miền đất thật gần gũi nhưng đã trở nên rất xa lạ với anh. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống — những giá trị thường bị người ta bỏ quên, nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn con người tìm đến. Sự thức nhận này chỉ đến khi người ta đến độ đã từng trải, với Nhĩ là cuối đời, khi phải nằm liệt trên giường bệnh. Đấy lại là một nghịch lí trớ trêu của cuộc đời: Khi nhận ra được những giá trị đích thực và giản dị của đời sống, thì người ta lại không còn thời gian và khả năng có thể đạt tới được. Bởi thế, ở Nhĩ sự thức tỉnh có xen với niềm ân hận và nỗi xót xa. Không thể nào làm được cái điều mình khao khát, Nhĩ đã nhờ đứa con trai thay mình đi sang bên kia sông, đặt chân lên bãi phù sa màu mỡ. Nhưng ở đây anh đã gặp một nghịch lí nữa: đứa con không hiểu được ước muốn của cha, nên làm một cách miễn cưỡng và bị cuốn hút vào những trò chơi hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi cứ thế lỡ chuyến đò sang ngang duy nhất trong ngày. Từ sự việc ấy, Nhĩ đã nghiệm ra được cái quy luật phổ biến của đời người: Con người ta đi trên đường đời thật khó tránh khỏi những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình. Anh không trách đứa con trai bởi vì: Nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu? Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ sẽ không bao giờ giải thích hết.

Ở đoạn kết, khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất bên này sông, Nhĩ đã làm một cử chỉ có vẻ kì quặc, nhưng với anh là điều vô cùng hệ trọng và khẩn cấp: Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát, y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó. Hành động cuối cùng này của Nhĩ có thể hiểu anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Những hình ảnh này còn gợi ra một ý nghĩa khái quát hơn. Đó là ý thức muốn thức tỉnh mọi người về cái vòng vèo, chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời, để dứt ra khỏi nó, để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.

Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 đều là những quan sát, chiêm nghiệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu hướng vào đời sống thế sự, nhân sinh thường ngày, để phát hiện những chiều sâu của đời sống với bao nhiêu quy luật và những nghịch lí, vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp trong những cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của xã hội và của chính tác giả. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là những cuộc đối chứng với quan niệm và nhận thức cũ để nhận và thấu hiểu cái điều mà tác giả gọi là cuộc đời vốn đa sự, con người thì đa đoan. Điều đặc sắc trong Bến quê là ở chỗ triết lí của truyện có những chiêm nghiệm thâm trầm mà giản dị, mang ý nghĩa tổng kết của một đời người, chỉ có thể có được dưới ngòi bút của một nhà văn thực sự thấu hiểu lẽ đời, tình đời, không chỉ sống nhiều mà còn có năng lực nghiệm sinh sâu sắc.

Tạo nên thành công đặc sắc của truyện không phải chỉ có những triết lí thâm trầm đã phân tích ở trên, mà còn bởi một nghệ thuật viết truyện già dặn của tác giả: từ ngòi bút miêu tả thiên nhiên để miêu tả và phân tích tâm lí đều hết sức tinh tế, sáng tạo tình huống chứa nhiều ý nghĩa, sử dụng nhiều hình ảnh và chi tiết nghệ thuật mang ý nghĩa biểu tượng. Sáng tạo hình ảnh biểu tượng vốn là một sở trường của ngòi bút Nguyễn Minh Châu. đặc biệt trong truyện ngắn, ở Bến quê hầu như mọi chi tiết hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó thống nhất, khiến cho các hình ảnh không bị tước đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm để chỉ còn lại hình ảnh ước lệ. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực, nhưng phải xem xét trong cả hệ thống hình ảnh và chỉ có thế toát lên khi đặt vào sự quy chiếu của chủ đề tác phẩm.

Những bông hoa bằng lăng cuối mùa mang màu sắc như đậm hơn, tiếng những tảng đất lở bên sông này, khi cơn lũ đầu nguồn dồn về, đổ ụp xuống vào giấc ngủ của Nhĩ lúc gần sáng, hai chi tiết này gợi ra cho biết sự sống của nhản vật Nhĩ đã ở vào những ngày cuối cùng. Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được dựng lên trong truyện thực ra cũng mang ý nghĩa khái quát, biểu tượng. Đó là vẻ đẹp của đời sống trong những cái gần gũi, bình dị thân thuộc như một bến sông quê, một bãi bồi… rộng ra là quê hương, xứ sở.

Chi tiết đứa con trai của Nhĩ sa vào đám chơi phá cờ thế bên đường và hình ảnh Nhĩ với những động tác, cử chỉ khác thường ở cuối truyện đều mang ý nghĩa biểu tượng rất rõ. Việc sử dụng đậm đặc các hình ảnh và chi tiết biểu tượng làm cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu chứa đựng nhiều tư tưởng và ý nghĩa sâu rộng hơn ý nghĩa thực của cái được miêu tả, lại có khả năng gợi mở nhiều liên tưởng, suy ngẫm ở người đọc.

Hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu đã đột ngột dừng lại lúc tài năng và tư tưởng nhà văn đạt tới độ chín, cũng là khi công cuộc đổi mới văn học nước ta bước vào chặng đầu. Trong cuộc Hội thảo tưởng niệm Nguyễn Minh Châu nhân ngày giỗ đầu của ông, nhà văn Nguyên Ngọc đã tôn vinh Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay. Trong con người và mỗi trang sách của Nguyễn Minh Châu, dưới cái vẻ khiêm nhường, thâm trầm, giản dị luôn cháy sáng một ngọn lửa nồng đượm – ngọn lửa được thắp lên từ khát vọng tìm kiếm sự thật và tinh thần nhân bản bền vững, tình yêu thương con người đến khắc khoải như một mối quan hoài. Ngọn lửa ấy vẫn tiếp tục được tỏa ánh sáng và truyền sức nóng của nó đến các thế hệ người đọc.

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-truyen-ngan-ben-que-cua-nguyen-minh-chau-37176/feed 0
Bài văn mẫu lớp 9: Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân https://quatangtiny.com/dong-vai-ong-hai-ke-lai-chuyen-ngan-lang-cua-kim-lan-39088 https://quatangtiny.com/dong-vai-ong-hai-ke-lai-chuyen-ngan-lang-cua-kim-lan-39088#respond Fri, 23 Oct 2020 15:14:12 +0000 https://quatangtiny.com/dong-vai-ong-hai-ke-lai-chuyen-ngan-lang-cua-kim-lan-39088

Related posts:

  1. Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 4)
  2. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  3. Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân (Dàn ý + 10 Mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 9: Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân

Bài văn mẫu lớp 9: Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân, Bài văn mẫu lớp 9: Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân là tài liệu vô cùng

Bài văn mẫu lớp 9: Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân là tài liệu vô cùng hữu ích mà Tài Liệu Học Thi muốn giới thiệu đến quý thầy cô, cùng các bạn học sinh cùng tham khảo. Hi vọng, tài liệu này sẽ giúp các bạn có thêm nhiều ý tưởng hay để hoàn thành bài làm một cách tốt nhất. Chúc các bạn học tốt!

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân – Mẫu 01

Tôi là ông Hai trong câu chuyện “Làng” tôi yêu cái làng Chợ Dầu của tôi – cái làng mà tôi đã sinh ra và lớn lên, cái làng mà tôi đã sinh ra và lớn lên, cái làng đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ thủa nào. Giờ đây xa làng ỏ nơi tản cư tôi nhớ làng da diết- nhớ những ngày tham gia kháng chiến, và có lẽ tình yêu làng càng được trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng tôi nếu như không có một ngày…

Nghe theo chính sách của Đảng, gia đình tôi phải đi tản cư, phải xa ngôi làng thân yêu, xa quê tôi tích cực lao động vỡ vạt đất rậm ngoài suối để trồng thêm vài gốc sắn. Nằm giường tôi nghĩ về cái làng và nghĩ về những ngày cùng làm việc với anh em, ồ sao độ ấy vui thế, tôi thấy mình như trẻ ra và cảm thấy náo nức vô cùng, tôi lại muốn về làng, muốn được cùng anh em đào đường, xẻ hào, khuôn đá… tôi tự hỏi lòng mình không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn khướt lắm! Chao ôi! tôi nhớ làng nhớ cái làng quá.

Bên ngoài, ánh nắng rọi xuống mặt đất, có tiếng gà trưa cất lên. Gian nhà lịm đi, mờ mờ hơi đất, tôi nghĩ đến mụ chủ nhà, thảo nào cũng phải nghe những tiếng chửi con mắng cái của bà, lại kêu vại nước chóng cạn, cáo bếp bừa bộn mà tôi nghe đến nỗi phát ngán. Tấm che cửa bỗng kêu lạch xạch, gian nhà sáng lên tôi nghĩ đứa con gái lớn bán hàng đã về nên tôi cất tiếng hỏi khi không thấy nó bước vào.

– Ở ngoài ấy làm gì mà lâu thế mày?

Không để con kịp trả lời tôi vội vơ cái nón dặn nó trông hai em rồi bảo nó trông nhà, đừng để mụ chủ lấy đồ của gia đình.

– Nó thì rút ruột ra, biết chửa?

Tôi bước ra ngoài, trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói lừ đừ. Đường vắng hẳn người qua lại, họ dạt cả vào những khoảng bóng cây – tránh nắng, một vài tiếng động nhẹ khẽ gợi lên, oi ả. Đi nghênh ngang giữa đường vắng, tôi mong nắng cho Tây nó chết.

– Nắng này bỏ mẹ chúng nó.

Theo thói quen, việc đầu tiên tôi vào phòng thông tin nghe đọc báo, tôi tuy biết mặt chữ nhưng chữ in khó đọc khiến tôi khổ tâm hết sức, tôi ghét thậm những anh cậy ta lắm chữ đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. May sao hôm nay vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng chữ, tôi sung sướng khi nghe bao nhiêu là tin hay về tinh thần kháng chiến của dân ta. Nào là em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên tháp Rùa, nào là một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống mọt tên quan hai bốt thao ngay giữa chợ ” khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dàm khẩu, ngày mai đàm khẩu, tích tiểu thành đại” làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm. Tai nghe mà ruột gan tôi cảm tưởng như đang múa cả lên, vui quá!

Tôi náo nức bước khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vộ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ, tôi ngồi vào một cái quán nước, hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, bao nhiêu ý thích chen chúc trong đầu tôi. Tiếng quạt, tiếng thở. tiếng trẻ con khóc cùng tiếng của cánh đi phá đường râm ran cả góc đường. Dưới chân đồi, những ruộng lúa xanh mượt uốn quanh co dưới trời nắng, lấp lánh như một khúc sông. Có mấy bóng cò trắng bay dập dờn.

– Các ông, các bà ở đâu ta lên đây à

– Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đây ạ, đi bốn năm mới lên đến đây, vất vả quá.

Tôi hỏi chuyện lúa má ở dưới xuôi rồi rít một hơi thuốc lào nữa gật gù cái đầu ” Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… hay đáo để”

– Này bác có biết mấy hôm nay súng bắn ở đâu mà nghe rát thế không?

Một người đàn bà cho con bú mé bên kia xen vào:

– Nó rút ở Bắc Ninh về qua Chợ Dầu, nó khủng bố ông ạ!

Tôi giật mình khi nghe tên Chợ Dầu, tôi lắp bắp hỏi:

– Nó… nó vào làng chợ Dầu hở Bác? thế ta giết được bao nhiêu thằng?

Người đàn bà ẵm con cong môi

– Có giết được thằng nào đâu, cả làng chúng nó theo việt gian theo Tây còn giết gì nữa.

Tôi cảm thấy như cổ ghẹn đắng lại , da mặt tê rân rân, lặng người đi, tôi tưởng như không thể thở được, một lúc lâu mới hết bàng hoàng không tin vào những gì đã nghe tôi hỏi lại.

– Liệu có thật không hả bác? hay là chỉ tại…

– Thì chúng tôi vừa ở dưới đó lên mà, Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ! Tây vào làng chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô. Thằng Chánh Bệu thì khuôn cả từ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xa cam- nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.

Tôi đau đớn đến uất nghẹn, tôi trả tiền nước, đứng dậy chèm chẹp miệng, cố cười nói to.

– Hà, nắng gớm, về nào….

Tôi cố đánh lảng đi và đứng dậy đi thẳng, tôi vẫn nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú.

– Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm còn được người ta thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát.

Tôi nghe mà cứ tưởng như nói mình vậy, chỉ biết cúi gằm mặt xuống mà đi, tôi chợt nghĩ đến mụ chủ nhà, rồi mụ chủ có để yên cho gia đình lão già này hay không? Về đến nhà tôi nằm vật ra giường, nhìn lũ con tủi thân nước mắt tôi cứ giàn ra, chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian ư? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúm hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu….

Tôi đau đớn đến tột độ nắm chặt hai tay mà rít lên:

– Chúng mày ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồn mà đi làm cá giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này? rồi tôi ngẫm nghĩ lại, chả nhẽ cái bọn ở nàng lại đốn đến thế được, đối với tôi họ đều là người có tinh thần cả mà, họ đã ở lại làng quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy, mà thằng Chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi, không có lửa làm sao có khói. Chao ôi! cực nhục chưa cả làng Việt gian, rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? ai người ta chứa? ai người ta buôn bán mấy, suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt Gian bán nước, lại còn bao nhiêu người làng tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cơ sự này chưa?

Chiều hôm ấy vợ tôi vè cũng có vẻ khác, chắc lại vì cái chuyện làng Việt gian rồi, trong nhà sự im lặng thật ngột ngạt và khó chịu. Mãi khuya, vợ tôi mới xuống bếp tính tiền hàng:

– Này, thầy nó ạ!

Nằm rũ trên giường tôi vờ như không nghe, tôi bực dọc, tức tối người lặng hẳn đi chân tay nhũn ra, có tiếng léo nhéo ở gian nhà trên tiếng mụ chủ… tôi nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài.

– Thầy nó ngủ rồi ư? dậy tôi bảo cái này đã.

Tôi bật ngóc đầu dậy giơ tay trỏ lên nhà tôi rít hai hàm răng lại nghiến:

– Im, khổ lắm, nó mà nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ, hai chữ Việt gian cứ lảng vảng trong đầu tôi khiến tôi vô cùng sợ hãi tủi hổ, tôi không dám bước ra ngoài, hễ thoáng qua những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông,… là tôi lủi ra góc nhà, nín thít. Thôi, lại chuyện ấy rồi, tôi lại nghĩ đến mụ chủ nhà. Chắc là mụ vui lắm, thích lắm, mỗi lần đi qua cửa mụ lấy chuyện bóng gió mà nói như khía vào thịt tôi. Nhẫn nhịn vì có chỗ cho gia đình chui ra chui vào là tốt lắm rồi, nhưng mụ có để yên cho tôi đâu, mụ có ý muốn đuổi nhà tôi đi bằng những lời nói ngọt xớt, vợ tôi phải nhẫn nhịn xin bà ta cho ở đây bài ba hôm nữa…

Từ hôm đó, rôi ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen tối ghê rợn nối tiếp trong đầu óc tôi, biết đem nhau đi đâu bây giờ, ở đâu họ cũng đuổi người Chợ Dầu đi. Trời ơi! cái câu nói của người đàn bà hôm trước cứ dội lên trong tâm trí tôi. Tôi nghĩ:

– Hay là quay về làng.

– Không về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây cả rồi, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, về làng tức là chịu làm nô lệ cho thằng Tây. Không thể được, làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.

Hàng ngày không biết tâm sự giãi bày lòng mình với ai, tôi lại vu vơ nói với hỏi chuyện thằng con út:

– Út à, thầy hỏi con nhé, con là con ai?

– Là con thầy mấy lị con u.

– Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?

Thằng bé nép đầu vào tôi khe khẽ

– Có

– À. thầy hỏi con nhé! thế con ủng hộ ai?

Thằng bé giơ tay mạnh bạo và rành rọt.

– Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt tôi giàn ra, ròng ròng trên hai má, tôi nói thủ thỉ.

–Ừ, đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ Con nhỉ

Tôi nói để ngỏ lòng mình, càng nghĩ tôi lại càng đau, anh em đồng chí biết cho bố con tôi, cái lòng của bố con tôi là như thế đấy có bao giờ dám đơn sai, mỗi lần nói ra được đôi câu như vậy trong lòng tôi cũng vơi đi được đôi phần.

Nhưng thật bất ngờ, cái tin cải chính được đưa lên, hôm ấy tôi cùng người làng Chợ Dầu đi về làng, vui mừng không sao tả siết, tôi hô hào với bọn trẻ:

– Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia cho

Tôi chạy sang bác Thứ khoe khắp nơi

– Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ! đốt nhẵn, ông chủ tịch làng tôi vừa lên đây cải chính ông ấy cho biết ” cải chính là cái làng Chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà, láo! láo hết, toàn là sai mục đích cả.

Tưởng mụ chủ nhà sẽ sa sầm xuống mà tức tối nhưng mụ lại tỏ ra vui sướng, từ hôm ấy tôi lại càng hãnh diện về làng, lại sang bác Thứ trò chuyện về làng và lại tích cực lao động.

Chuyện là vậy đó mọi người ạ! nói ra tôi lại thấy lòng mình bồi hồi, nao nức. Cho đến tận bây giờ tôi cũng không thể quên từng việc, từng lời nói về làng tôi. Qua đây, tôi muốn nhắc nhở các bạn rằng: hãy yêu làng của mình- nơi chôn rau cắt rốn của ta, nơi đã nuôi ta khôn lớn, trưởng thành giống như tôi yêu làng Chợ Dầu của tôi vậy, hãy đặt niềm tin vào làng thân yêu bạn sẽ luôn cảm thấy cuộc sống thật hạnh phúc- giống như tôi đã đặt niềm tin vào làng Chợ Dầu và tôi đã trở thành người hạnh phúc.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn làng của Kim Lân – Mẫu 02

Ôi cái làng Dầu của tôi! Vẫn cái phong vị ngọt ngào của lúa non đồng nội. Vẫn con đường gạch đá xanh rơn. Bầu trời cao thẳm, rộng bao la, vương chút nắng xuống mái đình cổ kính. Tôi đã yêu và yêu biết nhường nào cái mảnh đất này, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Bọn giặc đáng khinh kia đã tàn nơi đây. Làng Dầu không còn như ngày tôi phải rời làng đi tản cư nữa. Nhưng giờ trở lại, lòng tôi vẫn thế, vẫn vẹn nguyên không hề thay đổi. Trong tôi có cái gì nao nao rất lạ. Một cảm giác nhớ nhớ, xen một chút thương, pha đôi sự tự hào. Tôi như vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Hạnh phúc vì thực sự cái đau khổ của một ngày xa xôi kia chỉ còn là hồi ức, hồi ức không đẹp nhưng lại làm cho con người ta nhớ mãi chẳng thể quên.

Đó là một ngày nắng. Cũng cách đây mấy năm rồi. Và tôi thì cũng không còn nhớ rõ cho lắm.

Trưa ấy, trời nắng ghê lắm. Nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa. Nắng như muốn thiêu rụi cả con người. Có mấy tiếng gà trưa cất lên eo éo. Tiếng lũ ve thì ngân mãi không thôi, não lòng. Xong việc, tôi có cả một khoảng thời gian mà nằm nghĩ vẩn vơ. Và thế là tôi nhớ về cái làng Dầu của tôi, nhớ ghê gớm.

Tôi ngóng đứa con gái lớn từng lúc một. Mong nó về nhanh nhanh để trông nhà trông cửa, để tôi còn được làm cái việc mà tôi vẫn làm. Một lúc sau, nó về. Tôi dặn dò con vài câu rồi bước vội ra ngoài. Đường vắng hẳn người qua lại. Trời lồng lộng gió nhưng vẫn không đủ để thổi đi cái nắng nóng của mùa hè. Nắng thế này thì bỏ mẹ chúng nó. Tôi nghĩ rồi nói lớn. Có người đi ngang qua, bỡ ngỡ hỏi lại:

– Chúng nó nào?

– Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi vị trí giờ bằng ngồi tù.

Nói rồi tôi bước thẳng. Cũng như thường lệ, tôi ghé vào trạm thông tin nghe ngóng tình hình chiến sự. Biết bao là tin hay. Ruột gan tôi cứ như múa cả lên. Vui quá! Nhưng dường như hạnh phúc của con người thật là bé nhỏ. Ngờ đâu cái vui vẻ ấy chỉ là một ngày lặng gió trước khi giông tố nổi lên. Bước ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào dặn vợ vài việc rồi theo lối huyện cũ mà đi. Tôi tạt qua quán nước ngồi. Ở đây, những tốp người tản cư dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố. Nghe một người đàn bà nói bọn Tây nó vào làng Chợ Dầu, nó khủng bố, tôi lo lắng, quay phắt lại lắp bắp hỏi:

– Nó… Nó vào làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?

– Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!

Giọng người đàn bà the thé, đầy mùi căm giận. Nó như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt tôi. Tôi bàng hoàng. Cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tưởng như đến không thở được. Khóe mắt cứ giật giật, các dây thần kinh như tê liệt. Một lúc lâu sau, tôi mới rặn è è, nuốt cái gì vương vướng ở cổ, hỏi lại, giọng lạc hẳn đi:

– Liệu có thật không hở bác? Hay lại chỉ…

– Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại…

Tôi chưa dứt lời thì người ta đã nói. Dứt khoát. Chắc như đinh đóng cột. Tôi đờ người. Hai tai ù ù. Chẳng còn nghe thấy gì cả. Giọng người kia như lẫn vào trong gió. Tôi trả tiền nước, lảo đảo đứng dậy. Chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng:

– Hà, nắng gớm, về nào…

Tôi nói với mình mà như chẳng nói với ai. Tôi tự trấn an mình. Lảng ra một chỗ rồi bước hẳn, không dám quay đầu lại nhìn. Tôi cúi gằm mặt xuống mà đi, như mình vừa làm điều gì đó tội lỗi lắm. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường. Tay chân như nhũn hẳn ra, không còn sức. Tôi thở dốc. Mấy đứa nhỏ len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.

Nhìn lũ con, chẳng hiểu sao nước mắt tôi cứ giàn ra. Mắt mờ đi, nhạt nhòa. Mấy đứa nhở… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Tôi nắm chặt hai tay, móng đâm vào da thịt, đau nhói. Tôi rít lên như một con thú bị thương, đau đớn đến tột cùng:

– Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian ban nước để nhục nhã thế này.

Tôi bỗng ngừng lại, ngờ ngợ. Tôi nhớ lại từng người. Họ toàn những người có tinh thần cả mà. Họ quyết không chịu đi để ở lại giữ làng, định bụng một phen sống mái với lũ chúng nó. Có đời nào họ chịu nhục nhã mà đi làm cái điều kinh khủng ấy!… Nhưng không! Không có lử thì làm sao có khói? Ai người ta đi đặt điều vu oan cho mà làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Cả làng Việt gian! Rồi đây biết sống ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy?… Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi. Mọi thứ rối tung lên, như tơ vò, một mớ bòng bong. Gỡ thế nào cũng không ra được. Thôi thì cắt đi cho nhẹ nợ. Bụng bảo dạ, tôi cố nhét cho sâu cái chuyện đó vào sâu trong bộ não. Nhưng dường như vợ tôi cũng biết chuyện đó rồi. Chiều về, bà ấy uể oải, cái mặt nặng như đeo chì. Mãi khuya, bà ấy mới dám lôi chuyện ấy ra. Vừa nói, hỏa khí trong tôi đã bùng lên. Thế là im bặt, nhẫn nhục.

…………..

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

]]>
https://quatangtiny.com/dong-vai-ong-hai-ke-lai-chuyen-ngan-lang-cua-kim-lan-39088/feed 0
Bài văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ cuối bài Sang thu của Hữu Thỉnh https://quatangtiny.com/cam-nhan-kho-tho-cuoi-bai-sang-thu-cua-huu-thinh-40147 https://quatangtiny.com/cam-nhan-kho-tho-cuoi-bai-sang-thu-cua-huu-thinh-40147#respond Fri, 23 Oct 2020 13:52:28 +0000 https://quatangtiny.com/cam-nhan-kho-tho-cuoi-bai-sang-thu-cua-huu-thinh-40147

Related posts:

  1. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Dàn ý + 11 mẫu)
  2. Cảm nhận bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (Dàn ý + 13 Mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ cuối bài Sang thu của Hữu Thỉnh

Bài văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ cuối bài Sang thu của Hữu Thỉnh, ‘Sang thu’ là một áng thơ xinh xắn dâng tặng Nàng Thu của một thi nhân – một thi nhân yêu quý

Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô, cùng các em học sinh Bài văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ cuối bài Sang thu của Hữu Thỉnh được chúng tôi tổng hợp chi tiết, chính xác và được đăng tải ngay sau đây.

Hy vọng đây là tài liệu bổ ích mang lại cho các em học sinh tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo và tải mẫu tại đây.

Cảm nhận khổ thơ cuối bài Sang thu – Mẫu 1

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khác giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm.

“Sang thu” là một áng thơ xinh xắn dâng tặng Nàng Thu của một thi nhân – một thi nhân yêu quý mùa thu như bao thi nhân khác – Hữu Thỉnh. Bài thơ có khổ thơ mở đầu thật hay:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.|

Những câu thơ mở đầu bài thơ giản dị đến bất ngờ:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”.

“Bỗng” là bỗng nhiên, là bất ngờ, bất chợt. Đặt chữ “bỗng” ở đầu khổ thơ, đầu bài thơ để tất cả giác quan của ta được đánh động, phải giật mình mà chú ý đón nhận mọi biến đổi của đất trời. Biến đổi đầu tiên thu hút sự chú ý của nhà thơ là mùi hương nồng nàn của trái ổi chín thơm lừng. Ổi đã bắt đầu ủ mình để chín tự bao giờ và cũng lặng lẽ toả hương tự bao giờ nhưng vào khoảnh khắc này hương ổi mới đủ nồng nàn đánh thức giác quan của thi nhân. Hương thơm ấy rất mạnh, rất nồng nàn, ngào ngạt có vậy mới “phả vào trong gió se”. Ổi phải chín đến nhường nào, thơm ngon đến nhường nào hương thơm của nó mới đủ mạnh để tạo ra một sự lan toả như vậy trong không gian. Thứ hương thơm ấy lại lan toả trong làn gió se nhè nhẹ ren rét. “Gió se” là gió heo may, chúng đến với nhân gian vào mỗi dịp đầu thu làm tẽ tê, gai gai những cánh tay trần mềm mại. Trước Cách mạng, Xuân Diệu đã từng mang gió se đến cho người đọc với những thoáng rùng mình ớn lạnh: “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Nhưng câu thơ của Hữu Thình lại dắt mùa thu đến bên ta êm ái, dịu dàng biết bao. Viết về những làn sương mùa thu, nhà thợ cũng có cách viết thật duyên dáng: “Sương chùng chình qua ngõ”. “Chùng chình” là cố ý làm chậm lại. Thủ pháp nhân hoá đã biến sương thành những cô bé, cậu bé nghịch ngợm đung đưa náu mình trong ngõ xóm, chùng chình chẳng muốn tan đi.

Làng quê yêu mến dìu bước chân thi nhân đi từ hương ổi đến gió se… Rồi khi lạc giữa làn mây sớm chùng chình thì nhà thơ không nén nổi niềm xúc động, ông khe khẽ thì thầm: “Hình như thu đã về”. Từ “hình như” diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng băn khoăn rất tinh tế của nhà thơ khi ngỡ ngàng nhận ra “thu đã về”.

Khổ thơ đầu tiên của bài thơ “Sang thu” đặc biệt dịu dàng tinh tế, nó diễn tả những biến đổi tinh vi của đất trời và lòng người trong thời khắc giao mùa được chờ đợi rất nhiều trong năm: từ hạ chuyển sang thu. Khổ thơ đã góp phần quan trọng tạo nên bài thơ “Sang thu”, một áng thơ thu duyên dáng và tài tình trong thi đề mùa thu quen thuộc của văn học Việt Nam.

Cảm nhận khổ thơ cuối bài Sang thu – Mẫu 2

Cuối hạ, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng ai những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của thời đã qua.
Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu” – linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ cuối bài:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đừng tuổi”

Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là “vẫn còn” và “vơi dần” ,tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay gắt, chói chan cùng cơn mưa ào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng: “thu sang” và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm:

“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng câu đừng tuổi.”

“Sấm” – đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau cơn mưa lớn, “cây đứng tuổi” – theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà “sấm” ở đây cũng được xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn. Hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” – tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay chua chát của cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cỏi nước nhà.

Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng như yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này!

]]>
https://quatangtiny.com/cam-nhan-kho-tho-cuoi-bai-sang-thu-cua-huu-thinh-40147/feed 0
Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi https://quatangtiny.com/ke-ve-mon-an-lam-em-nho-mai-41021 https://quatangtiny.com/ke-ve-mon-an-lam-em-nho-mai-41021#respond Fri, 23 Oct 2020 13:00:19 +0000 https://quatangtiny.com/ke-ve-mon-an-lam-em-nho-mai-41021

Related posts:

  1. Thuyết minh về chiếc bánh chưng ngày Tết (Dàn ý + 10 mẫu)
  2. Bài văn mẫu Lớp 8: Bài viết số 2 (Đề 1 đến Đề 4)
  3. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
]]>
Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi

Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi, Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi giúp các bạn học sinh tham khảo thêm cách làm văn từ sự đồng thời

Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi là tài liệu rất hữu ích mà Tài Liệu Học Thi muốn giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bạn học sinh lớp 9 tham khảo.

Tài liệu tổng hợp 4 bài văn mẫu kể về món ăn làm em nhớ mãi. Với tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh tham khảo thêm cách làm văn từ sự đồng thời củng cố thêm vốn từ và học hỏi thêm nhiều ý tưởng hay. Sau đây là nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.

Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 1

Ở miền Tây Nam Bộ có một làng nghề rất đặc biệt, đó là làng chuột Phù Dật. Phù Dật thuộc ấp Bình Chiến, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh Anh Giang. Làng chuột Phù Dật nằm sát bên dòng kênh Phù Dật rộng lớn, có quốc lộ 91 từ Châu Đốc qua Long Xuyên rồi tỏa rả các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Làng Phù Dật hiện có 664 hộ, trong đó có 300 hộ chuyên sống bằng nghề săn bắt, mua bán chuột hoặc làm thịt chuột. Nhiều hộ gia đình đã xóa đói giảm nghèo bằng nghề này. Có không ít gia đình đã trở thành triệu phú, tậu thêm ruộng vườn, nuôi con vào Cao đẳng, Đại học bằng nghề săn bắt chuột, kinh doanh chuột.

“Vua chuột” ở làng Phù Dật là vợ chồng anh Lê Duy Khánh và chị Thu Giang. Anh Khánh vốn là lính trinh sát của Binh chủng Đặc công; chị Giang nay mới 33 tuổi nhưng đã có thâm niên trong nghề mua bán chuột hơn 20 năm rồi đó.

Mỗi ngày làng Phù Dật thường đánh bắt, thu mua và xuất ra các thị tứ, các quán nhậu đến năm sáu tấn thịt chuột. Lông, da, đuôi, tứ chị, ruột của ” cu tí” thì được các hộ nuôi cá bè bao tiêu hết.

Ngoài “chuột nội” còn có “chuột ngoại” nhập về. Từ bến đò Trại Thum (Campuchia), ngày nào cũng có một vài chuyến xe chở khoảng 2 tấn chuột về Phù Dật. Chuột sống, thịt chuột tươi ướp đá từ Phù Dật sẽ được đưa tới các nhà hàng ở tận Thành phố Hồ Chí Minh, vũng Tàu…

Dân nhậu cho biết thịt chuột ngon, đậm, thơm, giòn, bùi, ngọt, bổ dưỡng … hơn bất kì sơn hào hải vị nào. Người cao tuổi ăn thịt chuột thì mắt sáng ra,như được truyền thêm sinh khí; các chị nuôi con thơ chỉ cần ăn vài đĩa thịt chuột sẽ có nguồn sữa dồi dào, kẻ mới xuất viện về nhà chỉ ăn dăm bát cháo chuột tất sớm bình phục.

Một tay đầu bếp ” thượng hạng” nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu đã tự hào giới thiệu về các món đặc sản thịt chuột như sau: chuột chiên, chuột xào, chuột bó giò, nướng chao, xào rau răm, bóp gỏi, chiên vàng nấu canh chua, rô ti nước dừa, hấp nước mắm, hấp nước ngọt, thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng … . Các món thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng này cực kì đặc biệt. Trước đây Từ Hi thái hậu cũng chưa từng được thưởng thức; còn các vị đàn ông đa thê, các ả đàn bà góa hồi xuân, chỉ cần nếm qua một lần sẽ ” nhớ đời”.

Ở quán nhậu vùng Núi Cấm ( An Giang) có món “Trinh nữ kén chồng”. Giá ưu đãi cũng phải 100 đô!. Nguyên liệu chuẩn là chuột cái chưa sinh đẻ, phải đủ 9 con ( cửu mĩ nhân). Sau khi lột da, mổ bụng, cắt bỏ phần ruột, tứ chi, đuôi, giữ lại phần đầu, các ” nàng” được ướp gia vị với hỗn hợp gồm: thịt ba chỉ, gan heo, đậu xanh để nguyên vỏ, nấm mèo … . Tất cả được dồn vào bụng các “nàng” rồi khâu kín lại. Chuột được chiên vàng, sau đó sắp vào nồi đất, đổ nước dừa tươi lấp xấp ngang thịt chuột, bịt lá chuối tơ, đậy vung lại cho kín, lửa cỉu riu riu vừa phải, ninh cho đến lúc nước dừa sền sệt, trở cho chuột thấm đều. Món chuột “Trinh nữ kén chồng” có mùi vị cực kì hấp dẫn: thơm, béo, ngọt, đậm … . Thực khách phải cầm ngang ” cô ả” mà cắn, ăn nhỏ nhẹ như thả, kèm với rau răm, nhâm nhi với li rượu ” thiên điệp anh túc noãn kì tửu” thì sẽ không bao giờ quên vị đời! ( Một li rượu ” Thiên điệp…” này, giá “chiếu cố” là 150 ngàn đến 200 ngàn Việt Nam đồng, mọi thứ rượu Tây không thể nào sánh được!)

Bác Sáu Chì, một thương lái trên kênh Vĩnh Tế đã kể cho tôi nghe giai thoại sau: ” Một vị quan tham nọ bụng phệ, có nhiều đất nền trên một số chung cư, đô thị, có nhiều triệu đô la gửi ngân hàng Thụy Sĩ, có một biệt thự ở Vương quốc Anh sương mù, và có nhiều cô bồ nhí chân dài! Hắn ta bị sứ giả của Diêm Vương bắt đóng gông, giải xuống ngục Cửu U. Lúc đưa lên giàn hỏa thiêu tra tấn, chỉ mới được một lúc, nước mỡ trong bụng hắn trào ra, một mùi thơm xông lên ngào ngạt. Bọn quỷ sứ cứ đứng há mồm, hít ra hít vào liên tục. Bỗng một con quỷ sứ mắt xanh mỏ đỏ thét lên: ” Tắt lửa! Ngừng thui!” Pháp quan đến gần tên tội đồ, hỏi: ” Trên cõi trần , mi ăn chi mà lắm mỡ rứa, thịt mi thơm rứa?”

– Bẩm đại quan! Con ghiền ” Thiên điệp anh túc noãn kì tửu” và món thịt chuột ” Trinh nữ kén chồng” ạ ! Rát bỏng con lắm! Oan con lắm ! Xin Ngài thương con mà tha cho!

Bầy quỷ sứ cười ầm lên!

Bác Sáu Chì mỉm cười , hỏi tôi:

– Thế chú giáo đã mấy lần đến nhà hàng Núi Cấm thưởng thức món đặc sản thịt chuột ” Trinh nữ kén chồng” và kì tửu ” Thiên điệp….”? Cứ nói thiệt đi!

– Bác Sáu ơi! Tiền lương ba cọc ba đồng. Vợ thất nghiệp, còn mẹ già và hai con đang đi học phổ thông, lấy tiền mô mà xài cái món đặc sản đó!

– Tui hỏi cho biết thôi! Chứ nhìn cái bộ hiền lành và cù đờ của chú thi tui đã rõ. Chứ bà già năm nay mấy mươi rồi?…

Trên đây là những điều tôi nghe thấy, nhìn thấy vào tháng 7 năm 2009, khi tôi đến Châu Đốc và An Giang có chút công việc.

Lúc tạm biệt, bác Sáu Chì nắm lấy vai tôi dặn đi dặn lại: “Mùa thi sang năm, chú có vô đây, thế nào tui cũng đãi chú món thịt chuột ” Trinh nữ kén chồng” một bữa cho đã!…

Bỗng một tiếng hò trong vắt ngân dài cất lên trên dòng kênh:

” Còn non, còn nước, còn dài,

Còn về còn nhớ đến người hôm nay”.

Tôi đứng lặng trên bến. Lòng man mác bâng khuâng dõi nhìn con thuyền bác Sàu Chì khuất dần trên dòng kênh.

Mờ xa trong bóng chiều tím thẫm là ngọn núi Sam, nơi có lăng Thoại Ngọc Hầu và bà Đại phu nhân Vĩnh Tế.

Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 2

Gần hết năm rồi. Đi ra chợ, hàng rau – quả – củ…, cứ cách vài bước đã thấy người ta đổ đông kiệu bán. Để làm kiệu, phải có giấm. Thế nên, tôi lại nhớ một “món” mà mẹ hay làm: giấm nuôi.

Mẹ tôi hay mua chuôi xiêm cho cả nhà ăn. Lâu lâu, tôi thấy mẹ cất riêng ra vài trái, để chín muồi. Lúc nào như vậy, tôi biết mẹ tôi định làm giấm mới. Trước tiên, mẹ tôi đã chuẩn bị một cái hũ dung tích khoảng 2 – 3 lít, đã được rửa sạch và thật khô, rồi mẹ tôi cho khoảng nửa xị rượu đế, nước dừa tươi lọc thật sạch, không có một chút bụi nào vào hũ. Kế đến, mẹ tôi lột vỏ chuôi, lột hết những đường chỉ còn bám thân trái chuôi, để lộ một lớp cám óng ánh, chuôi chín có mùi thơm ngọt thật dễ chịu dễ thèm(nhưng lúc ấy, có thèm cũng không được, vì mẹ đã dành làm giấm mà)

Đoạn, mẹ đặt trái chuối nằm lên mặt thớt (cũng thật sạch và khô), mẹ dùng con dao to bản, ép nhẹ trái chuối cho dẹp xuống, rồi cho vào trong hũ hỗn hợp nước dừa, rượu trắng để sẵn. Cứ thế, với trái thứ hai, thứ ba. Một hũ, nhiều lắm là ba trái chuôi thôi. Sau đó, mẹ đậy nắp hũ lại, rồi cẩn thận bao quanh hũ bằng một lớp giấy báo. Mẹ nói: không ai được tò mò mà mở ra nhìn đó nhé, vì nó mắc cỡ, sẽ không thành giấm đâu. Và mẹ giấu kĩ vào góc khuất của tủ chén.

Độ đôi ba tháng, khi lũ nhỏ chúng tôi quên khuây đi mất, thì mẹ kêu chúng tôi vào bếp, mở lớp giấy báo bọc ngoài hũ ra cho chúng tôi xem. Thích chưa bơi là đà trong hũ là những màng trăng trắng, mẹ tôi gọi đó là con giấm. Trong khi chúng tôi còn tròn mắt ngạc nhiên, mẹ đã đưa ngón tay trỏ lên môi, ra dấu suỵt như thể ngăn chúng tôi đừng làm ồn, kẻo con giấm kinh động mà biến mất vậy. Rồi mẹ lại cẩn thận bọc giấy báo lại, cất đi.

Khi mẹ tôi bắt đầu chiết giấm, là chúng tôi biết mẹ đã tính tới làm điệu, làm đồ chua bao nhiêu hũ, hũ lớn, hũ nhỏ, hũ nào nhà dùng, hũ nào đem biếu. Trước Tết ta độ nửa tháng, mẹ tôi nấu giấm đường, để nguội rồi rót vào hũ cho ngập kiệu, củ cải (đã được cắt tỉa, phơi nắng). Giấm đường mẹ tôi nấu khá đặc, làm cho kiệu, củ cải bóng mật, mau chua mà giòn vị đậm đà rất riêng biệt. Ai ăn dưa kiệu mẹ tôi làm, đều khen ngon, hương giấm khó quên.

Mấy hũ giấm nuôi ấy tiết kiệm cho mẹ tôi tiền mua chanh. Nhà tôi hay ăn nước – mắm – giấm hơn là nước – mắm – chanh. Xa mẹ, tôi không có thói quen làm giấm, nhiều khi đi mua giấm ở tiệm, ngửi mùi là chỉcó đổ đi chứ không ăn nổi. Và vì thế, tôi lại đổi thói quen ra làm nước mắm chanh. Nhưng cứ cuối năm ta, chanh thường lên giá, rồi lại cần giấm để làm kiệu, tôi lại nhớ giấm mẹ tôi nuôi.

Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 3

Thời còn học phổ thông ở miền Bắc lần đầu tiên tôi được dùng cỗ chay ở một ngôi chùa nhỏ. Gọi là cỗ cho oai chứ ở vùng quê nghèo chỉ có vài món “sở trường”: Rau muống luộc, nộm đu đủ xanh (trộn với lạc), chuối xanh om với đậu phụ, lá tía tô, khoai sọ (khoai môn sáp vàng) nấu canh, đĩa muối vừng (mè) đen, đĩa muối lạc (đậu phụng). Sang nhất là món đậu phụ rán, đậu đũa xào và đậu phụ kho với nước tương đậu nành.

Thời ấy ở vùng sơn cước và đang chiến tranh, lưu thông trắc trở, làm gì có các loại nấm, có xì dầu để chế tác ra những món vừa ngon vừa bắt mắt như cỗ tiệc chay bây giờ. Thế nhưng, khi bày biện lên, dù chỉ có rau, củ, quả trong vườn nhưng cũng đủ các sắc màu xanh, đỏ, tím, vàng, trắng hồng tỏa hương thơm đặc trưng của đồng nội, tinh hoa của đất trời.

Từ xa xưa đến giờ, ở đây nhà chùa vẫn làm cỗ chay từ những nguyên liệu tự cung tự cấp. Ấy vậy mà với chúng tôi hồi đó trừ ba ngày tết thì nằm mơ cũng không có được bữa chay như thế. Tuổi thơ quanh năm vơi các món chủ lực là dưa cà mắm muối. Canh rau muống, cà pháo đạm bạc, nhưng là hương vị thân thiết của quê nhà, là nỗi nhớ da diết lòng người mỗi lúc đi xa. Những món ăn dân dã đơn sơ ấy đủ no lòng mát dạ để tuổi thơ chạy nhảy suốt ngày, lớn lên lao động, học hành thành đạt, nên người.

Sau năm 1975 gia đình tôi hồi hương về Huế, các món chay nhanh chóng trở nên thân thiết và khoái khẩu. Món ăn ngon ngoài bản thân nó còn nhờ nghệ thuật chế biến và gia vị kèm theo. Món mặn đã vậy, với các món chay thì gia vị càng quan trọng hơn.

Đặc sản “quê hương tuổi thơ tôi” cũng có bánh đa, bánh đúc. Thuở nhỏ chúng tôi thường ăn bánh đúc chấm nước mắm, chấm ruốc. Có lần, để đổi món, mẹ tôi làm bánh đúc chấm với nước tương đậu nành. Trời mùa đông, miếng bánh đúc nóng hổi, mới bốc hơi đã nghe cái mùi nồng nồng của vôi lẫn trong bột bánh, quyện với mùi hành phi trong chén nước tương đã làm cho cái lạnh tự nhiên tan biến mất.

Mẹ giải thích: Mùa hè nắng nóng thì ăn bánh đúc với giá đỗ, rau kinh giới, chấm với nước tương nguyên chất (không cần phải phi hành cho nóng) ăn đến đâu mát đến đó. Miếng bánh đúc màu trắng đục chấm với tương màu nâu hồng đặc sánh, vừa ngon vừa thân thuộc vô cùng. Xuất thân trong một gia đình dòng dõi hoàng tộc nhưng mẹ tôi rất sành các món dân dã và “hội nhập” rất nhanh với “đặc sản” vùng sơn cước Nghệ Tĩnh.

Dì Ba kể, mẹ cháu sướng lắm, chỉ biết học, không phải đi chọ nấu ăn như dì. Mẹ biết nấu ăn ngon là nhờ thưở học trường Đồng Khánh có môn nữ công gia chánh, đi tản cư nhớ và vận dụng. Sau này tôi mới biết hồi ấy mẹ đã thuộc lòng nhiều bài thơ trong cuốn “Thực phổ bách thiên” của bà Trương Đăng Thị Bích, con dâu ông hoàng thơ Tùng Thiện Vương. Mỗi lần nấu canh mít non mẹ bảo tôi đi hái đọt sân ở các hàng rào vườn nhà hàng xóm làm gia vị, trong khi dân ở đây chỉ biết nấu với lá lốt mọc um tùm. Mẹ đã bày cho tôi theo chỉ dẫn từ câu “Canh mít ưa dùng sân với lốt/Bí ngô thì phải tỏi gia vào”,…

Khi gia đình đã về Huế, tôi còn học đại học ở Vinh. Mỗi lần về nghỉ hè, nghỉ tết tôi xách theo mấy chai nước tương đặc sản Nam Đàn. Nước tương dùng để chấm rau muống luộc, để kho cá đồng thì khỏi chê. Tôi có bà cô là em họ ông ngoại, cũng từ Huế ra miền Bắc trong kháng chiến chống Pháp, cũng đã từng ở Nam Đàn. Bà dặn lần sau về mua thêm cho bà một chai để biếu người bạn ở trên chùa. Bà nói, tương nhà chùa làm rất ngon, do chính tay các sư cô làm. Nhưng tương Nam Đàn đậm đà, có mùi vị riêng và bổ hơn nhờ chất lượng hạt đậu nành. Xin được nói thêm, đậu nành rất giàu đạm, giá trị bổ dưỡng không thua kém gì thịt, cá. Đậu nành còn cho ta sữa mà cả thế giới đều mê, loại sữa thực vật không thua kém sữa động vật.

Tôi hỏi vì sao tương Huế có hương vị khác tương Nam Đàn, vốn đã nổi tiếng, từ lâu đã được đưa vào “từ điển” dân gian: “Nhút Thanh Chương tương Nam Đàn”. Bà cười nói, chẳng có bí quyết gì cả, cái chính là ở tay người làm. Hồi ở Hà Nội có lần bà cũng đã hỏi một người chuyên làm tương bán buôn, vì sao cũng tương Bần mà có người làm ngon có người làm không ngon? Bà này trả lời: Làm quan có mả, ngả tương có tay. Ngoài Bắc người ta gọi là ngả tương, nén cà. Nén cà cũng phải có tay thì mới vừa độ mặn và trắng, giòn. Nhà chùa có cái tâm thanh tịnh, thư thái nên làm gì kết quả cũng mãn nguyện, chuyện chế tác các món chay cũng như thế.

Tôi nghĩ rằng ngon ít ngon nhiều còn tùy thuộc khẩu vị, sở thích mỗi người. Tương Nam Đàn hương vị khác tương Huế, tương Bần nhưng kể về số lượng thì đầu bảng. Không có vùng quê nào tương nhiều như ở Nam Đàn và nhút nhiều như ở Thanh Chương. Cà pháo cũng không có nơi nào vừa ngon vừa giòn vừa nhiều như ở xứ Nghệ. Nguyên Ngọc nói núi Ngọc Linh, ở Quảng Nam, có mỏ đá mài đủ dùng cho một trăm cuộc khởi nghĩa. Bài “Trường ca cây cà” của Phùng Quán kết thúc bằng hai câu: “Tổ quốc ta đủ cà đủ muối/Đủ đất nung một ngàn chiếc vại”. Nhưng đó là cách nói khiêm tốn trong thi ca. Có lần trên chiếu rượu Phùng quán hào sảng: Đất Nghệ Tĩnh có dư cà ăn để đánh thắng mười thằng đế quốc, thực dân xâm lược. Người xứ Bắc có câu “Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”. Bên cạnh cà pháo (quả nhỏ) người nông dân còn chọn cà dừa (quả lớn) dầm tương để ăn quanh năm bốn mùa.

Mùa hè năm 1992, anh bạn tôi từ Sài Gòn điện thoại ra nhờ một việc hết sức hệ trọng. Anh lỡ hứa với mấy người bạn từ Pháp về là tổ chức đi tour ra Huế ba ngày, mỗi ngày sẽ được đi thăm ít nhất ba điểm, ăn ba bữa, mỗi bữa 5 món. Từ đi chơi đến đi ăn đều không được “đụng hàng”. Chơi thì không có chỗ nào giống chỗ nào. Ăn thì không có món nào được lặp lại lần thứ hai. Bây giờ nhà nhà làm dịch vụ, sản phẩm du lịch phong phú, nhà hàng đặc sản mọc ra như nấm. Nhưng hồi đó mới mở cửa, đổi mới được vài năm, đáp ứng được yêu cầu này quả không dễ.

Tôi phải mất không dưới ba lần ngồi thiết kế tour và lên thực đơn mới tạm ổn. Ngày thứ ba cạn nguồn. Buổi sáng tôi dẫn cả đoàn sang cầu Đông Ba ăn cháo gạo với cá bống kho rim. Ai không hợp khẩu vị thì ăn xôi, cũng với cá bống và tôm rim khô cứng. Ai ăn chay thì dùng xôi với muối mè, muối đậu phụng, uống sữa đậu nành.

Hôm ấy du thuyền về Cồn Hến, Bao Vinh rồi ngược lên thăm chùa Thiên Mụ và điện Hòn Chén nên buổi trưa tôi thiết kế bánh chưng Nhật Lệ ăn với dưa món, bánh mỳ kẹp chả, hoặc mỳ bơ cho người ăn chay, thâm xâu nem – tré lai rai trên thuyền. Tráng miệng thì dùng Thanh Trà và khế ngọt mua ngay trong vườn một nhà người quen ở Nguyệt Biểu. Buổi tối, kết thúc tour ba ngày bằng bữa cơm chay. Đó là “bữa cơm chay nhớ đời” như lời phát biểu cảm tưởng của các vị khách Việt Kiều sau khi chắp tay vái, nói lời cám ơn và chào tạm biệt sư cô trụ trì.

Anh bạn tôi năn nỉ mãi tôi mới lên chùa Hương Sơn cậy nhờ Ni sư Minh Bổn lo giúp. Bữa cơm chay đãi khách nên có vài món giả mặn: Chả giò, chả quế nem rán, thịt gà xé, thịt heo quay, cá thu sốt cà chua. Còn lại cũng đến gần chục món là đồ chay nguyên bản, chay đúng nghĩa với cái thanh tịnh làm đầu: Đậu phụ chiên vàng, ớt đỏ, cơm trắng, rau xanh luộc chín chấm tương hồng… Món nào cũng đậm đà, mát ngọt lạ thường. Rau muống chẳng cần mắm nêm, rau cải chẳng cần nước mắm nhĩ, đậu phụ chẳng cần ruốc thơm… Nước chấm chủ lực vẫn là tương và xì dầu nhưng nhìn mâm cỗ tưởng như thấy cả tinh khí đất trời tụ họp cả ở đây. Các sư cô như có phép lạ. Qua bàn tay vàng của họ các món ăn dân dã nào cũng đều trở thành đặc sản, thành ngự thiện, dù có gia thêm tôm, thịt, trứng, ốc, hến… thì cũng chỉ ngon được đến thế mà thôi. Tất nhiên, tôi phải dặn trước anh bạn, vì rất quý tôi nên các cô mới làm giúp bữa tiệc chay này. Nhưng các ông không được uống bia, mà chở theo xe thùng nước khoáng và thùng Coca Cola. Phải sắm một mâm trái cây thật đẹp mắt, trước khi dùng bữa phải lên chính diện dâng hương đảnh lễ Phật.

Vừa thấm đói vừa lạ miệng ai cũng không ngớt lời khen ngon. Ni sư Minh Bổn hình như cũng thấy mát lòng và vui lây. Sư đi quanh bàn giới thiệu đặc điểm và cách chế tác từng món. Sư bảo: Muốn nấu ăn ngon thì người nấu phải thực lòng mong muốn người thưởng thức được ngon miệng. Tấm lòng người nhà Phật chỉ mong cái an bình, phúc hạnh đến với mọi người, cho nên các món ăn cũng phải thanh tao và có sự hướng thiện… Mấy ông khách Việt kiều dùng đũa nghe như nhấm nháp từng câu, từng lời.

Ăn chay từ xa xưa đã là một đặc sản của Huế. Nghệ thuật chế biến các món ăn chay ở Huế trở thành một đỉnh cao là nhờ vai trò “thủ đô Phật giáo” của Huế. Các chúa Nguyễn, vua Nguyễn lấy Phật giáo làm Quốc giáo, cả Hoàng tộc nhà Nguyễn theo đạo phật. Cả một tầng lớp quý tộc từ sành đến “nghiện” ăn chay. Không những chỉ có các tu sĩ Phật giáo ăn chay mà trong các gia đình Phật tử mỗi tháng ít nhất cũng có hai ngày ăn chay cho nên các món chay ở Huế vừa phong phú vừa ngon và sang trọng. Nếu khách đến Huế mà được mời một bữa cơm ngự thiện tại một phủ đệ, hay một bữa cơm chay ở một ngôi chùa thì đó là một sự ưu ái và quý mến đặc biệt của gia chủ.

Ni sư Minh Bổn tiễn cà đoàn đến tận tam quan. Chúng tôi lên xe, trở dốc Nam Giao về khách sạn. Mấy vị khách Việt kiều thổ lộ, trong lòng mình cứ lâng lâng như vừa trở về từ cõi Phật, như vừa bước ra từ một giấc mơ êm dịu trong cổ tích ngày xửa ngày xưa

Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 4

Làng Thổ Hà lưu luyến du khách không chỉ với bánh đa nem mềm mại, bánh đa vừng giòn thơm, mỳ gạo sợi trắng muốt, mà còn khiến những ai đã qua muốn ghé thêm lần nữa vì những nụ cười.

Trẻ con gặp người lạ nhe những chiếc răng sún làm duyên trước ống kính máy ảnh, chị bán hàng nước đon đả mời khách ngồi bên quầy hàng dưới gốc đa, và nếu có nhu cầu được hỏi về xuất xứ của những chiếc bánh đa giòn rụm đang cầm trên tay, những cụ già trong làng không ngần ngại mời bạn ghé vào gia đình họ, nhìn họ tráng bánh, quạt bánh trên những lò than hồng rực.

Nằm ven sông Cầu, 3 mặt giáp sông, làng Thổ Hà (xã Vân Hà, huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang) khác với các làng khác của vùng quê Bắc Bộ là không có ruộng. Người dân nơi đây bao đời sống bằng nghề thủ công. Trước kia, cùng Bát Tràng, Phù Lãng, đây là một trung tâm làm gốm sầm uất của Việt Nam có từ thế kỉ 14.

Nổi tiếng với các sản phẩm chum, vại, chõ, tiểu sành với thứ men nâu bóng, gốm Thổ Hà theo chân những nhà buôn qua sông Cầu đến mọi miền đất nước. Cùng thăng trầm của lịch sử, đến Thổ Hà hôm nay, người ta chỉ bắt gặp dấu tích của một làng gốm cổ truyền ở những bức tường được dựng bằng những mảnh chum, vại, tiểu sành, kết dính bằng lầm, một thứ đất đặc biệt, sau bao năm vẫn vững chãi cùng thời gian.

Từ bến đò đặt chân đến đất làng Thổ Hà, gặp ngay ở chợ làng Thổ Hà những chị ngồi bán hàng mời khách ăn chè, mua bánh đa vừng. Đi sâu vào trong làng, choáng ngợp bởi màu trắng lóa của những phên tre phơi bánh đa nem, bánh đa vừng. Trong cái nắng đầu hè, nhà nhà phơi bánh. Bánh đa nem nay được tráng bằng máy, mỏng dính, được phơi trên những tấm phên hình chữ nhật dài. Sau khi phơi khô, từ tấm đa nem lớn này sẽ được cắt thành từng tấm tròn, hay vuông, rồi mới đóng gói. Trước sân chùa, sau những phên tre phơi bánh, bọn trẻ đang nghịch nước, hồn nhiên khoe với khách lạ về nghề tráng bánh đa nhà mình.

Thổ Hà đông trẻ con. Cả làng có đến mấy nhà trẻ, sân đền sâu trong làng cũng là nơi trông trẻ. Bọn trẻ quen với việc làng có khách, vô tư tạo dáng trước ống kính. Một cháu bé khi được hỏi về món ăn bé đang ăn ngon lành trên tay, không ngần ngại mời cô món ăn “đặc sản” nơi đây: bánh đa nem xào bột ớt chấm nước mắm cay ngọt.

Làng Thổ Hà nhiều ngõ, những ngõ hẹp sâu hun hút, nhà cửa san sát. Những bức tường có lẽ đã có hàng trăm năm tuổi. Muốn vào phải gọi cửa thật lớn vì ở Thổ Hà thú vị là nhà nào cũng… nuôi chó. Người làng thấy khách qua, cười hiền, nói cứ đi lại thoải mái, chó không dữ. Giữa 1h trưa, giờ nghỉ của mọi nhà, nhưng khi bước vào một gia đình phơi nhiều bánh đa vừng trước cửa, tôi vẫn nhận được nụ cười niềm nở của chú chủ nhà. Tay không ngớt đảo những phên bánh cho đều nắng, chú Trịnh Đắc Hạnh, người tráng bánh đời thứ 5 của gia đình nói cho tôi cách thế nào để có được những chiếc bánh đa ngon, khách ăn một lần rồi nhớ mãi, cần gạo, lạc, vừng ra sao, phơi nắng thế nào để bánh không bị cong, vỡ.

Bánh đa vừng Thổ Hà, từng được dân địa phương nơi đây ví vui “Kì phùng địch thủ” với bánh đa làng Kế, cũng ở Bắc Giang. Chú Hạnh chìa cho tôi xem những lát lạc tươi vừa xắt mỏng và nói, bí quyết làm nên những chiếc bánh đa vừng Thổ Hà ăn một lần rồi nhớ mãi. Chiếc bánh đa ngon, phải tráng làm 2 lượt, phơi đến 3 nắng cho đủ độ giòn khi quạt. Cái khéo của người tráng bánh đa Thổ Hà là phải làm sao căn được thời tiết có âm u hay không để mà rắc thêm vài cọng dừa nạo vào mặt bánh, khi chiếc bánh khô, nướng trên than hồng, nghe thấy vị ngọt và béo của cùi dừa tan trên lửa.

Không ngại ngần kể với tôi những nhọc nhằn của nghề làm bánh đa truyền thống của gia đình, chú Hạnh nói, về chất lượng, bánh đa Thổ Hà chẳng kém ở đâu, vì nguyên liệu là nguyên chất, không hề pha trộn. Rồi chỉ cho tôi không gian nhỏ bé của gia đình nhưng được tận dụng mọi diện tích để tráng bánh, phơi bánh, quạt bánh, chú cũng thật thà chia sẻ: “Nhiều khi cũng e ngại vấn đề vệ sinh, nhưng căn bản cũng vì làng mình chật quá…”

Chia tay Thổ Hà khi nắng còn chưa tắt, tôi vẫn nhớ nụ cười của chị hàng nước khi mời chúng tôi thử món bánh đa nem trộn bột ớt, nhớ cái niềm nở của cô chú làm bánh đa vừng hứa khi quay lại sẽ để dành hẳn cho những cái bánh đa vừng loại ngon, nhớ cả nụ cười đen nhánh của một cụ gặp ở đầu làng khi hỏi đường sang làng Vân, gặp cụ Tom, mua cho được lít rượu nếp cái hoa vàng…

Có nhiều điều làm nên sức sống, linh hồn của một ngôi làng. Ở Thổ Hà, người ta hiểu, đó là sự chân tình, mến khách của một làng quê ven một khúc sông Cầu thanh bình, êm ả.

]]>
https://quatangtiny.com/ke-ve-mon-an-lam-em-nho-mai-41021/feed 0
Phân tích tác phẩm Bắc Sơn (Dàn ý + 4 mẫu) https://quatangtiny.com/phan-tich-tac-pham-bac-son-43667 https://quatangtiny.com/phan-tich-tac-pham-bac-son-43667#respond Fri, 23 Oct 2020 09:08:45 +0000 https://quatangtiny.com/phan-tich-tac-pham-bac-son-43667

Related posts:

  1. So sánh tiếng chim hót trong Chí Phèo và tiếng sáo thổi trong Vợ chồng A Phủ (Dàn ý + 2 mẫu)
  2. Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến (Dàn ý + 11 mẫu)
  3. Phân tích truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu (Dàn ý + 16 mẫu)
]]>
Phân tích tác phẩm Bắc Sơn (Dàn ý + 4 mẫu)

Phân tích tác phẩm Bắc Sơn (Dàn ý + 4 mẫu), Mời các thầy cô giáo và các bạn cùng tham khảo bài văn lớp 9 Phân tích tác phẩm Bắc Sơn. Đây là tài liệu vô cùng hữu

Mời thầy cô và các bạn tham khảo bài văn mẫu lớp 9: Phân tích tác phẩm Bắc Sơn được đội ngũ chúng tôi đăng tải ngay sau đây.

Đây là bài văn Phân tích tác phẩm Bắc Sơn bao gồm dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu tham khảo, là tà liệu vô cùng hữu ích giúp cho các bạn có thể củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 9 của mình.

Phân tích tác phẩm Bắc Sơn

Dàn ý phân tích tác phẩm Bắc Sơn

I. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Huy Tưởng: một nhà văn chủ chốt của nền văn học Việt Nam.

– Khái quát về đoạn trích: thuộc lớp 2,3 hồi 4 của kịch “Bắc Sơn”: đoạn trích đã thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù, đồng thời thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật Thơm,

II. Thân bài

1. Tình huống kịch

– Khi Thái, Cửu bị Ngọc truy đuổi chạy vào đúng nhà Thơm (vợ Ngọc), tình huống này buộc buộc nhân vật Thơm phải có chuyển biến thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng.

2. Nhân vật Thơm

– Hoàn cảnh:

+ Cha, em trai: hi sinh.

+ Mẹ: bỏ đi.

– Còn một người thân duy nhất là Ngọc – chồng.

+ Sống an nhàn, được chồng chiều chuộng (sắm sửa, may mặc…).

– Tâm trạng: Luôn day dứt, ân hận về cha, mẹ.

– Thái độ với chồng:

+ Băn khoăn, nghi ngờ chồng làm Việt gian.

+ Tìm cách dò xét.

+ Cố níu chút hi vọng về chồng.

– Hành động:

+ Che giấu Thái, Cửu – hai chiến sĩ cách mạng ngay trong buồng của mình.

+ Khôn ngoan, che mắt Ngọc bảo vệ cho 2 chiến sĩ cách mạng.

⇒ Nghệ thuật miêu tả ⇒ Hành động táo bạo, bất ngờ ⇒ Là người có bản chất trung thực, lòng tự trọng, nhận thức về cách mạng nên đã biến chuyển thái độ, đứng hẳn về phía cách mạng.

⇒ Khẳng định chân lý: Cuộc đấu tranh cách mạng ngay cả khi bị đàn áp khốc liệt cũng sẽ không thể bị tiêu diệt, vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian như Thơm.

2. Nhân vật Ngọc

– Là nhân vật giả nhân giả nghĩa.

– Ham muốn địa vị, quyền lực, tiền tài.

– Làm tay sai cho giặc (Việt gian).

– Tên Việt gian bán nước đê tiện, đáng khinh, đáng ghét.

⇒ Là một người hám lợi, hám danh.

3. Nhân vật Thái, Cửu

– Bị truy đuổi – chạy vào nhà Thơm.

– Thái: giữ lại, tươi cười, định chạy ra cửa ⇒ Hành động bình tĩnh, sáng suốt.

– Cửu: vẻ mặt thất sắc, chĩa súng định bắn thất vọng, hoài nghi ⇒ Nóng nảy, hăng hái nhưng thiếu chín chắn.

⇒ Những chiến sĩ cách mạng kiên cường trung thành đối với Tổ quốc, cách mạng, đất nước…

III. Kết bài:

– Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:

+ Nghệ thuật: Cách tạo dựng tình huống sử dụng ngôn ngữ đối thoại.

+ Nội dung: Thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật Thơm – người phụ nữ có chồng theo giặc – đứng hẳn về phía cách mạng.

Phân tích tác phẩm Bắc Sơn – Mẫu 1

Nguyễn Huy Tưởng là một nhà viết kịch tài ba của Việt Nam, ông đã để lại rất nhiều vở kịch hay, có giá trị về nội dung cũng như tư tưởng như vở kịch “Vĩnh biệt cửu trùng đài”… nhưng tác phẩm kịch mở đầu cho sự nghiệp sáng tác kịch về đề tài chiến tranh phải kể đến vở kịch “Bắc Sơn”, đây là vở kịch viết về đề tài cách mạng, qua đó cũng thể hiện được nhiều xung đột kịch được nhà văn hé mở và giải quyết một cách khéo léo và cuối cùng, qua những xung đột ấy đã khắc họa được thành công vẻ đẹp của nhân Thơm, người đã đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, bỏ qua những tình cảm cá nhân mà một lòng đi theo và ủng hộ Cách mạng.

Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi bốn của vở kịch “Bắc Sơn”. Ở trong hồi này, nhân vật trung tâm của những xung đột và hành động kịch xoay quanh cuộc đối thoại của hai nhân vật Thơm và Ngọc. Và cuối cùng, sau sự đấu tranh nội tâm dữ dội cùng với sự day dứt,đau khổ khôn nguôi thì Thơm cũng quyết định đi theo và tin tưởng cách mạng, một lòng ủng hộ phong trào Bắc Sơn, đứng về phía Cách mạng thay vì bênh vực người chồng đầu gối tay ấp nhưng lại là tên Việt gian bán nước của mình. Ta có thể thấy qua tác phẩm quyết định này của Thơm không hề dễ dàng chút nào, và xoay quanh bao nhiêu xung đột kịch thì Nguyễn Huy Tưởng cũng đã giải quyết một cách khéo léo, để cho nhân vật Thơm đi theo cách mạng cũng là tư tưởng, lòng tin của ông dành cho cuộc khởi nghĩa này.

Cái tạo nên sự hấp dẫn của các vở kịch không chỉ là những nhân vật kịch, tình huống kịch mà còn là những xung đột kịch mà các nhà viết kịch khéo léo lồng vào, tạo ra sự đấu tranh của các nhân vật sau đó thì gỡ nút thắt của những xung đột kịch ấy bằng những giải quyết, những lựa chọn sáng suốt, qua đó để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật kịch cũng như thể hiện được ý niệm, quan điểm của nhà văn trong đó. Trong vở kịch Bắc Sơn, cụ thể ở hồi mười bốn này thể hiện được những xung đột kịch gay cấn, đẩy nhân vật Thơm vào những sự đau khổ, day dứt và cuối cùng phải đưa ra những lựa chọn đầy khó khăn, theo ai và bỏ ai, theo chồng phản Cách mạng hay theo cách mạng mà phản bội lại tình cảm vợ chồng.

Thơm là con gái của cụ Phương và là chị gái của Sáng, đây là hai người chiến sĩ cách mạng kiên trung, hết mình chiến đấu trong phong trào Bắc Sơn, họ là những người anh hùng thực sự. Nhưng thật éo le thay khi Thơm cũng là vợ của Ngọc, một tên Việt gian bán nước, vì tiền bạc, lợi ích cá nhân mà Ngọc đã phản bội lại Cách mạng, hắn ta đầu hàng giặc, làm tay sai cho chúng. Hắn cũng là tên chỉ điểm cho bọn thực dân Pháp địa điểm làng Vũ Lăng, là nơi tập trung, là căn cứ điểm của phong trào Bắc Sơn, cũng vì sự phản bội này mà bao nhiêu người yêu nước đã bị hắn gián tiếp sát hại, phong trào cách mạng lao đao bởi sự truy lùng dáo diết của quân Pháp.

Như vậy, ta có thể thấy ngay phần đầu thì nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã đặt Thơm vào những xung đột, nhưng điều đáng nói là Thơm không hề biết bộ mặt thật của Ngọc, không biết chồng mình là một tên Việt gian bán nước mà vẫn một lòng yêu thương cũng như tin tưởng chồng. Vì vậy, trước những hành động và lời nói đáng nghi ngờ của Ngọc cùng với những dự cảm bất an về con người thật của chồng thì Thơm đã có những đấu tranh nội tâm gay gắt, đó cũng là khi xung đột kịch được bắt đầu. Tình huống mà Thơm biết rõ về sự thật nghiệt ngã về Ngọc, đó là khi Ngọc dẫn người truy bắt hai chiến sĩ cách mạng là Thái và Cửu.

Nhưng trùng hợp thay, Thái và Cửu lại chạy trốn, ấp nấp vào trong chính ngôi nhà của Thơm và Ngọc, trong cuộc truy bắt, Ngọc đã có cuộc đối thoại với Thơm, ở đây thì xung đột chính thức diễn ra. Dù đã nghe rất nhiều lời không hay về Ngọc nhưng với tấm lòng của một người vợ thủy chung, luôn yêu thương, tin tưởng chồng thì Thơm vẫn không tin rằng chồng mình là kẻ bán nước. Trong cuộc đối thoại với chồng, Thơm đã nảy sinh những nghi ngờ, che giấu cho Thái và Cửu. Nhưng những hoài nghi của Thơm đều bị cho những lời lẽ ngon ngọt của Ngọc làm cho lung lay, Ngọc nới với Thơm rằng Thái và Cửu là những kẻ mật thám, và mình cũng không phải kẻ phản bội. Khi ấy Thơm đã vô cùng bấn loạn, cô không biết phải suy nghĩ sao cho đúng, mặc dù không muốn tin là chồng là kẻ bán nước nhưng linh tính lại mách bảo những điều ngược lại. Đây chính là xung đột đầu tiên của vở kịch.

Xung đột thứ hai của vở kịch, đó là khi Thơm quyết định tin và đi theo Cách mạng, xung đột này diễn ra giữa ba nhân vật, đó chính là Thơm, Cửu và Thái. Trước sự lưỡng lự của Thơm, Cửu đã rút súng định bắn thơm vì cho rằng Thơm cũng giống như tên việt gian bán nước chồng mình, nhưng lúc đó Thái đã ngăn cản kịp thời, chính hành động của Thái ấy đã tác động, cảm hóa đến Thơm, cô quyết tâm ủng hộ cách mạng, dùng lời nói của mình để đánh lạc hướng chú ý của Ngọc đến Cửu và Thái, bảo vệ những người chiến sĩ Cách mạng ấy.

Phân tích tác phẩm Bắc Sơn – Mẫu 2

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, viết văn, làm báo từ trước 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, ông có nhiều đóng góp cho cách mạng và kháng chiến. Các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực, đậm chất anh hùng và không khí lịch sử. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Vở kịch Bắc Sơn được ông sáng tác và đưa lên sân khấu đầu năm 1946, trong khí thế sôi sục mở đầu kháng chiến. Bối cảnh của vở kịch là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940 I 1941) và nội dung xoay quanh những biến cố xảy ra trong gia đình cụ Phương, dân tộc Tày. Cụ Phương cùng con trai là Sáng hăng hái tham gia chiến đấu. Còn bà cụ và cô con gái là Thơm lại ngại ngần, xa lánh.

Cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi bước đầu. Tổ chức của ông giáo Thái là cán bộ Đảng đến giúp nhân dân củng cố phong trào. Quân Pháp do Ngọc (chồng của Thơm) dẫn đường đã kéo vào chiếm lại Vũ Lăng, đàn áp dã man quần chúng và truy lùng những cán bộ lãnh đạo. Quân khởi nghĩa phải rút vào rừng. Cụ Phương trong lúc dẫn đường, bị giặc Pháp bắn đã hi sinh. Trước cái chết của cha và em trai Thơm, bộ mặt Việt gian bán nước của tên Ngọc dần dần lộ rõ. Thơm vô cùng đau xót và ân hận.

Ở hồi 4 của vở kịch Bắc Sơn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng một tình huống đặc biệt để thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù; đồng thời phản ánh diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật Thơm – một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ đến chỗ đứng hẳn về phía cách mạng. Qua đó, tác giả khẳng định sức thuyết phục to lớn của chính nghĩa.

Sự kiện chính của hồi 4 như sau:

Thái cùng một cán bộ phong trào là Cửu bị giặc truy lùng ráo riết, vô tình chạy nhầm vào nhà Thơm, mà Ngọc – chồng Thơm lại đang dẫn lính đuổi bắt hai người. Thơm nhanh trí che giấu và cứu thoát họ. Bằng hành động ấy, Thơm đã dứt khoát đứng hẳn sang hàng ngũ cách mạng. Sau đó, biết tin Ngọc dẫn đường cho quân Pháp lên đánh úp lực lượng du kích, Thơm đã luồn rừng đi suốt đêm đến báo để họ kịp thời đối phó. Lúc quay về, bất ngờ gặp Ngọc, Thơm đã bị y bắn; nhưng chính Ngọc lại chết vì trúng đạn của quân Pháp.

Nội dung hồi 4 cho thấy nghệ thuật viết kịch rất già dặn của Nguyễn Huy Tưởng. Thành công nổi bật là tác giả đã tạo dựng nên tình huống bất ngờ, gay cấn để đẩy mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm, bộc lộ tâm lí và tính cách nhân vật.

Thơm là vợ Ngọc – một tên tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Đã quen với cuộc sống an nhàn và ngại gian khổ nên Thơm không tham gia vào phong trào khởi nghĩa, mặc dù cha và em trai là những quần chúng tích cực. Tuy thế, ở Thơm vẫn chưa mất đi bản chất trung thực, lòng tự trọng và tính thương người. Thơm quý trọng ông giáo Thái là cán bộ được tổ chức cử đến giúp dân đẩy mạnh phong trào khởi nghĩa. Vì lực lượng yếu và thiếu kinh nghiệm nên phong trào cách mạng bị giặc đàn áp, cha và em trai Thơm đều hi sinh. Thơm ân hận và đau đớn khi biết chồng mình vì hám tiền, hám danh mà sẵn sàng làm tay sai cho Pháp, dẫn giặc về đốt phá bản làng, giết hại đồng bào.

Tâm trạng và hành động của Thơm được tác giả miêu tả trong hoàn cảnh éo le: cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, cha và em trai đã hy sinh, mẹ đau đớn đến điên dại bỏ nhà đi. Thơm chỉ còn người thân duy nhất là Ngọc, nhưng y đã dần dần lộ rõ bộ mặt Việt gian bán nước.

Bằng số tiền thưởng của bọn Pháp, Ngọc đã thỏa mãn những nhu cầu vật chất của vợ chồng hắn như tậu nhà mới, mua sắm nữ trang, quần áo… Tuy vậy, Thơm vẫn sống trong day dứt và ân hận. Hình ảnh người cha lúc hi sinh, những lời trăng trối cuối cùng của ông, khẩu súng trao lại cho Thơm, sự hi sinh của đứa em trai, nhất là tình cảnh thương tâm của người mẹ. Tất cả những hình ảnh ấy luôn ám ảnh, giày vò tâm trí cô.

Sự nghi ngờ của Thơm đối với Ngọc ngày càng tăng. Trong những lần trò chuyện với chồng, Thơm luôn tìm cách dò xét ý nghĩ và hành động của chồng để tìm hiểu sự thật, còn Ngọc thì luôn kiếm cớ lảng tránh. Tuy vậy, Thơm vẫn cố níu lấy một chút hy vọng: Đã chắc gì những lời đồn?… Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế?….

Một tình huống xảy ra hoàn toàn bất ngờ đối với Thơm, buộc cô phải lựa chọn thái độ dứt khoát: Thái và Cửu là hai cán bộ cách mạng bị bọn giặc truy lùng, đã chạy nhầm vào chính nhà Thơm, tức là nhà Ngọc. Ban đầu, Thơm hoảng sợ khi nghe tiếng súng nổ rất gần và sự xuất hiện đột ngột của Thái và Cửu. Nhưng với bản chất trung thực và lương thiện, cùng với sự quý mến sẵn có dành cho Thái và cả sự hối hận, tất cả những điều đó đã thôi thúc Thơm hành động một cách mau lẹ và khôn ngoan, không sợ nguy hiểm để che giấu Thái và Cửu ngay trong buồng ngủ của mình. Thơm nói với hai cán bộ cách mạng bằng giọng tự tin và quyết đoán: “Hai ông đừng nói nữa. Ngọc nó về. Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm ở đây, may ra…” Khi Ngọc về đến nhà, Thơm đã khôn ngoan, bình tĩnh che mắt Ngọc để bảo vệ họ. Lúc đầu, Thơm giả vờ ngủ gật để hướng sự chú ý của Ngọc sang việc khác.

Tiếp đến Thơm kể chuyện ở nhà nhớ Ngọc ra sao rồi bảo Ngọc mời những kẻ đang lùng bắt cán bộ lên nhà chơi. Thơm khéo léo nói những lời tình cảm để Ngọc ra lệnh cho bọn truy lùng rút lui. Đồng thời cũng chính lúc này, Thơm đã nhận rõ bộ mặt Việt gian cùng sự xấu xa bỉ ổi của chồng. Điều đó sẽ dẫn đến hành động chủ động của cô ở hồi cuối: khi biết Ngọc sẽ dẫn đường cho quân Pháp vào rừng lùng bắt những người khởi nghĩa, cô đã luồn tắt rừng suốt đêm để báo tin cho du kích kịp thời đối phó.

Bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh căng thẳng và tình huống gay cấn, tác giả đã thể hiện đời sống nội tâm phức tạp với những nỗi day dứt, đau xót và ân hận của Thơm, để rồi cô đã hành động dứt khoát, đứng hẳn về phía cách mạng. Qua nhân vật Thơm, Nguyễn Huy Tưởng khẳng định rằng ngay cả khi gặp khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng vẫn không thể bị tiêu diệt và nó vẫn có khả năng thức tỉnh quần chúng, ngay cả với những người ở vị trí trung gian.

Trong hồi 4, bản chất xấu xa của nhân vật Ngọc đã được tác giả miêu tả đầy đủ. Vốn chỉ là một gã thư ký quèn, địa vị thấp kém trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thỏa mãn ham muốn địa vị, quyền lực và tiền tài. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, bộ máy cai trị của thực dân ở châu Bắc Sơn bị lật đổ, Ngọc thù hận cách mạng. Y cam tâm làm tay sai cho giặc, trực tiếp dẫn quân Pháp về đánh Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa.

Càng ngày, Ngọc càng bộc lộ bản chất tàn bạo. Y ra sức truy lùng cán bộ cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu. Để che giấu hành động xấu xa của mình, Ngọc ra sức chiều chuộng vợ. Tuy vậy, tâm địa và tham vọng đen tối của Ngọc vẫn cứ lộ ra trước mắt Thơm, đặc biệt là khi Ngọc không giấu diếm thái độ ghen tức và ý đồ thẳng tay trừng trị “thằng Tốn” nào đó ở trong làng. Xây dựng một nhân vật phản diện như Ngọc, tác giả không đơn thuần tập trung vào hắn những cái xấu, cái ác mà bên cạnh đó vẫn chú ý khắc họa tính cách riêng.

Phân tích tác phẩm Bắc Sơn – Mẫu 3

Kịch Bắc Sơn là một trong những tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Huy Tưởng. Viết về chủ đề cách mang, vở kịch ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò của các cán bộ cách mạng trong việc định hướng tư tưởng đấu tranh của nhân dân. Qua đó, tác giả biểu dương tinh thần yêu nước và ý chiến quật cường chiến đấu của quần chúng. Hồi IV của vở kịch là một trong những đoạn nổi bật nhất với tình huống gấp gáp, thể hiện bước ngoặt kịch tính về cả tâm lí nhân vật và diễn biến sự kiện. Tính bi tráng là hơi thở nổi bật của hồi kịch này, được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ dân tộc Tày tiêu biểu cho hàng ngàn quần chúng nhân dân đã và đang trên con đường giác ngộ cách mạng.

Tính bi tráng, bi là bi ai, buồn bã, cồn trắng là hùng tráng, thể hiện vẻ đẹp lý tưởng. Bi tráng là đau thương, mất mát về một thời quá khứ oai hùng, vừa có tính bi thương, lại không hề kém phần gân guốc, hùng dũng. Trong vở kịch Bắc Sơn, tính bi tráng được thể hiện ở tinh thần cách mạng. bộc lộ qua những nút thắt tâm lí nhân vật và hình tượng nhân vật người phụ nữ đang trên con đường giác ngộ – cô Thơm. Chất anh hùng ca không được miêu tả trực tiếp, nhưng qua những cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật, cái bi tráng được bộc lộ một cách rõ nét và ngày càng có xu hướng tăng tiến.

Hồi năm của vở kịch kể về cảnh Ngọc dẫn Tây truy đuổi hai cán bộ Cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Rơi vào tình huống nguy kịch, hai người chạy trốn vào nhà anh Đốc người quen, ai ngờ lại đúng phải nhà tên Ngọc mới mua được. Cửu rút súng định bắn Thơm, vợ Ngọc vì cho rằng cô cũng là Việt gian nhưng Thái đã kịp ngăn cản vì tin rằng Thơm mang dòng máu yêu nước của cha cô. Đúng lúc ấy, Ngọc ghé qua nhà sau khi đã lùng sục nhà bà Lục, bác Chui,… Thơm nhanh trí đẩy hai cán bộ vào buồng và chỉ chỗ trốn, đồng thời tỏ ra bình thản trước mặt Ngọc để hắn không nghi ngờ và nhanh chóng rời đi

Tính bi tráng của vở kịch nằm ở mặt tình huống. Tình huống kịch tính, căng thẳng và hồi hộp. Thơm mang tiếng là vợ Việt gian, nhưng cô lại là người che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng. Trái với suy nghĩ “Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian” của anh Cửu, đứng trước áp lực Ngọc chuẩn bị vào nhà, tiếng chó săn sủa râm ran, tiếng chân người rầm rập, Thơm lo lắng: “Chết nổi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?”. Bản thân cô thực sự lo lắng, cố gắng tìm cách giúp đỡ hại cán bộ cách mạng. Bị đẩy vào tình huống nguy cấp, Thơm bộc lộ tính cách quyết liệt, khéo léo và có bước ngoặt tâm lý rõ ràng trên con đường giác ngộ Cách mạng. Lời nói như lời thề: “Tôi không bảo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không bảo hai ông đâu” là đỉnh cao của tính bi tráng về mặt tình huống của vở kịch. Cái bi tráng ở đây là chất anh hùng trong sự cùng khổ, trong tình huống khó khăn ngàn cân treo sợi tóc, những con người một lòng vì Cách mạng đã thể hiện tinh thần quả cảm, không đầu hàng trước khó khăn thử thách. “Có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại”. khép lại tình huống đầy căng thẳng, kịch tính. Vợ một tên Việt gian sừng sỏ đã che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng cho thấy, Thơm đã hoàn toàn giác ngộ, thể hiện tấm lòng của nhân dân với đường lối của Đảng.

Tính bi tráng cũng thể hiện ở xung đột giữa Thơm và Ngọc. Trong từng hành động và lời nói, Ngọc dần bộc lộ bản mặt bán nước, một tay sai đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi lùng bắt cán bộ. Hắn được thưởng rất nhiều tiền từ việc làm bất nhân tính của hắn, hắn mơ hàm cửu phẩm, lúc nào cũng nghĩ đến danh tính: “Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!”. Ngoài ra, hắn còn đặt điều bôi nhọ anh Thái, phá bỏ hình tượng về anh Thái trong mắt Thơm. Với Thơm, anh Thái là người “bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng”, “cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!”, như Ngọc lại bịa đặt: “mật thám cho Tây đấy “, lúc thì lại bảo anh Cửu và ông Thái là “hai cái thằng tướng cướp. Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng”. Chính từ những mâu thuẫn về mặt tư tưởng giữa Thơm và Ngọc như vậy đã gây ra những xung đột tâm lý từ phía Thơm. Khi ông Thái và anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm, ở dưới là lý trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục và cả Ngọc, chồng của Thơm, tình huống này đã thể hiện tính bi tráng điển hình. Ngọc chần chừ trong nhà, nán lại nói chuyện với Thơm, đếm tiền, cười cợt, ngắm vợ, rồi còn thốt lên: “Chắc là nó còn ở đấy, nhất định là nó còn ở đấy!…”. Đứng trước tình huống như vậy, Thơm không tỏ ra sốt ruột dù trong lòng như lửa đốt mà tỏ ra rất nhẹ nhàng, tình cảm, dùng lời nói ngọt ngào:”Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức” thể hiện thái độ ân cần, quan tâm, đồng thời khéo léo thúc đẩy Ngọc đi: “Thế nào có đi không?” lúc nghe tiếng quan gọi. Thơm đóng kịch giỏi hay là vì quá lo lắng cho hai cán bộ mà cô đã dìm nỗi sợ hãi của mình xuống. Qua mắt được tên Việt gian khôn ngoan, mà người đó còn là chồng mình, tác giả đã thể hiện tâm trạng nhân vật đầy tính bi tráng, trong khó khăn, gian khổ nhưng luôn ứng biến kịp thời, lộ rõ chất anh hùng, dũng cảm chảy trong huyết thống.

Tính bi tráng thể hiện rõ nhất qua hình tượng nhân vật Thơm, người phụ nữ hơn sáu chục năm về trước. Vượt qua cảnh ngộ đau thương mất mát, mất cha mẹ, Thơm được con đường cách mạng soi sáng, sẵn sàng hi sinh vì cách mạng. Tinh thần của những nhân vật trong vở kịch giống như tinh thần của những người lính ra trận, sáng chói, quyết tâm. Nhân vật Thơm là một sự thành công của tác giả trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, qua đó thể hiện tính bi tráng của tác phẩm. Trong khổ đau, gian khó, họ vẫn bộc lộ tính thần cao cả, hùng tráng của người con nhân dân trung thực, quả cảm.

Tính bi tráng trong hồi IV vở kịch Bắc Sơn được thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ nhân vật đến tình huống. Nói về tính bi tráng trong khuôn khổ Vũ Lăng nói riêng hay chính là toàn thể lãnh thổ Việt Nam, những người chiến sĩ nhân dân dũng cảm, không ngại xả thân vì đất nước. Bằng ngòi bút sắc sảo và cách xây dựng tình huống truyện kịch tính, Nguyễn Huy Tưởng thể hiện sự tin tưởng vào con đường cách mạng – con đường duy nhất để đi tới độc lập dân tộc, đồng thời thể hiện sự thương yêu và trân trọng với những người thật thà, chân phương mà giàu sức sống, giàu lòng quyết chiến quyết thắng.

Phân tích tác phẩm Bắc Sơn – Mẫu 4

Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà viết kịch tài ba. Tác phẩm của ông đều thể hiện được hiện thực một cách vô cùng khéo léo và chân thật. Trong đó Bắc Sơn là vở kịch đầu tiên viết về đề tài cách mạng của ông, giúp cho người xem có thể hiểu được sức mạnh của cách mạng đối với nhân dân trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Trong đoạn trích là những xung đột kịch điển hình, tái hiện cả cuộc đời của nhân vật Thơm trong truyện.

Thơm là con gái của cụ Phương và là chị gái của Sáng. Đây đều là hai chiến sĩ tham gia vào cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Thế nhưng hoàn cảnh mới thật trái ngang làm sao khi cô lại là vợ của một tên việt gian tên là Ngọc. Chính hắn là kẻ đã chỉ điểm cho quân Pháp khiến cho chúng tấn công vào đại bản doanh của quân khởi nghĩa, gây những thiệt hại vô cùng to lớn cho quân khởi nghĩa.

Và thật không may mắn khi bố của Thơm và em trao đều đã hi sinh trong cuộc đàn áp ấy. Ngọc là kẻ ích kỷ và tham lam nên lúc nào cũng chỉ muốn tìm những cán bộ để tố cáo với thực dân Pháp nhằm lấy được khoản tiền thưởng của mình. Tình huống đã bất ngờ xảy ra khi hai chiến sĩ mà Ngọc đang lùng bắt là Thái và Cửu lại lọt vào trong chính ngôi nhà của Thơm và Ngọc. Chính trong hoàn cảnh này, xung đột đã được đẩy lên cao trào khi Thơm đã mưu trí đánh lừa Ngọc để giấu cán bộ, bảo vệ tính mạng của những người theo Đảng.

Màn kịch được bắt đầu bằng cuộc đối thoại của hai vợ chồng. Tuy Ngọc bao che thân phận là tay sai chỉ điểm cho giặc của mình. Thế nhưng, Thơm vẫn nghi ngờ về thân phận của hắn do những lời đồn của những người xung quanh. Thế nhưng, Ngọc lại là một kẻ gian manh, xảo trá. Hắn lừa dối người vợ nhẹ dạ và trong sáng của mình, dùng những lời lẽ nịnh bợ để khiến cho Thơm mất đi sự cảnh giác và tin vào những lời nói của hắn. Thậm chí, khi Thơm nhìn, hắn đã hoảng hốt “Mắt cứ như mắt chú ấy”.

Ngay lúc Thơm ngỏ ý nghi ngờ Ngọc đi bắt Thái và Cửu- hai chiến sĩ của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn giống như cha và em trai của Thơm thì cô đã thấy Ngọc tỏ thái độ muốn bao che, lấp liếm bằng những lời nói dối của mình. Thế nhưng, bằng con mắt quan sát, cô đã nhìn thấy được bản chất của hắn qua những biểu hiện và lời nói của hắn. Trước đây, vốn là một người luôn an phận thủ thường, thế nhưng, sau khi được cha và em trai phân tích thì cô cũng hiểu được đâu là việc đúng đắn, thấy được ánh mắt giả dối của chồng cô cũng khuyên chồng nên dừng lại vì cô hiểu đó chính là một việc làm sai trái và không có lợi ích cả hơn nữa đó chính là một hành vi bán nước mà thôi.

Biết không thể thay đổi được suy nghĩ của Thơm, Ngọc đã lừa dối Thơm bằng cách nói rằng Thái chính là mật thám khiến cho Thơm bị lẫn lộn và không thể tìm ra được sự thật. Đó chính là những bi kịch và xung đột trong lòng của cô, cô không muốn tin chồng mình là kẻ bán nước, nhưng linh tính lại mách bảo cho cô điều đó mà cô cũng không biết phải làm thế nào khi những nghi ngờ của mình được sáng tỏ.

Tình huống thứ hai diễn ra khi Thơm đã tin tưởng vào đoàn quân Bắc Sơn. Cũng chính là lúc này, xung đột thứ hai lại xảy ra giữa ba nhân vật: Cửu, Thơm và Thái. Lúc ấy Cửu rút súng ra định bắn Thơm vì cho rằng Thơm cũng giống như người không ham hư vinh của mình. Thế nhưng ngay lập tức, Thái đã ngăn hành động ấy lại chính điều đó đã làm cho Thơm được cảm hóa hoàn toàn, đứng về phía những người cách mạng. cũng nhờ có điều ấy mà Thơm đã cố gắng giúp đỡ, giải thoát thành công cả hai người chiến sĩ thoát khỏi vòng vây của kẻ địch, lừa được Ngọc và những kẻ đi cùng để bắt hai người chiến sĩ.

……………..

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!

]]>
https://quatangtiny.com/phan-tich-tac-pham-bac-son-43667/feed 0