Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi, Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi giúp các bạn học sinh tham khảo thêm cách làm văn từ sự đồng thời
Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi là tài liệu rất hữu ích mà Tài Liệu Học Thi muốn giới thiệu đến quý thầy cô cùng các bạn học sinh lớp 9 tham khảo.
Tài liệu tổng hợp 4 bài văn mẫu kể về món ăn làm em nhớ mãi. Với tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh tham khảo thêm cách làm văn từ sự đồng thời củng cố thêm vốn từ và học hỏi thêm nhiều ý tưởng hay. Sau đây là nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.
Xem Tắt
Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 1
Ở miền Tây Nam Bộ có một làng nghề rất đặc biệt, đó là làng chuột Phù Dật. Phù Dật thuộc ấp Bình Chiến, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh Anh Giang. Làng chuột Phù Dật nằm sát bên dòng kênh Phù Dật rộng lớn, có quốc lộ 91 từ Châu Đốc qua Long Xuyên rồi tỏa rả các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Làng Phù Dật hiện có 664 hộ, trong đó có 300 hộ chuyên sống bằng nghề săn bắt, mua bán chuột hoặc làm thịt chuột. Nhiều hộ gia đình đã xóa đói giảm nghèo bằng nghề này. Có không ít gia đình đã trở thành triệu phú, tậu thêm ruộng vườn, nuôi con vào Cao đẳng, Đại học bằng nghề săn bắt chuột, kinh doanh chuột.
“Vua chuột” ở làng Phù Dật là vợ chồng anh Lê Duy Khánh và chị Thu Giang. Anh Khánh vốn là lính trinh sát của Binh chủng Đặc công; chị Giang nay mới 33 tuổi nhưng đã có thâm niên trong nghề mua bán chuột hơn 20 năm rồi đó.
Mỗi ngày làng Phù Dật thường đánh bắt, thu mua và xuất ra các thị tứ, các quán nhậu đến năm sáu tấn thịt chuột. Lông, da, đuôi, tứ chị, ruột của ” cu tí” thì được các hộ nuôi cá bè bao tiêu hết.
Ngoài “chuột nội” còn có “chuột ngoại” nhập về. Từ bến đò Trại Thum (Campuchia), ngày nào cũng có một vài chuyến xe chở khoảng 2 tấn chuột về Phù Dật. Chuột sống, thịt chuột tươi ướp đá từ Phù Dật sẽ được đưa tới các nhà hàng ở tận Thành phố Hồ Chí Minh, vũng Tàu…
Dân nhậu cho biết thịt chuột ngon, đậm, thơm, giòn, bùi, ngọt, bổ dưỡng … hơn bất kì sơn hào hải vị nào. Người cao tuổi ăn thịt chuột thì mắt sáng ra,như được truyền thêm sinh khí; các chị nuôi con thơ chỉ cần ăn vài đĩa thịt chuột sẽ có nguồn sữa dồi dào, kẻ mới xuất viện về nhà chỉ ăn dăm bát cháo chuột tất sớm bình phục.
Một tay đầu bếp ” thượng hạng” nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu đã tự hào giới thiệu về các món đặc sản thịt chuột như sau: chuột chiên, chuột xào, chuột bó giò, nướng chao, xào rau răm, bóp gỏi, chiên vàng nấu canh chua, rô ti nước dừa, hấp nước mắm, hấp nước ngọt, thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng … . Các món thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng này cực kì đặc biệt. Trước đây Từ Hi thái hậu cũng chưa từng được thưởng thức; còn các vị đàn ông đa thê, các ả đàn bà góa hồi xuân, chỉ cần nếm qua một lần sẽ ” nhớ đời”.
Ở quán nhậu vùng Núi Cấm ( An Giang) có món “Trinh nữ kén chồng”. Giá ưu đãi cũng phải 100 đô!. Nguyên liệu chuẩn là chuột cái chưa sinh đẻ, phải đủ 9 con ( cửu mĩ nhân). Sau khi lột da, mổ bụng, cắt bỏ phần ruột, tứ chi, đuôi, giữ lại phần đầu, các ” nàng” được ướp gia vị với hỗn hợp gồm: thịt ba chỉ, gan heo, đậu xanh để nguyên vỏ, nấm mèo … . Tất cả được dồn vào bụng các “nàng” rồi khâu kín lại. Chuột được chiên vàng, sau đó sắp vào nồi đất, đổ nước dừa tươi lấp xấp ngang thịt chuột, bịt lá chuối tơ, đậy vung lại cho kín, lửa cỉu riu riu vừa phải, ninh cho đến lúc nước dừa sền sệt, trở cho chuột thấm đều. Món chuột “Trinh nữ kén chồng” có mùi vị cực kì hấp dẫn: thơm, béo, ngọt, đậm … . Thực khách phải cầm ngang ” cô ả” mà cắn, ăn nhỏ nhẹ như thả, kèm với rau răm, nhâm nhi với li rượu ” thiên điệp anh túc noãn kì tửu” thì sẽ không bao giờ quên vị đời! ( Một li rượu ” Thiên điệp…” này, giá “chiếu cố” là 150 ngàn đến 200 ngàn Việt Nam đồng, mọi thứ rượu Tây không thể nào sánh được!)
Bác Sáu Chì, một thương lái trên kênh Vĩnh Tế đã kể cho tôi nghe giai thoại sau: ” Một vị quan tham nọ bụng phệ, có nhiều đất nền trên một số chung cư, đô thị, có nhiều triệu đô la gửi ngân hàng Thụy Sĩ, có một biệt thự ở Vương quốc Anh sương mù, và có nhiều cô bồ nhí chân dài! Hắn ta bị sứ giả của Diêm Vương bắt đóng gông, giải xuống ngục Cửu U. Lúc đưa lên giàn hỏa thiêu tra tấn, chỉ mới được một lúc, nước mỡ trong bụng hắn trào ra, một mùi thơm xông lên ngào ngạt. Bọn quỷ sứ cứ đứng há mồm, hít ra hít vào liên tục. Bỗng một con quỷ sứ mắt xanh mỏ đỏ thét lên: ” Tắt lửa! Ngừng thui!” Pháp quan đến gần tên tội đồ, hỏi: ” Trên cõi trần , mi ăn chi mà lắm mỡ rứa, thịt mi thơm rứa?”
– Bẩm đại quan! Con ghiền ” Thiên điệp anh túc noãn kì tửu” và món thịt chuột ” Trinh nữ kén chồng” ạ ! Rát bỏng con lắm! Oan con lắm ! Xin Ngài thương con mà tha cho!
Bầy quỷ sứ cười ầm lên!
Bác Sáu Chì mỉm cười , hỏi tôi:
– Thế chú giáo đã mấy lần đến nhà hàng Núi Cấm thưởng thức món đặc sản thịt chuột ” Trinh nữ kén chồng” và kì tửu ” Thiên điệp….”? Cứ nói thiệt đi!
– Bác Sáu ơi! Tiền lương ba cọc ba đồng. Vợ thất nghiệp, còn mẹ già và hai con đang đi học phổ thông, lấy tiền mô mà xài cái món đặc sản đó!
– Tui hỏi cho biết thôi! Chứ nhìn cái bộ hiền lành và cù đờ của chú thi tui đã rõ. Chứ bà già năm nay mấy mươi rồi?…
Trên đây là những điều tôi nghe thấy, nhìn thấy vào tháng 7 năm 2009, khi tôi đến Châu Đốc và An Giang có chút công việc.
Lúc tạm biệt, bác Sáu Chì nắm lấy vai tôi dặn đi dặn lại: “Mùa thi sang năm, chú có vô đây, thế nào tui cũng đãi chú món thịt chuột ” Trinh nữ kén chồng” một bữa cho đã!…
Bỗng một tiếng hò trong vắt ngân dài cất lên trên dòng kênh:
” Còn non, còn nước, còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hôm nay”.
Tôi đứng lặng trên bến. Lòng man mác bâng khuâng dõi nhìn con thuyền bác Sàu Chì khuất dần trên dòng kênh.
Mờ xa trong bóng chiều tím thẫm là ngọn núi Sam, nơi có lăng Thoại Ngọc Hầu và bà Đại phu nhân Vĩnh Tế.
Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 2
Gần hết năm rồi. Đi ra chợ, hàng rau – quả – củ…, cứ cách vài bước đã thấy người ta đổ đông kiệu bán. Để làm kiệu, phải có giấm. Thế nên, tôi lại nhớ một “món” mà mẹ hay làm: giấm nuôi.
Mẹ tôi hay mua chuôi xiêm cho cả nhà ăn. Lâu lâu, tôi thấy mẹ cất riêng ra vài trái, để chín muồi. Lúc nào như vậy, tôi biết mẹ tôi định làm giấm mới. Trước tiên, mẹ tôi đã chuẩn bị một cái hũ dung tích khoảng 2 – 3 lít, đã được rửa sạch và thật khô, rồi mẹ tôi cho khoảng nửa xị rượu đế, nước dừa tươi lọc thật sạch, không có một chút bụi nào vào hũ. Kế đến, mẹ tôi lột vỏ chuôi, lột hết những đường chỉ còn bám thân trái chuôi, để lộ một lớp cám óng ánh, chuôi chín có mùi thơm ngọt thật dễ chịu dễ thèm(nhưng lúc ấy, có thèm cũng không được, vì mẹ đã dành làm giấm mà)
Đoạn, mẹ đặt trái chuối nằm lên mặt thớt (cũng thật sạch và khô), mẹ dùng con dao to bản, ép nhẹ trái chuối cho dẹp xuống, rồi cho vào trong hũ hỗn hợp nước dừa, rượu trắng để sẵn. Cứ thế, với trái thứ hai, thứ ba. Một hũ, nhiều lắm là ba trái chuôi thôi. Sau đó, mẹ đậy nắp hũ lại, rồi cẩn thận bao quanh hũ bằng một lớp giấy báo. Mẹ nói: không ai được tò mò mà mở ra nhìn đó nhé, vì nó mắc cỡ, sẽ không thành giấm đâu. Và mẹ giấu kĩ vào góc khuất của tủ chén.
Độ đôi ba tháng, khi lũ nhỏ chúng tôi quên khuây đi mất, thì mẹ kêu chúng tôi vào bếp, mở lớp giấy báo bọc ngoài hũ ra cho chúng tôi xem. Thích chưa bơi là đà trong hũ là những màng trăng trắng, mẹ tôi gọi đó là con giấm. Trong khi chúng tôi còn tròn mắt ngạc nhiên, mẹ đã đưa ngón tay trỏ lên môi, ra dấu suỵt như thể ngăn chúng tôi đừng làm ồn, kẻo con giấm kinh động mà biến mất vậy. Rồi mẹ lại cẩn thận bọc giấy báo lại, cất đi.
Khi mẹ tôi bắt đầu chiết giấm, là chúng tôi biết mẹ đã tính tới làm điệu, làm đồ chua bao nhiêu hũ, hũ lớn, hũ nhỏ, hũ nào nhà dùng, hũ nào đem biếu. Trước Tết ta độ nửa tháng, mẹ tôi nấu giấm đường, để nguội rồi rót vào hũ cho ngập kiệu, củ cải (đã được cắt tỉa, phơi nắng). Giấm đường mẹ tôi nấu khá đặc, làm cho kiệu, củ cải bóng mật, mau chua mà giòn vị đậm đà rất riêng biệt. Ai ăn dưa kiệu mẹ tôi làm, đều khen ngon, hương giấm khó quên.
Mấy hũ giấm nuôi ấy tiết kiệm cho mẹ tôi tiền mua chanh. Nhà tôi hay ăn nước – mắm – giấm hơn là nước – mắm – chanh. Xa mẹ, tôi không có thói quen làm giấm, nhiều khi đi mua giấm ở tiệm, ngửi mùi là chỉcó đổ đi chứ không ăn nổi. Và vì thế, tôi lại đổi thói quen ra làm nước mắm chanh. Nhưng cứ cuối năm ta, chanh thường lên giá, rồi lại cần giấm để làm kiệu, tôi lại nhớ giấm mẹ tôi nuôi.
Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 3
Thời còn học phổ thông ở miền Bắc lần đầu tiên tôi được dùng cỗ chay ở một ngôi chùa nhỏ. Gọi là cỗ cho oai chứ ở vùng quê nghèo chỉ có vài món “sở trường”: Rau muống luộc, nộm đu đủ xanh (trộn với lạc), chuối xanh om với đậu phụ, lá tía tô, khoai sọ (khoai môn sáp vàng) nấu canh, đĩa muối vừng (mè) đen, đĩa muối lạc (đậu phụng). Sang nhất là món đậu phụ rán, đậu đũa xào và đậu phụ kho với nước tương đậu nành.
Thời ấy ở vùng sơn cước và đang chiến tranh, lưu thông trắc trở, làm gì có các loại nấm, có xì dầu để chế tác ra những món vừa ngon vừa bắt mắt như cỗ tiệc chay bây giờ. Thế nhưng, khi bày biện lên, dù chỉ có rau, củ, quả trong vườn nhưng cũng đủ các sắc màu xanh, đỏ, tím, vàng, trắng hồng tỏa hương thơm đặc trưng của đồng nội, tinh hoa của đất trời.
Từ xa xưa đến giờ, ở đây nhà chùa vẫn làm cỗ chay từ những nguyên liệu tự cung tự cấp. Ấy vậy mà với chúng tôi hồi đó trừ ba ngày tết thì nằm mơ cũng không có được bữa chay như thế. Tuổi thơ quanh năm vơi các món chủ lực là dưa cà mắm muối. Canh rau muống, cà pháo đạm bạc, nhưng là hương vị thân thiết của quê nhà, là nỗi nhớ da diết lòng người mỗi lúc đi xa. Những món ăn dân dã đơn sơ ấy đủ no lòng mát dạ để tuổi thơ chạy nhảy suốt ngày, lớn lên lao động, học hành thành đạt, nên người.
Sau năm 1975 gia đình tôi hồi hương về Huế, các món chay nhanh chóng trở nên thân thiết và khoái khẩu. Món ăn ngon ngoài bản thân nó còn nhờ nghệ thuật chế biến và gia vị kèm theo. Món mặn đã vậy, với các món chay thì gia vị càng quan trọng hơn.
Đặc sản “quê hương tuổi thơ tôi” cũng có bánh đa, bánh đúc. Thuở nhỏ chúng tôi thường ăn bánh đúc chấm nước mắm, chấm ruốc. Có lần, để đổi món, mẹ tôi làm bánh đúc chấm với nước tương đậu nành. Trời mùa đông, miếng bánh đúc nóng hổi, mới bốc hơi đã nghe cái mùi nồng nồng của vôi lẫn trong bột bánh, quyện với mùi hành phi trong chén nước tương đã làm cho cái lạnh tự nhiên tan biến mất.
Mẹ giải thích: Mùa hè nắng nóng thì ăn bánh đúc với giá đỗ, rau kinh giới, chấm với nước tương nguyên chất (không cần phải phi hành cho nóng) ăn đến đâu mát đến đó. Miếng bánh đúc màu trắng đục chấm với tương màu nâu hồng đặc sánh, vừa ngon vừa thân thuộc vô cùng. Xuất thân trong một gia đình dòng dõi hoàng tộc nhưng mẹ tôi rất sành các món dân dã và “hội nhập” rất nhanh với “đặc sản” vùng sơn cước Nghệ Tĩnh.
Dì Ba kể, mẹ cháu sướng lắm, chỉ biết học, không phải đi chọ nấu ăn như dì. Mẹ biết nấu ăn ngon là nhờ thưở học trường Đồng Khánh có môn nữ công gia chánh, đi tản cư nhớ và vận dụng. Sau này tôi mới biết hồi ấy mẹ đã thuộc lòng nhiều bài thơ trong cuốn “Thực phổ bách thiên” của bà Trương Đăng Thị Bích, con dâu ông hoàng thơ Tùng Thiện Vương. Mỗi lần nấu canh mít non mẹ bảo tôi đi hái đọt sân ở các hàng rào vườn nhà hàng xóm làm gia vị, trong khi dân ở đây chỉ biết nấu với lá lốt mọc um tùm. Mẹ đã bày cho tôi theo chỉ dẫn từ câu “Canh mít ưa dùng sân với lốt/Bí ngô thì phải tỏi gia vào”,…
Khi gia đình đã về Huế, tôi còn học đại học ở Vinh. Mỗi lần về nghỉ hè, nghỉ tết tôi xách theo mấy chai nước tương đặc sản Nam Đàn. Nước tương dùng để chấm rau muống luộc, để kho cá đồng thì khỏi chê. Tôi có bà cô là em họ ông ngoại, cũng từ Huế ra miền Bắc trong kháng chiến chống Pháp, cũng đã từng ở Nam Đàn. Bà dặn lần sau về mua thêm cho bà một chai để biếu người bạn ở trên chùa. Bà nói, tương nhà chùa làm rất ngon, do chính tay các sư cô làm. Nhưng tương Nam Đàn đậm đà, có mùi vị riêng và bổ hơn nhờ chất lượng hạt đậu nành. Xin được nói thêm, đậu nành rất giàu đạm, giá trị bổ dưỡng không thua kém gì thịt, cá. Đậu nành còn cho ta sữa mà cả thế giới đều mê, loại sữa thực vật không thua kém sữa động vật.
Tôi hỏi vì sao tương Huế có hương vị khác tương Nam Đàn, vốn đã nổi tiếng, từ lâu đã được đưa vào “từ điển” dân gian: “Nhút Thanh Chương tương Nam Đàn”. Bà cười nói, chẳng có bí quyết gì cả, cái chính là ở tay người làm. Hồi ở Hà Nội có lần bà cũng đã hỏi một người chuyên làm tương bán buôn, vì sao cũng tương Bần mà có người làm ngon có người làm không ngon? Bà này trả lời: Làm quan có mả, ngả tương có tay. Ngoài Bắc người ta gọi là ngả tương, nén cà. Nén cà cũng phải có tay thì mới vừa độ mặn và trắng, giòn. Nhà chùa có cái tâm thanh tịnh, thư thái nên làm gì kết quả cũng mãn nguyện, chuyện chế tác các món chay cũng như thế.
Tôi nghĩ rằng ngon ít ngon nhiều còn tùy thuộc khẩu vị, sở thích mỗi người. Tương Nam Đàn hương vị khác tương Huế, tương Bần nhưng kể về số lượng thì đầu bảng. Không có vùng quê nào tương nhiều như ở Nam Đàn và nhút nhiều như ở Thanh Chương. Cà pháo cũng không có nơi nào vừa ngon vừa giòn vừa nhiều như ở xứ Nghệ. Nguyên Ngọc nói núi Ngọc Linh, ở Quảng Nam, có mỏ đá mài đủ dùng cho một trăm cuộc khởi nghĩa. Bài “Trường ca cây cà” của Phùng Quán kết thúc bằng hai câu: “Tổ quốc ta đủ cà đủ muối/Đủ đất nung một ngàn chiếc vại”. Nhưng đó là cách nói khiêm tốn trong thi ca. Có lần trên chiếu rượu Phùng quán hào sảng: Đất Nghệ Tĩnh có dư cà ăn để đánh thắng mười thằng đế quốc, thực dân xâm lược. Người xứ Bắc có câu “Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”. Bên cạnh cà pháo (quả nhỏ) người nông dân còn chọn cà dừa (quả lớn) dầm tương để ăn quanh năm bốn mùa.
Mùa hè năm 1992, anh bạn tôi từ Sài Gòn điện thoại ra nhờ một việc hết sức hệ trọng. Anh lỡ hứa với mấy người bạn từ Pháp về là tổ chức đi tour ra Huế ba ngày, mỗi ngày sẽ được đi thăm ít nhất ba điểm, ăn ba bữa, mỗi bữa 5 món. Từ đi chơi đến đi ăn đều không được “đụng hàng”. Chơi thì không có chỗ nào giống chỗ nào. Ăn thì không có món nào được lặp lại lần thứ hai. Bây giờ nhà nhà làm dịch vụ, sản phẩm du lịch phong phú, nhà hàng đặc sản mọc ra như nấm. Nhưng hồi đó mới mở cửa, đổi mới được vài năm, đáp ứng được yêu cầu này quả không dễ.
Tôi phải mất không dưới ba lần ngồi thiết kế tour và lên thực đơn mới tạm ổn. Ngày thứ ba cạn nguồn. Buổi sáng tôi dẫn cả đoàn sang cầu Đông Ba ăn cháo gạo với cá bống kho rim. Ai không hợp khẩu vị thì ăn xôi, cũng với cá bống và tôm rim khô cứng. Ai ăn chay thì dùng xôi với muối mè, muối đậu phụng, uống sữa đậu nành.
Hôm ấy du thuyền về Cồn Hến, Bao Vinh rồi ngược lên thăm chùa Thiên Mụ và điện Hòn Chén nên buổi trưa tôi thiết kế bánh chưng Nhật Lệ ăn với dưa món, bánh mỳ kẹp chả, hoặc mỳ bơ cho người ăn chay, thâm xâu nem – tré lai rai trên thuyền. Tráng miệng thì dùng Thanh Trà và khế ngọt mua ngay trong vườn một nhà người quen ở Nguyệt Biểu. Buổi tối, kết thúc tour ba ngày bằng bữa cơm chay. Đó là “bữa cơm chay nhớ đời” như lời phát biểu cảm tưởng của các vị khách Việt Kiều sau khi chắp tay vái, nói lời cám ơn và chào tạm biệt sư cô trụ trì.
Anh bạn tôi năn nỉ mãi tôi mới lên chùa Hương Sơn cậy nhờ Ni sư Minh Bổn lo giúp. Bữa cơm chay đãi khách nên có vài món giả mặn: Chả giò, chả quế nem rán, thịt gà xé, thịt heo quay, cá thu sốt cà chua. Còn lại cũng đến gần chục món là đồ chay nguyên bản, chay đúng nghĩa với cái thanh tịnh làm đầu: Đậu phụ chiên vàng, ớt đỏ, cơm trắng, rau xanh luộc chín chấm tương hồng… Món nào cũng đậm đà, mát ngọt lạ thường. Rau muống chẳng cần mắm nêm, rau cải chẳng cần nước mắm nhĩ, đậu phụ chẳng cần ruốc thơm… Nước chấm chủ lực vẫn là tương và xì dầu nhưng nhìn mâm cỗ tưởng như thấy cả tinh khí đất trời tụ họp cả ở đây. Các sư cô như có phép lạ. Qua bàn tay vàng của họ các món ăn dân dã nào cũng đều trở thành đặc sản, thành ngự thiện, dù có gia thêm tôm, thịt, trứng, ốc, hến… thì cũng chỉ ngon được đến thế mà thôi. Tất nhiên, tôi phải dặn trước anh bạn, vì rất quý tôi nên các cô mới làm giúp bữa tiệc chay này. Nhưng các ông không được uống bia, mà chở theo xe thùng nước khoáng và thùng Coca Cola. Phải sắm một mâm trái cây thật đẹp mắt, trước khi dùng bữa phải lên chính diện dâng hương đảnh lễ Phật.
Vừa thấm đói vừa lạ miệng ai cũng không ngớt lời khen ngon. Ni sư Minh Bổn hình như cũng thấy mát lòng và vui lây. Sư đi quanh bàn giới thiệu đặc điểm và cách chế tác từng món. Sư bảo: Muốn nấu ăn ngon thì người nấu phải thực lòng mong muốn người thưởng thức được ngon miệng. Tấm lòng người nhà Phật chỉ mong cái an bình, phúc hạnh đến với mọi người, cho nên các món ăn cũng phải thanh tao và có sự hướng thiện… Mấy ông khách Việt kiều dùng đũa nghe như nhấm nháp từng câu, từng lời.
Ăn chay từ xa xưa đã là một đặc sản của Huế. Nghệ thuật chế biến các món ăn chay ở Huế trở thành một đỉnh cao là nhờ vai trò “thủ đô Phật giáo” của Huế. Các chúa Nguyễn, vua Nguyễn lấy Phật giáo làm Quốc giáo, cả Hoàng tộc nhà Nguyễn theo đạo phật. Cả một tầng lớp quý tộc từ sành đến “nghiện” ăn chay. Không những chỉ có các tu sĩ Phật giáo ăn chay mà trong các gia đình Phật tử mỗi tháng ít nhất cũng có hai ngày ăn chay cho nên các món chay ở Huế vừa phong phú vừa ngon và sang trọng. Nếu khách đến Huế mà được mời một bữa cơm ngự thiện tại một phủ đệ, hay một bữa cơm chay ở một ngôi chùa thì đó là một sự ưu ái và quý mến đặc biệt của gia chủ.
Ni sư Minh Bổn tiễn cà đoàn đến tận tam quan. Chúng tôi lên xe, trở dốc Nam Giao về khách sạn. Mấy vị khách Việt kiều thổ lộ, trong lòng mình cứ lâng lâng như vừa trở về từ cõi Phật, như vừa bước ra từ một giấc mơ êm dịu trong cổ tích ngày xửa ngày xưa
Kể về món ăn làm em nhớ mãi – Mẫu 4
Làng Thổ Hà lưu luyến du khách không chỉ với bánh đa nem mềm mại, bánh đa vừng giòn thơm, mỳ gạo sợi trắng muốt, mà còn khiến những ai đã qua muốn ghé thêm lần nữa vì những nụ cười.
Trẻ con gặp người lạ nhe những chiếc răng sún làm duyên trước ống kính máy ảnh, chị bán hàng nước đon đả mời khách ngồi bên quầy hàng dưới gốc đa, và nếu có nhu cầu được hỏi về xuất xứ của những chiếc bánh đa giòn rụm đang cầm trên tay, những cụ già trong làng không ngần ngại mời bạn ghé vào gia đình họ, nhìn họ tráng bánh, quạt bánh trên những lò than hồng rực.
Nằm ven sông Cầu, 3 mặt giáp sông, làng Thổ Hà (xã Vân Hà, huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang) khác với các làng khác của vùng quê Bắc Bộ là không có ruộng. Người dân nơi đây bao đời sống bằng nghề thủ công. Trước kia, cùng Bát Tràng, Phù Lãng, đây là một trung tâm làm gốm sầm uất của Việt Nam có từ thế kỉ 14.
Nổi tiếng với các sản phẩm chum, vại, chõ, tiểu sành với thứ men nâu bóng, gốm Thổ Hà theo chân những nhà buôn qua sông Cầu đến mọi miền đất nước. Cùng thăng trầm của lịch sử, đến Thổ Hà hôm nay, người ta chỉ bắt gặp dấu tích của một làng gốm cổ truyền ở những bức tường được dựng bằng những mảnh chum, vại, tiểu sành, kết dính bằng lầm, một thứ đất đặc biệt, sau bao năm vẫn vững chãi cùng thời gian.
Từ bến đò đặt chân đến đất làng Thổ Hà, gặp ngay ở chợ làng Thổ Hà những chị ngồi bán hàng mời khách ăn chè, mua bánh đa vừng. Đi sâu vào trong làng, choáng ngợp bởi màu trắng lóa của những phên tre phơi bánh đa nem, bánh đa vừng. Trong cái nắng đầu hè, nhà nhà phơi bánh. Bánh đa nem nay được tráng bằng máy, mỏng dính, được phơi trên những tấm phên hình chữ nhật dài. Sau khi phơi khô, từ tấm đa nem lớn này sẽ được cắt thành từng tấm tròn, hay vuông, rồi mới đóng gói. Trước sân chùa, sau những phên tre phơi bánh, bọn trẻ đang nghịch nước, hồn nhiên khoe với khách lạ về nghề tráng bánh đa nhà mình.
Thổ Hà đông trẻ con. Cả làng có đến mấy nhà trẻ, sân đền sâu trong làng cũng là nơi trông trẻ. Bọn trẻ quen với việc làng có khách, vô tư tạo dáng trước ống kính. Một cháu bé khi được hỏi về món ăn bé đang ăn ngon lành trên tay, không ngần ngại mời cô món ăn “đặc sản” nơi đây: bánh đa nem xào bột ớt chấm nước mắm cay ngọt.
Làng Thổ Hà nhiều ngõ, những ngõ hẹp sâu hun hút, nhà cửa san sát. Những bức tường có lẽ đã có hàng trăm năm tuổi. Muốn vào phải gọi cửa thật lớn vì ở Thổ Hà thú vị là nhà nào cũng… nuôi chó. Người làng thấy khách qua, cười hiền, nói cứ đi lại thoải mái, chó không dữ. Giữa 1h trưa, giờ nghỉ của mọi nhà, nhưng khi bước vào một gia đình phơi nhiều bánh đa vừng trước cửa, tôi vẫn nhận được nụ cười niềm nở của chú chủ nhà. Tay không ngớt đảo những phên bánh cho đều nắng, chú Trịnh Đắc Hạnh, người tráng bánh đời thứ 5 của gia đình nói cho tôi cách thế nào để có được những chiếc bánh đa ngon, khách ăn một lần rồi nhớ mãi, cần gạo, lạc, vừng ra sao, phơi nắng thế nào để bánh không bị cong, vỡ.
Bánh đa vừng Thổ Hà, từng được dân địa phương nơi đây ví vui “Kì phùng địch thủ” với bánh đa làng Kế, cũng ở Bắc Giang. Chú Hạnh chìa cho tôi xem những lát lạc tươi vừa xắt mỏng và nói, bí quyết làm nên những chiếc bánh đa vừng Thổ Hà ăn một lần rồi nhớ mãi. Chiếc bánh đa ngon, phải tráng làm 2 lượt, phơi đến 3 nắng cho đủ độ giòn khi quạt. Cái khéo của người tráng bánh đa Thổ Hà là phải làm sao căn được thời tiết có âm u hay không để mà rắc thêm vài cọng dừa nạo vào mặt bánh, khi chiếc bánh khô, nướng trên than hồng, nghe thấy vị ngọt và béo của cùi dừa tan trên lửa.
Không ngại ngần kể với tôi những nhọc nhằn của nghề làm bánh đa truyền thống của gia đình, chú Hạnh nói, về chất lượng, bánh đa Thổ Hà chẳng kém ở đâu, vì nguyên liệu là nguyên chất, không hề pha trộn. Rồi chỉ cho tôi không gian nhỏ bé của gia đình nhưng được tận dụng mọi diện tích để tráng bánh, phơi bánh, quạt bánh, chú cũng thật thà chia sẻ: “Nhiều khi cũng e ngại vấn đề vệ sinh, nhưng căn bản cũng vì làng mình chật quá…”
Chia tay Thổ Hà khi nắng còn chưa tắt, tôi vẫn nhớ nụ cười của chị hàng nước khi mời chúng tôi thử món bánh đa nem trộn bột ớt, nhớ cái niềm nở của cô chú làm bánh đa vừng hứa khi quay lại sẽ để dành hẳn cho những cái bánh đa vừng loại ngon, nhớ cả nụ cười đen nhánh của một cụ gặp ở đầu làng khi hỏi đường sang làng Vân, gặp cụ Tom, mua cho được lít rượu nếp cái hoa vàng…
Có nhiều điều làm nên sức sống, linh hồn của một ngôi làng. Ở Thổ Hà, người ta hiểu, đó là sự chân tình, mến khách của một làng quê ven một khúc sông Cầu thanh bình, êm ả.