Văn mẫu lớp 8: Thuyết minh về đồ dùng trong gia đình (4 mẫu), Thuyết minh về đồ dùng trong gia đình gồm 4 mẫu, giúp các em học sinh lớp 8 tích lũy vốn từ để nhanh
Thuyết minh về đồ dùng trong gia đình gồm 4 mẫu, giúp các em học sinh lớp 8 tích lũy vốn từ để nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh về cái phích nước, thuyết minh bàn là, thuyết minh quạt điện, thuyết minh cái kéo…
Đây đều là những vật dụng vô cùng cần thiết trong mỗi gia đình, nhưng khi viết bài văn thuyết minh về đồ dùng trong gia đình thì nhiều học sinh còn bỡ ngỡ. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Tài Liệu Học Thi để có thêm nhiều ý tưởng mới:
Xem Tắt
Thuyết minh về cái phích nước
Nước là thứ không thể thiếu trong mỗi gia đình. Và để bảo quản và giữ nước được sạch, người ta sáng tạo ra những chiếc phích nước. Phích nước từ ngày ra đời đã là đồ vật không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày.
Chiếc phích nước đã ra đời từ rất lâu, trải qua bao năm tháng, được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau, trong đó được gọi một cách trang trọng là “chiếc bình thủy” theo tên Hán Việt. Còn từ “phích” là do phiên âm tiếng Pháp mà ra. Phích nước ra đời từ một đất nước châu Âu xa xôi vào thế kỉ XIX, sau đó mới du nhập tới VIệt Nam.
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại phích nước khác nhau, của nhiều nhãn hiệu, đa dạng về kích thước, chủng loại. Có loại to, loại nhỏ, loại cao, loại thấp. Loại to có thể chứa tới 2,5 đến 3 lít nước, nhỏ có thể chứa khoảng 1,5 lít. Ngoài loại giữ nóng thông thường còn có loại giữ lạnh rất hiệu quả.
Một chiếc phích nước có hình trụ, chiều cao khoảng 50cm, đường kính khoảng 15 đến 17 cm, càng gần miệng phích thì càng thu hẹp lại, tùy thuộc vào mẫu mã thiết kế của nhà sản xuất. Một chiếc phích nước bình thường có hai phần, phần vỏ ngoài và phần ruột phích. Vỏ phích thường được làm bằng chất liệu nhựa hoặc sắt để tăng độ bền, không bị gỉ, chịu được va đập mạnh khi di chuyển. Quai phích được gắn ở phần trên vỏ phích, thường cùng chất liệu với vỏ để cầm, xách khi đi lại rất tiện dụng và an toàn. Bên cạnh đó, hông phích cũng được gắn một tay cầm đứng, để dùng khi rót nước từ bình ra rất thuận lợi. Áp với miệng vỏ là nút phích thường được làm bằng bấc hoặc bằng nhựa. Nút này đậy rất chặt để tránh nhiệt từ bên trong phích bị bay ra ngoài. Bên ngoài nút phích là nắp đậy, tạo sự cân đối cho chiếc phích và cũng có thể dùng là cốc để uống nước. Để tạo sức hút cho chiếc phích, các nhà sản xuất cho in lên vỏ phích rất nhiều những hình hoa văn trang trí, hình hoa, hình lá, hình cỏ cây, phong cảnh, đủ loại, đủ màu sặc sỡ. Ở nước ta, nhà máy sản xuất phích nổi tiếng nhất là Rạng Đông. Bên cạnh đó còn có rất nhiều loại phích nhập khẩu khác. Bộ phận quan trọng nhất của chiếc phích là ruột phích, được tráng bạc ở giữa, có 2 lớp thủy tinh mỏng, lòng phích được tráng bạc, ở giữa là chân để giữ nhiệt. Ruột phích cũng có hình trụ như vỏ phích. Đáy phích có van khí và núm thủy ngân để ngăn sự truyền nhiệt ra ngoài
Chiếc phích được dùng để giữ nhiệt. Nếu một chiếc phích tốt có thể giữ nhiệt tốt trong vòng 6 tiếng, nước từ 100 độ giảm còn 70 độ. trong những hoàn cảnh cấp bách, người ta còn dùng để đựng cháo được lâu hơn. Chiếc phích ngày càng được cải tiến, hiện đại hơn, có loại có thể sử dụng để đun nước, có loại bình có hai ngăn một ngăn đựng nước nóng, một năng đựng nước lạnh
Để chọn phích cần phải có những lưu ý đặc biệt. Ruột phích là phần quan trọng nhất. Khi chọn phích cần phải mở nắp phích, nhìn vào từ bên trong, thấy lớp tráng bạc đều, có điểm màu nâu sẫm ở cuối giữa đáy, điểm để càng nhỏ thì thủy ngân càng tốt, càng giữ được nhiệt lâu. Bảo quản phích cũng cần chú ý. Khi mới mua về, trước khi sử dụng lần đầu tiên phải rót nước ấm vào phích nước, để khoản 30 phút rồi đổ đi, sau đó mới đổ nước vào sử dụng. Khi dùng phích lâu sẽ thấy có xuất hiện cặn màu vàng làm ảnh hưởng đến việc giữ nhiệt của phích.Khi đó chúng ta có thể dùng chanh để loại bỏ chúng. Nên để phích ở trên giá xa tầm tay trẻ nhỏ tránh làm các em bị bỏng. Khi rót nước sôi không nên rót đầy dễ bị tràn nhiệt ra ngoài.
Ngày nay, công nghệ phát triển, cho ra đời hàng trăm vật dụng khác nhau nhưng cái phích nước vẫn mãi là một đồ vật quan trọng không thể thiếu trong gia đình chúng ta.
Thuyết minh cái bàn là
Chiếc bàn là luôn là một vật dụng quen thuộc trong đời sống thường ngày của chúng ta. Đó là dụng cụ dùng để làm phẳng quần áo, khi nhiệt độ lên cao sẽ làm quần áo nóng lên, giãn nở ra và làm mất nếp nhăn. Xã hội ngày càng phát triển nhưng chiếc bàn là hơi nước vẫn được người tiêu dùng lựa chọn vì những lợi ích không thể thay thế
Chiếc bàn là có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ngay từ thế kỉ thứ nhất trước Công Nguyên, người Trung Quốc đã biết dùng chiếc chảo có bỏ than nóng lên trên để làm thẳng các sản phẩm bằng vải. Trước khi có bàn là điện, người ta làm nóng bàn là bằng cách sử dụng xăng, cồn, ga, dầu cá…
Mặc dù những chiếc bàn ủi chạy bằng xăng, dầu rất nguy hiểm nhưng chúng vẫn được dùng phổ biến ở Mỹ những năm thế chiến thứ II. Vào ngày 16/2/1858, W. Vandenburg, và J. Harvey đã có bằng sáng chế về bàn ủi giúp là ống quần và cổ áo dễ dàng hơn. Khi xã hội được công nghiệp hóa cao độ, các bàn là dùng chất đốt được thay thế dần bởi các bàn là chạy bằng điện, sử dụng một điện trở có điện trở suất cao để phát ra nhiều nhiệt khi có dòng điện chạy qua.
Loại bàn là dùng nguồn nhiệt là điện trở được sáng chế vào năm 1882 do một người Mỹ tại New York là Henry W. Seely. Ngày nay những chiếc bàn ủi đã được phát triển với nhiều cải tiến để làm cho việc ủi quần áo trở nên an toàn và thuận tiện hơn.
Hiện nay trên thị trường tiêu thụ xuất hiện nhiều mẫu mã bàn là, kiểu dáng đa dạng. Tuy nhiên chiếc bàn là hơi nước được dùng phổ biến hơn cả. Hai loại bàn là hơi nước ta thường gặp là bàn là cây và bàn là mini cầm tay. Đối với bàn là cây thì quần áo không cần phải trải ra để ủi, mà có thể được ủi thẳng khi đang được treo chỉ với vài động tác đơn giản. Bàn là mini cầm tay với thiết kế nhỏ gọn, không cồng kềnh, thuận lợi cho những chuyến đi du lịch xa.
Bên ngoài chiếc bàn là trông khá đơn giản nhưng cấu tạo bên trong lại khá nhiều chi tiết. Kết cấu của bàn là có thể dựng đứng lên trên phần đuôi của nó, điều này cốt để cho mặt là nóng không tiếp xúc với các vật khác khiến chúng bị hư hại dưới tác dụng của nhiệt. Phần vỏ được làm bằng hợp kim của nhôm hoặc sắt mạ kiềm hoặc nhựa chịu nhiệt để tránh gây nguy hiểm cho người sử dụng. Mặt dưới bàn là phẳng và nhẵn bóng.
Đối với bàn là hơi nước thì bộ phận quan trọng nhất là chiếc nồi hơi. Nồi hơi có tác dụng đun nước sôi tạo áp suất đẩy hơi nước qua dây dẫn lên đầu. Vì vậy nồi hơi nếu được sản xuất chính hãng và đúng tiêu chuẩn sẽ đảm bảo hiệu suất làm việc cũng như độ bền của bàn là. Ngoài nồi hơi thì ống dẫn hơi cũng là bộ phận không thể thiếu đối với mỗi bàn là. Có hai loại ống hơi được sản xuất là ống hơi mềm và ống cứng.
Cả hai đều chịu được sức nóng của hơi nước và đều dẫn hơi nước. Ngoài ra bàn là còn có các bộ phận như nguồn sinh điện, nút điều chỉnh nhiệt độ, đèn báo hiệu, rơle nhiệt. Trong bàn là có một sợi dây điện trở làm bằng hợp kim crôm-niken. Tùy theo từng hãng sản xuất mà sợi dây này có dạng khác nhau, được đặt cách điện với vỏ. Bộ phận điều chỉnh nhiệt độ gồm một rơ-le dạng băng kép.
Khi bàn là nóng đến nhiệt độ nào đấy thì băng kép cong lên và tiếp điểm bị tách ra, mạch điện bị cắt. Khi bàn là nguội đến nhiệt độ quy định, băng kép lại trở về vị trí cũ và lại đóng mạch điện. Bộ phận điều chỉnh thường được bố trí bằng một núm vặn trên thân. Khi xoay núm này ta làm cho tiếp điểm chóng hoặc chậm được ngắt.
Ở trong tay cầm bàn là thường có một đèn báo, khi có điện vào bàn là thì đèn sáng. Các bàn là hiện nay đều thiết kế một bộ phận tiết kiệm năng lượng. Nếu như bàn là bị “để quên” không tắt trong vòng 10-15 phút, bàn là sẽ tự tắt để tiết kiệm điện và chống cháy nổ. Công suất của bàn là dao động từ 1500w đến 1800w.
Bàn là đòi hỏi người sử dụng phải dùng đúng cách nếu không bàn là sẽ nhanh hỏng và gây nguy hiểm. Trước khi sử dụng, cần kiểm tra dây dẫn điện xem có bị hở không và kiểm tra xem có rò điện ra vỏ bàn là không. Đồng thời, đặt núm điều chỉnh nhiệt độ ở vị trí thích hợp với loại vải cần là. Sau đó ta đổ nước vào lỗ quy định của bộ phận chứa nước để phun vào vật cần là.
Cắm điện vào bàn là, chờ vài phút cho nóng thì dùng. Khi bắt đầu là lưu ý phải lau mặt bàn là để không dây bẩn ra vật định là. Khi ngừng là hoặc là xong, phải để bàn là lên một vật kê chịu được nhiệt độ cao và nhẵn để không làm xước mặt bàn là. Khi dùng xong phải rút bàn là ra khỏi mạch điện để tránh xảy ra tai nạn hoặc hư hỏng bàn là. Chiếc bàn là hơi nước có rất nhiều lợi ích.
Trước hết chúng có kiểu dáng khá đa dạng, màu sắc bắt mắt nên thu hút được người mua. Ngoài ra chúng sử dụng được hầu hết với các loại vải, kể cả những loại vải “khó tính” như lụa, lanh, nhung, dạ, len… mà không gây hư hại. Bàn là hơi nước làm phẳng quần áo bằng áp lực của luồng hơi nước nóng nên không lo quần áo bị cháy hoặc biến dạng sợi vải, đồng thời chúng cũng ủi nhanh hơn so với là thông thường.
Chiếc bàn là là một người bạn thân thiết với con người. Nó mang lại những bộ trang phục phẳng phiu, đẹp đẽ, giúp con người tự tin khi mặc. Vì thế cần bảo vệ, giữ gìn chiếc bàn là thật tốt để nó mãi chung tay góp sức vào sinh hoạt của mỗi người.
Thuyết minh cái quạt điện
Cây quạt là vật dụng có từ rất lâu đời mà ông cha ta đã sáng tạo ra nó để quạt mát khi trời oi bức, ngoài ra cái quạt cũng còn được vận dụng để làm vật trang trí treo trong nhà, dùng để phục vụ cho các hoạt động văn hóa như múa…
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, vào mùa hè thời tiết nóng bức nên nhu cầu làm mát rất phổ biến, cái quạt ra đời để giúp mọi người xua tan phần nào nóng bức đó.Quạt nói chung được chia thành 2 nhóm: Quạt bằng tay và Quạt máy.
Về quạt bằng tay có nhiều loại: Quạt nan (làm bằng nan cây tre), Quạt mo (làm bằng bẹ cây cau), Quạt giấy (làm bằng giấy), Quạt bằng tấm xốp (làm từ sản phẩm bìa, xốp)… Để làm một chiếc quạt nan theo kiểu truyền thống, chúng ta cần chuẩn bị nguyên liệu gồm 8-12 thanh tre vót mỏng, giấy, kéo, keo dán.
Xếp các thanh tre lại, thanh nọ chồng lên thanh kia rồi dùi 1 lỗ xuyên qua đầu mút các thanh, cố định chúng bằng 1 cái trục sao cho chúng dễ dàng tách ra thành hình nan quạt và dễ dàng khi xếp lại. Sau đó tách các nan quạt ra, ướm 2 tờ giấy lên và cắt thành hình cung theo mong muốn, dùng keo dán 2 tờ giấy vừa cắt lên 2 mặt của các nan quạt sao cho các nan quạt được tách đều nhau. Vậy là chúng ta đã có 1 cái quạt đơn giản có thể mở ra gập vào.
Về Quạt máy (chạy bằng điện) cũng có nhiều loại: quạt để bàn, quạt treo tường, quạt trần, quạt thông gió, quạt không cánh, quạt hơi nước… Để có một chiếc quạt máy, tùy theo nhu cầu làm mát và túi tiền, chúng ta có thể ra siêu thị điện máy hoặc cửa hàng điện để mua 1 chiếc quạt điện với đủ chức năng theo mong muốn. Mang quạt về, chúng ta chỉ việc cắm điện vào, bật quạt lên để làm mát cho cả nhà.
Về tính tiện lợi, quạt bằng máy có thể làm mát mạnh hơn, và vì máy chạy nên chúng ta không cần quạt tay vẫn có gió mát, tha hồ nằm ngủ, ngồi chơi hay làm bất kỳ điều gì mà gió vẫn cứ thổi mát cho chúng ta suốt ngày, không biết mệt mỏi; hơn thế nữa, ta có thể hẹn giờ mở, hẹn giờ tắt cho quạt máy rất tiện dụng. Tuy nhiên, khi không có điện thì quạt máy không hoạt động được, khi đó quạt tay sẽ là cái hữu dụng nhất cho mọi người.
Từ ngàn xưa, trên các làng quê Việt Nam đã có nhiều nghệ nhân làm quạt. Nhiều nhất là ở vùng quê Bắc Bộ. Đã có nhiều làng nghề làm quạt phát triển gắn bó cùng với những thăng trầm của quê hương. Đặc biệt, quạt đã trở thành hình tượng văn hóa nghệ thuật và ăn sâu vào đời sống văn hóa con người Việt Nam qua các câu chuyện cổ tích, thơ ca, hò vè, chẳng hạn như chuyện Thằng Bờm là một ví dụ:
“Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú Ông xin đổi ba bò chín trâu”
Nhà thơ Vương Trọng có bài thơ “Gió từ tay mẹ” sáng tác năm 1974, đây là tác phẩm hay nhất về chiếc quạt nan, lời thơ có đoạn:
“Quạt nan như lá
Chớp chớp lay lay
Quạt nan mỏng dính
Quạt gió rất dày
Gió từ ngọn cây
Có khi còn nghỉ
Gió từ tay mẹ
Thổi suốt đêm ngày”.
Thật giản dị và cảm động! Có ai trong chúng ta không từng được mẹ quạt đưa vào giấc ngủ. Đúng là chiếc quạt “Nan- ti on- nan” của mẹ không có định giờ, không có chức năng khử độc, không bơm oxy, không có màng lọc mạ vàng, không công nghệ nano-không có thương hiệu quốc tế, nhưng có tình mẹ bao la.
Ngày nay, em không có cơ hội được mẹ cầm cái quạt nan quạt mát đêm ngày như trong thơ, nhưng em vẫn cảm nhận được rằng nếu không có quạt mát (hay máy lạnh) thì mẹ cũng sẽ dùng quạt mo hay quạt nan quạt cho em ngủ khi trời nóng.
Thuyết minh về cái kéo
Kéo là một vật dụng vô cùng gần gũi và quen thuộc trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Mỗi gia đình chúng ta hay thậm chí là chính chúng ta đều luôn luôn sở hữu riêng cho mình một hay nhiều cây kéo với những công dụng và mục đích khác nhau. Đó là một vật dụng vô cùng gần gũi và thân thiết, quen thuộc đối với mỗi người trong gia đình, trong cuộc sống và nhất là trong các công việc.
Chiếc kéo được phát minh khoảng năm 1500 TCN ở Ai Cập cổ đại. Chiếc kéo sớm nhất được biết đến xuất hiện ở đồng bằng Lưỡng Hà khoảng 3000 đến 4000 năm trước. Đây là những chiếc kéo lò xo gồm hai lưỡi đồng được giữ áp sát vào nhau ở chỗ tay cầm bằng một miếng đồng cong, mỏng và linh hoạt nhằm để giữ hai lưỡi kéo tại đúng vị trí, cho phép chúng được ép sát lại nhau và kéo chúng ra xa khi người dùng bỏ tay ra. Kéo dùng lò xo tiếp tục được sử dụng ở châu Âu cho đến thế kỷ thứ 16. Tuy nhiên, kéo xoay bằng đồng hoặc sắt, trong đó lưỡi xoay tại một điểm giữa một tâm và tay cầm, tổ tiên trực tiếp của kéo hiện đại ngày nay, được người La Mã phát minh vào năm khoảng 100. Kéo sau đó được sử dụng phổ biến không chỉ ở La Mã cổ đại, mà còn ở Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, và nguyên lý trên vẫn được dùng trong hầu hết các chiếc kéo ngày nay.
Kéo là dụng cụ cầm tay dùng để cắt đồ vật. Nó bao gồm một cặp kim loại cạnh sắc xoay quanh một trục cố định. Nguyên lý hoạt động của kéo cơ bản dựa trên nguyên lý đòn bẩy, tương tự như chiếc kìm. Ngoài ra cũng có một số loại kéo nhỏ gọn không dùng đinh tán cố định hai nửa lưỡi kéo mà lợi dụng tính đàn hồi của kinh loại. Kéo được sử dụng để cắt đứt các vật liệu khác nhau, chẳng hạn như: giấy, bìa các tông, lá kim loại, nhựa mỏng, cao su, vải, sợi dây thừng và dây điện. Kéo cũng được dùng để cắt tóc, thực phẩm hoặc dùng trong phẫu thuật.
Như vậy, kéo quả thực là một vật dụng vô cùng gần gũi và thân thiết, quen thuộc đối với con người. Kéo mang lại vô cùng ích lợi trong cuộc sống sinh hoạt và làm việc của mỗi chúng ta.