Tóm tắt một số tác phẩm văn học lớp 12, Hy vọng rằng có thể giúp cho các bạn học sinh lớp 12 củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 12 của mình, để chuẩn bị bước vào
Để giúp cho các bạn học sinh lớp 12 có thêm hành trang để bước vào kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới, thì sau đây chúng tôi xin giới thiệu tài liệu tóm tắt một số tác phẩm văn học lớp 12.
Đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp cho các bạn học sinh có thể củng cố lại kiến thức môn Ngữ văn lớp 12 của mình. Dưới đây sẽ là tài liệu tóm tắt của 16 tác phẩm văn học lớp 12, xin mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
- 1 1. Tuyên ngôn độc lập
- 2 2. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
- 3 3. Người lái đò sông Đà
- 4 4. Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- 5 5. Vợ chồng A Phủ
- 6 6. Vợ nhặt
- 7 7. Rừng xà nu
- 8 8. Những đứa con trong gia đình
- 9 9. Bắt sấu rừng U Minh Hạ
- 10 10. Chiếc thuyền ngoài xa
- 11 11. Mùa lá rụng trong vườn
- 12 12. Một người Hà Nội
- 13 13. Thuốc
- 14 14. Số phận con người
- 15 15. Ông già và biển cả
- 16 16. Tóm tắt tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt
1. Tuyên ngôn độc lập
Tuyên ngôn độc lập-văn kiện có ý nghĩa lịch sử sống còn với vận mệnh dân tộc. Nếu ở Mỹ có Tuyên ngôn độc lập năm 1776, ở Pháp có bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 thì Việt Nam có bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được tuyên bố ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình để xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến; khẳng định quyền tự chủ và vị thế của dân tộc ta trên thế giới, đó là mốc son chói lọi đánh dấu kỉ nguyên mới-kỉ nguyên độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập được Bác triển khai theo ba nội dung rõ ràng. Phần mở đầu: Bác có đưa ra cơ sở cho bản Tuyên ngôn nói về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc dựa vào hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp-hai nước tư bản lớn trên thế giới-hai quốc gia xâm lược Việt Nam. Bác dùng những lí lẽ đó để làm bản lề vạch ra cho ta thấy những việc làm trái với tuyên ngôn của chúng. Phần nội dung: Những cơ sở thực tế đã được chỉ ra, đó là những tội ác của Pháp, chúng đã thi hành ở nước ta hơn 80 năm nay trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa-giáo dục. Tất cả những điều đó đập tan luận điệu xảo trá của kẻ thù đã, đang và sẽ nô dịch nước ta trở lại. Phần kết luận: Lời tuyên bố đanh thép và khẳng định quyết tâm sắt đá giữ vững nền độc lập dân tộc. Tuyên ngôn độc lập đã hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh đồng thời cho thấy khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.
2. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn lớn của nền văn học dân tộc nước nhà với các tác phấm có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ mù họ Nguyễn đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hết lòng ngợi ca trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” để kỉ niệm 75 năm ngày mất của ông. Văn bản được tác giả viết theo bố cục ba phần mạch lạc: Phần mở đầu với luận đề “Trên trời có những vì sao sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”. Đây là cách nhìn mới mẻ, sâu sắc của Phạm Văn đồng về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Phần nội dung: gồm ba luận điểm cụ thể hóa cho luận điểm bao trùm ở phần mở đầu. Luận điểm 1: “ánh sáng khác thường” được chứng minh qua cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Luận điểm 2; “ánh sáng khác thường” trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu nội dung chủ yếu nói về tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Luận điểm 3: “ánh sáng khác thường” trong truyện thơ “Lục Vân Tiên”. Phần kết luận: tác giả đánh giá vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học dân tộc và khẳng định giá trị thơ văn vượt thời gian của Đồ Chiểu. Bài viết đã cho ta cách đánh giá mới mẻ, đúng đắn về Nguyễn Đình Chiểu cùng ý nghĩa thiết thực trong các tác phẩm văn chương của ông.
3. Người lái đò sông Đà
Tây Bắc có thiên nhiên hùng vĩ được tô điểm bằng con sông Đà vừa dữ dội, hung tợn và đôi khi lại thật nhẹ nhàng, yêu kiều và thơ mộng như một người con gái. Con sông Đà hung bạo và hùng vĩ bởi đá ở bờ sông “dựng vách thành”, lòng sông thắt lại như yếu hầu, vô số những điểm “hút nước” vô cùng nguy hiểm cho thuyền bè. Chỉ cần di chuyển một quãng đường sẽ thấy vô số những khó khăn đó là đá nổi, đá chìm, sóng thác..sẵn sàng cản bước những con thuyền có ý định vượt sông Đà. Sông Đà mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình nhất là nhìn từ xa dòng sông như mái tóc một người con gái, trong năm còn sống có nhiều sự thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại có những vẻ đẹp riêng biệt và độc đáo.Sông Đà hiện lên thật hung tợn và dữ dội nhưng thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Trên nền thiên nhiên rộng lớn hình tượng người lái đò người dân lao động đặc điểm thân hình cao to, nước da rám nắng, thông thạo trong nghề nghiệp của mình. Ông nắm chắc các qui luật dòng thác, từng vách đá, luồng nước, cửa sinh, cửa tử. Người lái đò sông Đà trước tiên cần sự kinh nghiệm trong nghề nghiệp và sự dũng cảm, gan dạ, những người lái đò là những con người tài hoa, khiêm tốn trong cuộc sống, họ giúp những con thuyền vượt qua khó khăn từ thiên nhiên và về bến an toàn.
4. Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Con sông Hương chảy qua thành phố thật mộng mơ và có lịch sử gắn liền với Huế. Ở mỗi thời điểm con sông lại có những vẻ đẹp riêng.
Khi sông Hương chảy ở thượng nguồn thật hoang dại tựa như “bản trường ca rừng già”, “như cô gái Di-gan”, “người mẹ phù sa” vẻ đẹp đầy tinh tế và say đắm lòng người.
Rời xa thượng nguồn con sông Hương tiếp tục đi đến thành phố, hai bên bờ sông nổi bật với màu đỏ của hoa đỗ quyên, sông Hương lúc này tựa như cô gái thức giấc, liên tục chuyển dòng, tạo thành những hình cung, ôm chân đồi Thiên Mụ, sông Hương lúc này đa màu sắc với sớm xanh, trưa vàng, chiều tím vẻ đẹp khiến con người mê mệt.
Tạm rời xa thành phố sông Hương tiến thẳng về hướng Bắc, con sông ôm lấy đảo Cồn Hến chìm trong sương khói, và giữa màu xanh biếc tre trúc và vườn cau của làng Vỹ Dạ. Con sông đột ngột rẽ sang hướng đông – tây quay lại thành phố ở thị trấn Bao Vinh. Con sông trước khi trở lại với biển còn vấn vương với kinh thành Huế tựa như nỗi vấn vương của nàng Kiều với Kim Trọng xưa kia.
Sông Hương còn là mang nhiều dấu ấn của lịch sử, thi ca. Đó là dòng sông chứng kiến nhiều trận chiến những trận chiến bảo vệ đất nước, giành độc lập tự do bi tráng của dân tộc. Dòng sông Hương mãi là biểu tượng bất diệt của thành phố Huế và nguồn cảm hứng về thi ca cho nhiều thế hệ mai sau.
5. Vợ chồng A Phủ
“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Tô Hoài viết về người dân vùng cao Tây Bắc. Câu chuyện kể về hai nhân vật chính là Mị và A Phủ. Mị là cô gái H’mông xinh đẹp, có tài thổi sáo rất hay, được nhiều chàng trai theo đuổi. Mỗi khi tết đến xuân về trai gái đều hò hẹn nhau để cùng vui chơi, ca hát. Năm ấy, Mị đi chơi bị con trai nhà thống lí Pá Tra là A Sử bắt về cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt nợ do năm xưa khi bố mẹ Mị lấy nhau không có tiền cưới hỏi phải đến vay nhà thống lí. Mỗi năm phải trả lãi một nương ngô nhưng mãi vẫn chưa trả được nợ. Lúc đầu cô không chấp nhận làm vợ A Sử định ăn lá ngón tự tử nhưng nghĩ về bố-người cha già đã vất vả nuôi cô khôn lớn, cô không đành lòng chết. Từ đây, cuộc sống của Mị không còn vui vẻ nói cười mà thay vào đó là sự khổ sở hơn kiếp trâu ngựa làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm hết năm này qua năm khác. Cuộc sống của Mị cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” chẳng nói chẳng rằng. Một mùa xuân nữa lại đến. Hôm ấy Mị uống rượu, cô thấy trong lòng phơi phới, nghe tiếng sáo gọi bạn tình Mị nhớ lại hồi mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử phát hiện. Hắn trói Mị vào cột nhà bằng thúng sợi đay và tóc của cô. Trong đêm mê man, tiếng sáo thúc giục cô bước chân đi chợt thấy nhói đau, ê ẩm người mới sực nhớ ra là đang bị trói. May mắn cho Mị là có chị dâu-những người phụ nữ cùng kiếp nô lệ cởi trói cho cô.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nhờ ơn trời anh rất khỏe mạnh, chăm chỉ lao động. Trong đêm mùa xuân ấy, vì bất bình trước thái độ ngang tàn, bạo ngược của A Sử mà đánh hắn trọng thương nên bị làng bắt vạ phải nộp 100 lạng bạc trắng nhưng không có tiền đành phải đi ở trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Công việc của A Phủ là chăn đàn bò, trong một lần không may anh để hổ bắt mất một con liền bị thống lí Pá Tra trừng phạt trói vào cột nhà nhịn ăn, nhịn uống và chịu rét chờ A Sử bắn được hổ sẽ tha.
Lúc đầu nhìn cảnh tượng ấy Mị thản nhiên, hờ hững nhưng rồi lòng thương người cũng trỗi dậy khi nhìn thấy hai hàng nước mắt chảy xuống hõm má trên gương mặt tiều tụy đáng thương của A Phủ. Cô đã dũng cảm cắt dây cởi trói cho A Phủ, hai người cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, họ nên đôi vợ chồng và cùng tham gia cách mạng.
6. Vợ nhặt
Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí. Tác phẩm ban đầu có tên là Xóm ngụ cư, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo sau này được viết lại.
Cái đói tràn xuống chợ, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ. Tràng bông dắt người đàn bà xa lạ ấy về. Trẻ con có đứa gào lên “chông vợ hài”, người lớn bàn tán, những khuôn mặt u tối của họ như rạng rỡ lên. Về đến cái nhà vắng teo, bà cụ Tứ, mẹ Tràng về muộn; Tràng loanh quanh hết ra lại vào. Người đàn bà theo Tràng trong hoàn cảnh không ngờ. Hai lần gặp, và câu đùa với bốn bát bánh đúc người đàn bà ăn một chập và cái “chặc lưỡi” của Tràng.
Bà cụ Tứ về, Tràng reo lên, bà ngạc nhiên. Thấy trong nhà có người đàn bà, lại chào bà là u, bà càng ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, bà nín lặng. Bao nỗi niềm xáo trộn trong lòng bà. Nói chuyện với con dâu, bà khóc. Tràng bật lửa thắp đèn, bà vội lau nước mắt mùi đống rấm và tiếng hờ khóc ở những nhà trong xóm có người chết vẳng tới.
Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn. Từ trong nhà đến ngoài sân đều đổi thay, gọn gàng, sạch sẽ. Tràng thấy có bổn phận với vợ và yêu cái nhà mình hơn. Bữa ăn chỉ có rau chuối rối chấm muối với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ nói toàn những chuyện vui vẻ. Bà mừng con dâu mới bằng nồi cháo cám mà bà gọi vui là “chè khoán”. Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên. Bà cụ Tứ lại khóc. Trong óc Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê Sộp đi phá kho thóc.
7. Rừng xà nu
Tác phẩm viết về làng Xô Man và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng, Tnú trở về thăm quê, làng Xô Man bất khuất kiên cường nằm giữa rừng xà nu bạt ngàn của Tây Nguyên.
Trong một buổi tối sum họp của làng, cụ Mết đã kể lại cho dân làng nghe về một trang sử bi thương mà hùng tráng của làng, có gắn với cuộc đời Tnú. Làng Xô Man trong những năm đen tối của cách mạng, là một căn cứ bí mật vững chắc nuôi giấu cán bộ. Lúc ấy, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã góp phần tích cực vào việc chở che nuôi giấu cán bộ. Lớn lên, hai người thành vợ chồng. Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng đánh giặc.
Tin “Làng Xô Man mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa bay đến tay giặc”, chúng cho quân đến vây quét. Cụ Mết và Tnú, cùng thanh niên rút ra ngoài rừng. Giặc dùng mọi cách khủng bố, uy hiếp tinh thần dân chúng. Để hòng dử dỗ Tnú đầu hàng, chúng bắt vợ và con anh hành hạ Nấp trong rừng, chứng kiến cảnh vợ con bị đánh đập dã man, Tnú sôi sục căm thù đến mức không tỉnh táo được nữa, đã nhảy xổ ra chém giết lũ giặc. Nhưng anh cũng không cứu được vợ con mình. Anh bị giặc bắt trói, tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu nón tay trước mắt dân làng, hòng uy hiếp “mộng cầm dáo mác” của họ.
Tnú kiên cường, cắn răng chịu đựng, không hề khuất phục. Căm thù tột đô, cả khối người đã vùng dậy đánh gục kẻ thù “cả làng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Câu chuyện khép lại bằng cảnh cụ Mết và Dit tiễn đưa Tnú trở lại đem vị ở nơi cửa rừng xà nu tràn trề sức sống vượt lên trên sự hủy diệt của bom đạn như làng Xô Man bất khuất kiên trung.
8. Những đứa con trong gia đình
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân trẻ. Anh xuất thân từ một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống cách mạng vẻ vang nhưng chịu nhiều tổn thất nặng nề do tội ác của Mỹ – ngụy: ông nội, bố và mẹ Việt đều bị giặc giết. Gia đình chỉ còn lại Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm và một người chị nuôi lấy chồng xa.
Việt và Chiến hăng hái tòng quân giết giặc. Anh chiến đấu ngoan cường, quyết lập nhiều chiến công để cùng chị trả thù cho ba má.
Trong một trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã diệt được một xe bọc thép của địch, nhưng anh bị thương nặng, phải nằm lại chiến trường và bị lạc đồng đội. Khắp người đau nhức nhưng Việt vẫn cố bò đi tìm đồng đội và lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Anh ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Trong những lần tỉnh lại ấy, dòng hồi ức đã đưa anh trở lại với những kỉ niệm thân thiết về người thân: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh, đặc biệt là kỉ niệm về đêm hai chị em xung phong tòng quân.
Anh Tánh và tiểu đội đã gặp được Việt sau ba ngày tìm kiếm và đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần hồi phục. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến nhưng Việt còn chần chừ vì thấy chiến công của mình chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và chưa đáp ứng được nguyện vọng của má.
9. Bắt sấu rừng U Minh Hạ
Truyện xoay quanh nhân vật chính là ông Năm Hên, người thợ già chuyên bắt sấu ở Kiên Giang. Nghe chuyện có cái ao sấu khủng khiếp ở ngọn rạch Cái Tàu, ông tìm đến giúp dân làng bắt sấu. Đến nơi, ông bơi tới lui theo rạch mà cất lên bài hát giải oan cho các linh hồn chết nơi rừng xanh nước đỏ vì miếng cơm manh áo. Chiếc xuồng ba lá của ông vỏn vẹn chỉ có lọn nhang trần và một hũ rượu. Đoán biết ông là bậc kì tài, dân làng liền mời ông lên nhà và thết đãi. Ông Năm Hên giới thiệu về nghề nghiệp và cơ duyên ông theo nghề bắt sấu. Vì trả thù cho người anh bị sấu bắt ở ngã ba Đình, ông Năm Hên từ đó cũng theo nghề này để trừ hại cho dân chứ quyết không vì tiền bạc, phú quý. Sáng hôm sau, Tư Hoạch dẫn đường cho ông Năm Hên lên ao sấu. Đến xế chiều, cả làng chộn rộn vì tiếng reo vui của Tư Hoạch và một đàn 45 con sấu nối đuôi nhau theo sau thuyền. Tư Hoạch vội kể lại cách bắt sấu phi phàm của ông Năm Hên, ai nấy đều kính phục và tôn làm “bực thánh xứ này”. Tư Hoạch về trước, sau đó người ta mới thấy bài ca giải oan và hình dáng ông Năm Hên. Nhiều người già trong làng nghe bài hát mà rơi nước mắt tưởng nhớ tổ tiên, bạn bè từng bỏ mình nơi rừng hoang thú dữ trên bước đường sinh nhai nơi này.
10. Chiếc thuyền ngoài xa
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh tên Phùng trong một chuyến đi thực tế đã quay về biển miền Trung nơi anh từng chiến đấu để có tấm lịch nghệ thuật. Sau thời gian tìm kiếm anh đã có bộ ảnh tuyệt đẹp và ưng ý đó là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa.
Khi vào bờ anh bắt gặp hình ảnh người đàn ông đánh đánh đập người đàn bà, người phụ nữ chỉ biết cam chịu, đứa con vì thương và muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại cha mình. Những ngày sau đó sự việc tiếp diễn, nghệ sĩ Phùng lao vào can ngăn thì bị người đàn ông đánh bị thương.
Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện, khuyên giải nên bỏ chồng nhưng người đàn bà nhất định từ chối, người đàn bà bắt đầu kể về cuộc đời và giải thích lý do vì nghèo khổ mà chồng chị trở thành con người như vậy. Qua câu chuyện đã giúp Phùng và Đẩu có thêm nhiều bài học về cuộc đời.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã có những bức ảnh ưng ý nhưng có cái nhìn khác về cuộc sống, đó là phải nhìn nhận một cách tinh tế hơn để phát hiện bản chất của sự việc, hiện tượng.
11. Mùa lá rụng trong vườn
Chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài đi bộ khá xa mới đến được cổng nhà cụ Bằng. Chị là vợ anh Tường liệt sĩ, con trưởng của cụ Bằng, nay chị đã phải đi bước nữa. Các em trai, em dâu anh Tường (Đông, Lý, Luận, Phượng) mừng rỡ, vồn vã, tíu tít đón người chị dâu cũ về thăm gia đình.
Chị Hoài nay đã trạc năm mươi, người thon gọn, mặc áo bông chần hạt lựu, cặp mắt đằm thắm, cái miệng cười tươi, Chị Hoài đã có một gia đình riêng, chồng chị làm ở Uỷ ban xã, chị làm chủ nhiệm hợp tác xã đan dệt thảm ngô, vợ chồng chị có bốn đứa con, đứa đầu đi bộ đội, ba đứa em còn đi học.
Tay nải chị Hoài mang đến có bao thứ quà quê, nào là gạo nếp tăng sản, nào là giò thủ, nào là bột sắn dây, và một gói hạt giống mướp hương.
Chị em nói chuyện, hỏi thăm, mừng vui vì đã lâu ngày mới gặp gỡ. Ông Bằng từ trên gác xuống cầu thang, mắt chớp chớp liên hồi, môi ông lật bật, ông sắp khóc òa. Chị Hoài chạy đến, cất tiếng chào: “Ông!” sau tiếng nấc. Ông Bằng giọng bỗng khê đặc, khàn rè: “Hoài đây ư, con?”. Nhìn cảnh ấy, Phượng nghẹn ngào, mắt ngấn lệ. Ông Bằng nén xúc động, rút khăn tay, chấm kẽ mắt: “Anh ấy và các cháu vẫn khỏe cả chứ, con?”.
Khi câu chuyện cảm động giữa ông Bằng và người con dâu cũ đang diễn ra, thì mâm cỗ cúng gia tiên đã bày biện xong. Lý rất ý tứ mời ông Bằng khấn cho lễ cúng gia tiên bắt đầu. Bàn thờ mờ ảo khói hương. Ngọn đèn dầu lim dim. Hai cái bánh chưng bọc lá tươi xanh, buộc lạt điều xếp cạnh mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xinh. Ảnh song thân ở chính giữa, bên trái là ảnh bà Bằng mặt hoa da phấn, bên phải là ảnh anh cả Tường, áo trấn thủ, mũ ca lô, nét đã phôi pha.
Ông Bằng tóc bạc lầm rầm khấn. Chị Hoài đăm đắm ngước lên bàn thờ, rồi chị thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực. Mâm cỗ ngày Tết thật là sang. Mọi người vào mâm, hân hoan khác thường.
12. Một người Hà Nội
Nhân vật trung tâm trong truyện ngắn là cô Hiền, một người Hà Nội bình thường. Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, cô đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua những biến động, thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách Hà Nội, cái bản lĩnh văn hoá của người Hà Nội. Cô sống thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm, thái độ riêng của mình với mọi hiện tượng xung quanh.
Thời trẻ, cô Hiền là một người tài hoa, yêu thích văn chương, giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi chọn chồng cô không hề lãng mạn mà chọn ông anh giáo dạy cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ. Cô tính toán kĩ lưỡng khi quản lí gia đình, dạy dỗ con cái từ cách ăn nói, đi đứng sao cho thể hiện được nét văn hoá của người Hà Nội.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc, cô Hiền nói về niềm vui và cả những cái có phần máy móc, cực đoan của cuộc sống xung quanh: vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, theo cô chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá. Cô tính toán mọi việc trước sau rất khôn khéo và đã tính là làm, đã làm là không để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ.
Miền Bắc bước vào thời kì đương đầu với chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Cô Hiền dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống đúng với bản chất người Hà Nội. Đó cũng là lí do vì sao cô sẵn sàng cho con trai ra trận: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước trong thời kì đổi mới, giữa không khí xô bồ của thời kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà nội của hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha trộn”. Từ chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn, cô Hiền nói về niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
13. Thuốc
Vợ chồng lão Hoa, chủ một quán trà, có thằng con trai tên Thuyên bị bệnh lao rất nặng. Được lão Cả Khang mách, vợ chồng lão Hoa dốc tiền đến Cổ Đình Khẩu từ mờ sáng để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa bị hành hình đem về cho con ăn với hy vọng chữa khỏi căn bệnh quái ác cho con. Buổi sáng, khi thằng Thuyên ăn chiếc bánh tẩm máu người rồi đi nghỉ thì quán trà cũng dần đông khách, mọi người râm ran khẳng định thằng Thuyên sẽ khỏi bệnh rồi bàn tán về Hạ Du, người chiến sĩ vừa bị hành hình lúc sáng sớm. Ai nấy đều cho Hạ Du là “thằng khốn nạn”, “thằng nhãi con” và “điên thật rồi”. Cuối cùng, chiếc bánh tẩm máu người cũng không cứu được thằng Thuyên khỏi thần chết. Một ngày vào tiết Thanh minh, bà Hoa buồn rầu ra thăm mộ con nhìn thấy mẹ Hạ Du cũng đến viếng mộ. Đồng cảnh ngộ mất con, bà Hoa bước qua con đường mòn sang an ủi mẹ Hạ Du, cả hai cùng ngạc nhiên trước vòng hoa đặt trên mộ. Mẹ Hạ Du sau khi than khóc cho cái chết oan nghiệt của con vẫn không hết khó hiểu “Thế là thế nào nhỉ?”. Truyện kết thúc với tiếng quạ kêu và hình ảnh con quạ nhún mình bay bút về phía trời xa.
14. Số phận con người
Trong một lần đi công tác, tác giả Sô-lô-khốp đã có cuộc gặp gỡ bất ngờ với một người đàn ông tên Xô-cô-lốp, cũng trong cuộc gặp gỡ ấy, Xô-cô-lốp đã kể cho tác giả nghe về câu chuyện đầy đau đớn của cuộc đời mình. Xô-cô-lốp từng là một người lính trong quân đội Hồng quân Liên Xô, ngày chiến tranh nổ ra, Xô-cô-lốp đã chia tay vợ con để lên đường chiến đấu. Xô-cô-lốp từng bị phát xít bắt làm tù binh, giam lỏng và tra tấn suốt 2 năm trời. Năm 1944, khi quân phát xít Đức thua to trên mọi mặt trận, Xô-cô-lốp đã bắt sống được một tên lính giặc và lái xe về phía Hồng quân. Ngay lúc này, Xô-cô-lốp nghe tin dữ vợ và hai người con gái của anh đã thiệt mạng do bom đạn kẻ thù. Người thân cũng là niềm hy vọng sống còn lại của Xô-cô-lốp lúc này là An-tô-ni, đau đớn thay, ngày mà đất nước được giải phóng cũng là ngày mà con trai anh hi sinh.
Mang theo nỗi đau đớn, tuyệt vọng, sau khi hòa bình lập lại Xô-cô-lốp không trở về quê nhà, anh làm công việc lái xe vận chuyển hàng hóa đến các huyện. Trong một lần nghỉ giải lao giữa đường, Xô-cô-lốp đã gặp gỡ cậu bé Va-ni-a một đứa trẻ lang thang, cha mẹ đều mất trong chiến tranh. Bằng mối đồng cảm giữa hai con người bất hạnh, trôi dạt giữa cuộc đời, Xô-cô-lốp đã quyết định nhận nuôi Va-ni-a, từ đây hai cha con sống nương tựa nhau và cùng hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.
15. Ông già và biển cả
Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Xan-ti-a-gô một “ông già” đánh cá người Cuba, 74 tuổi. Suốt 84 ngày liền, ông lão không bắt được một mống cá nào, dân làng chài cho rằng lão đã “đi đứt” vì vận rủi. Cậu bé Ma-nô-lin cũng bị cha mẹ không cho đi câu chung với lão nữa.
Vào ngày thứ 85, lão quyết định ra khơi trước khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa, đến tận vùng Giếng Lớn. Khoảng trưa, một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền về hướng tây bắc.
Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên. Đó là một con cá kiếm, lớn đến nỗi trước đây lão chưa từng nhìn thấy. Con cá lại lặn xuống, kéo thuyền chạy về hướng đông.
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù đã kiệt sức, lão kiên trì thu ngắn dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền để đưa về. Nhưng chẳng bao lâu nhiều đàn cá mập đánh hơi được đã lăn xả tới. Từ đó đến đêm, lão lại đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập – phóng lao, vung chày, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh, giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng lão biết con cá kiếm của mình chỉ còn trơ lại một bộ xương.
Đến khuya, đưa được thuyền vào.
16. Tóm tắt tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt
Trương Ba rất giỏi đánh cờ. Nam Tào đã xoá tên ông trong sổ Trời. Sau đó, Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba tái sinh nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Từ đó, hồn Trương Ba trú ngụ trong xác hàng thịt, xác hàng thịt mang hồn Trương Ba. Cũng từ đó xảy ra bao chuyện lộn xộn. Lí trưởng sách nhiễu. Vợ hàng thịt đòi chồng. Vợ, con, cháu của Trương Ba cảm thấy chồng, cha, ông của mình sao mà xa lạ, vụng về và cục cằn. Bản thân Trương Ba có quá nhiều thay đổi: Nhiễm nhiều thói xấu, trở nên tha hoá, sống lạc lõng. Có nhiều lúc hồn Trương Ba và xác hàng thịt cãi nhau, nặng lời với nhau. Vợ Trương Ba chán ngán đòi bỏ đi. Cái Gái, cu Tị, hai đứa cháu đều ghét ông. Chị con dâu đau khổ nói với hồn Trương Ba về sự tan hoang, đổ vỡ của gia đình, “đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần…”. Hồn Trương Ba bải hoải bài hoài, thắp hương xin gặp Đế Thích. Gặp Đế Thích, hồn Trương Ba nói về thân phận cay đắng “sống nhờ” của mình và xin được chết cho thảnh thơi. Đế Thích hết lời khuyên giải, nhưng hồn Trương Ba vẫn không nghe. Vừa lúc đó, cái Gái chạy đến oà khóc, báo tin cu Tị con chị Lụa đã chết. Nam Tào, Bắc Đẩu báo tin Ngọc Hoàng đã tha cho Đế Thích cái tội nhập hồn Trương Ba vào xác hàng thịt và cho phép hồn Trương Ba được sống trong xác hàng thịt. Nhưng hồn Trương Ba xin được chết để cu Tị sống lại. Hồn Trương Ba an ủi, dặn dò vợ con rồi nhắm mắt qua đời.