Truyện ngắn Chữ người tử tù, Chữ người tử tù là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của tập sách. Truyện ngắn này được đưa vào chương trình sách giáo khoa
Chữ người tử tù là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của tập sách. Truyện ngắn này được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 11 hiện nay cả ở ban cơ bản và ban nâng cao.
Tác phẩm ca ngợi cái đẹp của nghệ thuật và cái đẹp của “thiên lương” tập trung và rực rỡ nhất ở nhân vật chính là Huấn Cao và ở các nhân vật “Viên quản ngục” và “Thầy thơ lại” đồng thời hiểu được quan điểm thẩm mĩ của tác giả. Sau đây mời các bạn cùng theo dõi nội dung truyện ngắn trong bài viết dưới đây.
Truyện ngắn Chữ người tử tù
Nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, Viên quan coi ngục quay lại hỏi thầy thơ lại giúp việc trong đề lao:
– Này, thầy bát, cứ công văn này, thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù phải chết chém. Trong đó tôi nhân thấy tên đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao! hay là người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn ca tụng cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?Thầy thơ laị xin phép đọc công văn.
– Dạ, bẩm chính y đó. Dạ bẩm, có chuyện chi vậy?
– Không, tôi nghe tên quen quen và thấy nhiều người nhắc nhỏm đến cái tên đó luôn, thì tôi cũng hỏi thế thôi. Thôi cho thầy lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng cuối cùng. Có việc dùng đến. Thầy liệu cái buông giam đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?
– Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!
– Ờ, cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?
– Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thương tiếc.
– Chuyện triều đình quốc gia, ta biết chi mà bàn bạc cho thêm lời. Nhỡ ra lại vạ miệng thì khốn. Thôi thầy lui về mà trông nom việc dưới trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để cho ó mặt ở trại trước khi lính tỉnh trao tù cho mình lĩnh nhận. Đêm nay, thầy bắt thêm lính canh. Mỗi chòi canh, đều đặt hai tên. Hễ chòi nào bỏ canh, hễ mỗi vọng canh ngủ quên không đánh kẻng, đánh kẻng, đánh mõ thầy nhớ biên cho rõ, cho đúng để mai tôi phạt nặng. Chớ cho mấy tên thập thò nó đánh bạc nghe!Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn leo loét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan ngồi bóp thái dương một cách băn khoăn. Tiếng kiểng và mõ rất đều đặn, rất thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, văng vẳng từ làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống chân trời không định.
Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiểng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay lên cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ.
Nơi góc án thư vàng đã nhọt, son đã mờ, đĩa dầu sở trên cây đèn nến vợi dần mực tàu. Hai ngọn bấc lép bép nổ, làm rụng tàn đèn xuống tập giấy bản, có dấu son bên ty Niết. Viên quan coi ngục ngấc đầu, lấy que hương khêu thêm một côn bấc. ba cái tim bấc được chụm nhau lại, cháy bùng to lên, soi tỏ mặt người ngồi đấy.
Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.
Ông trời hay trôi ác đày ải những cái thuần túy vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đở kiếp với lũ quay quắt.
Ngục quan lấy làm nghĩ ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại “- Có lẽ lão bát, này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi. Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Ta muốn biệt đãi ông Huấn Cao, ta muốncho ông ta đỡ cực khổ trong mấy ngày cuối cùng còn lại, nhưng chỉ sợ tên bát phẩm thơ lại này đem cáo giác với quan trên thì ta xem khó mà ở yên. Để mai ta dò ý tứ hắn xem sao rồi sẽ liệu”.
Sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn đến cửa ngục thất sáu tên tù mà công văn chiều hôm qua, đã báo trước cho ngục quan rõ tên tuổi,làng xóm và tội hình. Sáu phạm nhân đều mang chung một chiếc gông dài đến tám thước. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem ra cân, cũng phải nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu tên tử tù. Màu gỗ thân gông đã cũ và mồ hôi cổ và tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước sơn bóng nhoáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh lá chuối khô. Nhữg đoạn không bóng thì lại xỉn lại những chất ghét đen sánh. Trong khi chờ đợi cửa ngục mở rộng, Huấn Cao đứng đầu gông, quay cổ lại mấy bạn tù
– Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi. Phải rỗ gông đi.
Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông, đầu cúi cả về phía. Một tên áp giải đùa một câu:
– Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ.
Huấn Cao lãnh đạm, không thèm chấp chỉ trút mũi gông nặng xuống thềm đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đất đánh thịch một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau làm hộ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen.
Cánh cửa đề lao mở rộng.
Sáu người né mình tiến vào như một hiệp thợ ngỡ thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai.
Trái với phong tục nhận tù như mọi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể, tuy y cố ý giữ kín đáo mà cũng đã quá rõ rồi. Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại còn biệt nhỡn đối với riêng Huấn Cao. Bọn lính lấy làm lạ, đều nhắc lại:
– Bẩm thầy, tên ấy chính là chủ xướng. Xin thầy để tâm cho, hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.
Mấy tên lính, khi nói chữ “để tâm” có ý nhắc viên quan coi ngục còn chờ đợi gì mà không giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra. Ngục quan chỉ điền đạm:
Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ có nhiều lời.
Bọn lính giản cả ra nhìn nhau và không hiểu. sáu tên tử tù hơi ngạc nhiên về thái độ quản ngục.
Suốt nửa tháng ở trong buồn tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người tho lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bửa cơm tù. Mỗi lúc dâng rượu với đồ nhắm, người thơ lại lễ phép nói một câu:
– Thầy quản chúng tôi biếu ngài ít quà mọn này để dùng cho ấm bụng. Ở trong buồng đây lạnh lắm.
Ông Huấn Cao vấn thản nhiên nhận rượu thịt coi như mình có quyền hưởng thụ những thực phẩm đó. Rồi đến một hôm, quản ngục mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn:
Đối với những người như ngài, phép nước ngặt lắm. Nhưng biết ngài là một người có nghĩa khí, tôi muốn châm chước ít nhiều. Miễn là ngài đừng làm quá. Sợ đến tai lính tráng họ biết thì phiền lụy cho tôi nhiều lắm. Vậy ngài muốn gì xin cho tôi biết. Tôi sẽ liệu.
Ông đã trả lời quản ngục:
Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng có tới quấy rầy ta.
Khi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều, ông Huấn đã đợi trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Nhưng đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm khi nghe xong câu trả lời, y chỉ nhã nhặn lui ra với một câu: ” Tôi xin lĩnh ý”. Và từ hôm ấy, cơm rượu lại đưa đến đều và có phần hậu hơn trước nữa; duy chỉ có y là không để chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nhiều, năm bạn thân của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Có nhiều đêm, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. ” Hay là y muốn dò đến những điều bí mật của ta?” ” không, không phải thế, vì bao nhiêu điều quan trọng ta đã khai bên ty Niết cả rồi, còn gì nữa mà dò cho thêm bận.”
Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng vẫn dài như nghìn năm ở ngoài. Viên quản ngục không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù.
Viên quản ngục hy vọng một ngày rất gần đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết thì y sẽ nhờ ông viết cho mấy chữ trên chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại. Thế là y mãn nguyện.
Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quản ngục này coi là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết, chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báo trên đời. Viên quả ngục khổ tam nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin chữ. Không can đảm giáp mặt lại một người cách xa y hàng bao nhiêu thế kỉ tài học, y chỉ lo mai mốt đây ông Huấn bị hành hình thì cái thèm muốn kia chỉ là ảo mộng…
Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt khi tiếp đọc công văn. Quan hình bộ Thượng Thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và đông chí vào Kinh… Pháp trường lập ở trong ấy kia. Và ngày mai, sớm tinh mơ sẽ có người đến lĩnh tù.
Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại cho lính gọi lên kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong câu chuyện, nói được một câu: ” Dạ bẩm,,ngài cứ yên tâm đã có tôi”. Rồi ù té chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn. Thầy đấm cửa buồng giam thùm thùm, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn tin buồn cho ông Huấn biết về việc về Kinh chịu án tử hình. Ông Huấn Cao trầm ngâm rồi mỉm cười:
– Ngươi về bảo với chủ ngươi, tối nay lúc nào lính canh tại về nghỉ thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ ta thì quý thực, ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ. Nhất sinh ta cũng chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta rất cảm kích tấm lòng biệt nhãn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buông tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột và gián.
Trong một không khí tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ rụi mắt lai lịa. Một tên tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Tên tù viết xong một chữ, tên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiên lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng thẳng dậy và đĩnh đạc bảo:
– Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chỗ ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn rõ ràng như thế. Thoi mực kiếm được ở đâu tốt và thơm lắm. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?… Ta bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về quê mà ở đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lúc lụi tàn lửa rụng xuống nền đất phòng giam tiếng lửa tắt nghe sèo xéo.
Ba người nhìn bức chàm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quản cảm động, vái tên tù một vái và nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẻ miệng làm cho nghẹn ngào.
– Xin bái lĩnh.