Truyện ngắn Thuốc, Truyện ngắn Thuốc là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Lỗ Tấn ở Trung Quốc. Sau đây là nội dung của tác phẩm này, xin mời các bạn
Thuốc là một truyện ngắn đã bày tỏ quan điểm của nhà văn Lỗ Tấn khi thấy nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
Sau đây, sẽ là đôi nét về tác giả củng như hoàn cảnh sáng tác, bố cục, ý nghĩa nhan đề và nội dung của truyện ngắn Thuốc, xin mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
I. Đôi nét về nhà văn Lỗ Tấn
* Tiểu sử
– Lỗ Tấn (1881 – 1936), tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân.
– Là nhà văn cách mạng Trung Quốc
– Lỗ Tấn đã nhiều lần đổi nghề với những mục đích khác nhau (hàng hải, khai mỏ, y, văn nghệ)
* Sự nghiệp văn học
– Mục đich sáng tác: Dùng ngòi bút để phanh phui các “căn bệnh tinh thần” và kêu gọi mọi người tìm phương thuốc chữa chạy, không được “ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
– Quan điểm sáng tác: Phê phán những căn bệnh tinh thần khiến quốc dân mê muội, tự thỏa mãn, “ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa số”.
– Tác phẩm chính: “Gào thét”, “Bàng hoàng”, “Chuyện cũ viết lại”, “AQ chính truyện”,…
II. Tác phẩm Thuốc
1. Hoàn cảnh sáng tác
– “Thuốc” được viết vào năm 1919, đúng lúc phong trào Ngũ Tứ bùng nổ. Tác phẩm được in trong tập “Gào thét”.
– Năm 1919, đây là giai đoạn đất nước Trung Hoa bị các đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Nhật xâu xé. Xã hội Trung Quốc biến thành xã hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thỏa mãn mà những người cách mạng hoàn toàn xa lạ với nhân dân.
2. Bố cục
– Phần I (Mua thuốc): Thuyên mắc bệnh lao được lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu người về cho ăn.
– Phần II (Ăn thuốc) : Vợ chồng Hoa Thuyên cho con ăn bánh bao tẩm máu người nhưng con vẫn ho dữ dội.
– Phần III (Bàn về thuốc) : Cuộc bàn luận trong quán trà về thuốc chữa bệnh lao và tên “giặc” Hạ Du.
– Phần III (Hậu quả của thuốc) : Nghĩa địa vào tiết Thanh minh, mẹ của Hạ Du và Thuyên bắt gặp nhau và bàng hoàng khi thấy vòng hoa trên mộ Hạ Du.
3. Ý nghĩa nhan đề
Thuốc ở đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng Thuyên ăn để chữa bệnh lao. Nhan đề này có nhiều nghĩa:
Tầng nghĩa thứ nhất của Thuốc là nghĩa tường minh , chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người . Đây là một phương thuốc mê tín lạc hậu tương tự như hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thũng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực , con cái dẫn đến cái chết của ông cụ.
Tầng nghĩa thứ hai của Thuốc là nghĩa hàm ẩn , đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần : căn bệnh gia trưởng , căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc . Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó . Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà không lo tìm một thứ thuốc khác .Người dân Trung Quốc phải tỉnh giấc , không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.
Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc , của chiếc bánh bao tẩm máu người là phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ . Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu người chiến sĩ cách mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân dân . Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc , là thằng điên và mua máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước ,cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp bà Hoa) còn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng.
Tóm lại: Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
4. Nội dung truyện ngắn Thuốc
Nghe truyện Thuốc của Lỗ Tấn:
I
Một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc. Tầng không xanh thẳm. Ngoài những giống đi ăn đêm, còn thì ngủ say cả. Lão Hoa Thuyên bỗng ngồi dậy, đánh diêm thắp cái đèn nhầy nhụa những dầu là dầu. ánh đèn trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà.
– Bố thằng Thuyên đi đấy à?
Đó là tiếng một người đàn bà đã có tuổi. Ở buồng phía trong bỗng nổi lên một cơn ho.
– Ừ.
Lão vừa trả lời, vừa lắng tai nghe tiếng ho, vừa cài nút áo, rồi chìa tay ra, nói tiếp:
– Đưa đây tôi!
Bà Hoa sờ soạng một lúc lâu dưới gối, lấy ra một gói bạc đồng, đưa cho chồng. Lão cầm lấy, bỏ vào túi áo, tay run run, vuốt hai ba lần phía ngoài túi, rồi thắp cái đèn lồng, tắt ngọn đèn con, đi vào buồng phía trong. Buồng phía trong có tiếng động lạch cạch, tiếp theo là một cơn ho. Đợi cơn ho dứt, lão mới khẽ nói:
– Thuyên à! Con cứ nằm đấy! Công việc dọn hàng, để mẹ con lo cho.
Không nghe con nói gì, lão cho rằng nó đã yên tâm nằm ngủ lại rồi, bèn mở cửa đi ra. Bên ngoài, trời tối om, và hết sức vắng. Chỉ mặt đường xam xám là trông thấy rõ. Chiếc đèn lồng chiếu thẳng vào bàn chân lão bước đều đều. Thỉnh thoảng, gặp một vài con chó, nhưng chẳng con nào buồn sủa. Trời lạnh hơn trong nhà nhiều, nhưng lão cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại, và ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh. Lão bước những bước thật dài. Trời cũng sáng dần và đường cũng càng lâu càng rõ.
Đang chăm chú bước, bỗng lão giật mình nhìn thấy ngã ba đường đằng xa, trước mặt. Lão quay lại, đi mấy bước tìm một cửa hiệu còn đóng kín mít, rẽ vào dưới mái hiên, tựa lưng vào cửa. Một lúc lâu, lão thấy hơi lành lạnh.
– Hừ! Một ông già!
– Thích nhé!…
Lão lại giật mình, trố mắt nhìn. Có mấy người đi qua. Một người còn quay lại nhìn lão. Lão không trông thấy rõ là ai, nhưng thấy ánh mắt cú vọ ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm. Lão nhìn chiếc đèn lồng. Đèn tắt rồi. Lão đặt tay lên túi áo. Gói bạc vẫn cồm cộm ở đấy. Ngước đầu nhìn xung quanh, lão thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma.Nhưng nhìn kĩ thì lại chẳng lấy gì làm quái lạ nữa. Một lát, lại thấy mấy người lính đi đi lại lại. Đằng xa cũng thấy rõ miếng vải trắng ở vạt áo trước và vạt áo sau ; khi họ đi qua trước mắt thì thấy cả đường viền màu đỏ thẫm trên chiếu áo dấu. Tiếng chân bước ào ào. Trong nháy mắt bao nhiêu người đi qua. Những người tụm năm tụm ba lúc này cũng dồn lại một chỗ, rồi xô nhào tới như nước triều, gần đến ngã ba đường thì bỗng đứng dừng lại, quây thành một nửa vòng tròn.
Lão Thuyên cũng nhìn về phía đó, nhưng chỉ thấy lưng người mà thôi. Người nào, người nấy rướn cổ ra như cổ vịt bị một bàn tay vô hình nắm lấy xách lên. Im lặng một lát. Bỗng hình như có tiếng động. Rồi cả đám xô đẩy nhau ào ào, lui về phía sau đến chỗ lão đứng, chen lão suýt nữa ngã.
– Này! Tiền trao cháo múc, đưa đây!
Một người áo quần đen ngòm đứng trước mặt lão, mắt sắc như hai lưỡi dao chọc thẳng vào lão khiến lão co rúm lại. Hắn xòe về phía lão một bàn tay to tướng, tay kia cầm một chiếc bánh bao nhuốm máu, đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Lão vội vàng móc gói bạc trong túi ra, run run đưa cho hắn, nhưng lại ngai không dám cầm chiếc bánh. Hắn sốt ruột, nói to:
– Sợ cái gì? Sao không cầm lấy?
Lão còn trù trừ, người mặc đồ đen giật lấy chiếc đèn lồng, xé toạc tờ giấy dán bên ngoài, bọc chiếc bánh lại, rồi nhét vào tay lão, tay kia thì giật lấy gói bạc, nắn nắn, rồi quay đi, miệng càu nhàu:
– Cái lão này?
– Chữa cho ai đấy?
Lão Thuyên nghe hình như có người nào hỏi, nhưng lão không trả lời. Lúc này, lão còn để hết tinh thần vào cái gói bánh như nhà mười đời độc đinh năng niu con, không chú ý đến gì nữa. Lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sung sướng biết bao! Mặt trời đã mọc, chiếu sáng con đường lớn đi về nhà lão, và cũng chiếu sáng cái bảng mục nát trên cái nhà bia ở ngã ba đường sau lưng lão, có đề bốn chữ nhiếp vàng đã bạc màu: Cổ… Đình Khẩu.
II
Lão Thuyên về đến nhà thì quán đã bày biện sạch sẽ, các dãy bàn trơn bóng sắp đặt ngăn nắp. Nhưng không có khách, chỉ có thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm ở cái bàn dãy phía trong, mồ hôi trán nhỏ từng giọt to tướng, chiếc áo kép dính vào xương sống, hai xương vai gồ lên thành hình chữ “bát” in nổi. Thấy vậy, lão không khỏi chau mày. Bà Hoa từ trong bếp vội vã chạy ra chạy ra, giương to mắt nói, đôi môi run run:
– Có được không?
– Được rồi!
Hai người cùng trở vào bếp, bàn bạc một hồi. Bà Hoa lại đi ra, một lát cầm về một cánh lá sen già, trải lên mặt bàn. Lão cũng mở cái chao đèn, cầm chiếc bánh đẫm máu, lấy lá sen bọc lại. Thằng Thuyên đã ăn xong. Bà Hoa vội nói:
– Thuyên, con cứ ngồi đấy, đừng vào trong này!
Lão Thuyên vừa thổi lửa trong bếp, vừa cầm cái gói lá xanh và cái chao đèn loang lổ máu, dúi vào bếp. Ngọn lửa đỏ thẫm bốc lên. Một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà.
– Thơm ghê nhỉ! Hai bác ăn quà sáng gì đấy?
Cậu Năm gù đi vào. Cậu ta ngày nào cũng lê la ở cái quán này, thường đến sớm nhất mà cũng về muộn hơn ai hết. Vừa đi vào, cậu ta liền ngồi vào cái bàn ở góc tường phía gần đường cái, hỏi ngay. Nhưng không ai trả lời.
– Rang cơm đấy à?
Vẫn không ai trả lời. lão Thuyên vội vàng chạy ra, pha trà cho cậu.
– Thuyên ơi! Vào đây con!
Bà Hoa gọi con vào nhà trong, giữa nhà đặt sẵn một chiếc ghế đẩu. Thuyên ngồi xuống, bà ta bưng một cái đĩa lại, trên đĩa có vật gì tròn tròn, đen thui, nói rất khẽ:
– Ăn đi con! Sẽ khỏi ngay thôi!…
Thuyên cầm lấy vật đen thui, cầm trên tay, có cảm giác rất lạ không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi ra, rất cẩn thận. Một làn hơi trắng bốc ra từ lần vỏ cháy sém. Làn hơi tan dần, mới thấy đó là hai miếng bánh bao bằng bột mì trắng. Không bao lâu, chiếc bánh đã mằn gọn trong bụng, mùi vị như thế nào cũng đã quen rồi. Trước mắt chỉ còm trơ lại chiếc đĩa không. Lão Thuyên đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì. Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực. Lại một cơn ho.
– Thôi con đi ngủ một giấc, sẽ khỏi ngay!
Thuyên nghe lời mẹ, vừa ho vừa nằm xuống. Đợi nghe tiếng thở dìu dịu, bà Hoa mới nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.
III
Quán trà đã đông khách. Lão Thuyên cũng bận, tay xách chiếc ấm đồng lớn, đi đi lại lại, pha trà. Hai mắt lão thâm quầng. một người râu hoa râm nói:
– Ông Thuyên à! Mệt phải không? Hay là ốm đấy?
– Có làm sao đâu!
Người râu hoa râm chữa lời:
– Không sao à? Ừ, nghe tiếng cười thì không ra người ốm.
– Chỉ vì ông ta lận đận quá! giá thằng con…
Cậu Năm chưa dứt lời thì một người mặt thịt ngang phè từ ngoài đâm sầm vào. Hắn mặc một chiếc áo vải màu huyền không gài khuy, dải thắt lưng cũng màu huyền quấn ở ngoài, xộc xêch. Vừa vào, đã nói oang oang:
– Đã ăn chưa? Đỡ rồi chứ? Ông Thuyên này! May phúc cho ông đấy nhé! Phúc nhà ông, đấy là nhờ tôi biết tin sớm…
Lão Thuyên một tay xách ấm trà, một tay buông xuống, vẻ cung kính, cười hề hề, lắng tai nghe hắn nói. Cả quán cũng cung kính lắng tai nghe hắn nói. Bà hoa mắt cũng thâm quầng, tươi cười, mang đến trước mặt hắn một cái chén, bỏ một nhúm trà và thêm một quả trám. Lão Thuyên liền đem nước sôi lại pha.
Người mặt thịt ngang phè vẫn nói oang oang ;
– Cam đoan thế nào cũng khỏi. Thứ thuốc này đặc biệt lắm. Ông tính lấy về còn nóng hôi hổi, và ăn cũng nóng hôi hổi.
Bà Hoa cám ơn hắn hết lời:
– Thật đấy! Không có bác Cả Khang đây giúp thì đứng có hòng…
– Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn còn nóng hôi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng khỏi!
Bà Hoa nghe nói “lao”, sắc mặt hơi đổi khác, ý không được vui, có điều cũng gượng cười, bỏ đi, ngượng nghịu. Nhưng bác Cả Khang không để ý đến, cứ giương cổ nói oang oang đến nỗi thằng Thuyên nằm ngủ trong nhà cũng phải ho lên như phụ họa theo.
– Ừ thằng Thuyên nhà ông may phúc thật! Nhất định khỏi thôi mà! Chẳng trách ông cứ cười cả ngày!
Người râu hoa râm vừa nói vừa đi lại trước mặt bác Cả Khang, hạ thấp giọng nói:
– Bác Cả này! Nghe nói tên phạm chém hôm nay là người họ Hạ. Con nhà ai đấy nhỉ? Tội gì thế hở bác?
– Con nhà ai nữa? Con nhà bác Tứ chứ con nhà ai? Thằng quỷ sứ!
Bác Cả Khang thấy mọi người vểnh tai nghe, lấy làm thú lắm, những thớ thịt trên mặt nổi từng cục. Bác ta cao hứng nói to:
– Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa, thế thôi. Lần này tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra, cũng lão Nghĩa, cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất. may nhất có thể nói là ông Thuyên nhà này, thứ đến là cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng xóa, một mình bỏ túi tất chẳng mất cho ai một đồng kẽm!
Thằng Thuyên từ trong nhà đi ra, bước chậm chạp, hai tay ôm ngực, ho lấy ho để. Y vào bếp, xúc một bát cơm nguội, chan ít nước nóng, ngồi ăn. Bà Hoa bước theo con, khẽ hỏi:
– Thuyên! Con có đỡ tí nào không, con? Con vẫn cứ hay đói bụng thế à?
– Cam đoan khỏi mà!
Bác Cả Khang liếc nhìn thằng Thuyên một cái, rồi quay lại tiếp tục câu chuyên với mọi người:
– Cụ ba đến là khôn! Giá cụ ta không đem thằng cháu ra thú thì cả nhà mất đầu hết. Nay thì được bao nhiêu là bạc! Còn cái thằng nhãi con ấy thì chẳng ra cái thá gì hết. Nằm trong tù rồi còn dám rủ lão đề lao làm giặc!
Một anh chàng trạc hơn hai mươi tuổi ngồi dãy bàn sau, nghe nói tức máu:
– Ái chà chà! ghê nhỉ?
– Anh có biết không, lão Nghĩa mắt cá chép đến lân la hỏi dò hắn thì hắn bắt chuyện ngay. Hắn nói: Thiên hạ Mãn Thanh chính là của chúng ta. Thử nghĩ xem, nói thế mà nói được à? Lão Nghĩa mắt cá chép cũng biết nhà hắn chỉ có mụ mẹ già, nhưng không ngờ hắn lại nghèo gặm không ra đến như thế, đã tức anh ách rồi, thế mà hắn lại vuốt râu cọp, nên lão ta liền đánh cho hai bạt tai.
Cậu Năm Gù ngồi ở góc tường, nghe nói, thú quá:
– Lão Nghĩa là tay võ rất cừ, hai cái tát ấy cũng đủ để cho hắn xài đấy nhỉ!
– Cái thằng khốn nại! Đánh, có sợ đâu! Lại còn nói: Thật đáng thương hại, thật đáng thương hại!
Người râu hoa râm nói:
– Đánh cái đồ ấy thương hại cái gì?
Bác Cả Khang tỏ vẻ khinh bỉ, cười nhạt:
– Ông chưa nghe ra, xem bộ hắn lúc đó, thì hắn muốn nói: đáng thương hại , là lão Nghĩa đáng thương hại kia!
Mặt ai nấy bỗng ngơ ngác. Không ai nói gì cả.
Thằng Thuyên đã ăn cơm xong, mồ hôi ướt đầm, trên đầu hơi bốc phừng phừng.
Người râu hoa râm bỗng vỡ nhẽ, nói:
– Lão Nghĩa mà đáng thương hại à? Điên! Hắn điên thật rồi!
Anh chàng hai mươi tuổi cũng vỡ nhẽ:
– Điên thật rồi!
Khách trong quán lại nhao nhao, nói nói cười cười.
Thằng Thuyên lại thừa dịp ho cố mạng. Bác Cả Khang chạy lại, vỗ vai, nói:
– Thuyên à! Cam đoan thế nào mày cũng khỏi. Mày đừng ho như thế. Cam đoan thế nào cũng khỏi.
Cậu Năm gù nói:
– Điên thật rồi!
IV
Miếng đất dọc chân thành phía ngoài cửa Tây vốn là đất công. Ở giữa có con đường mòn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt giẫm mãi thành đường. Đó cũng là cái danh giới tự nhiên giữa nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người chết nghèo ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ.
Tiết Thanh minh năm ấy, trời lạnh lắm. Những cây dương liễu mới đâm ra những mầm non bằng nửa hạt gạo. Trời vừa dạng đã thấy bà Hoa bày ra trước nấm mộ mới đắp, bên phải đường mòn, một bát cơm, bốn đĩa thức ăn, ngồi khóc một hồi. Đốt xong thiếp vàng giấy, bà ta ngồi bệt xuống đất, ngẩn ngơ như đang chờ đợi cái gì. Chính bà ta cũng chẳng biết bà ta chờ đợi cái gì nữa. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc cắt ngắn của bà ta, so với năm ngoái chắc là bạc nhiều lắm rồi.
Lại một người đàn bà khác đi dọc đường mòn, tóc cũng bạc già nửa, áo quần rách rưới, tay xách chiếc giỏ tròn sơn đỏ, mũ nát, phía ngòai giắt thiếp vàng giấy, cứ đi ba bước, lại đứng dừng lại. Chợt thấy bà Hoa ngồi bệt giữa đất đang nhìn mình thì bà kia ngập ngừng không dám bước tới nữa, sắc mặt xanh xao bỗng hơi đỏ lên vì xấu hổ, nhưng rồi cũng đánh liều đi tới trước nấm mộ bên trái đường mòn, đặt chiếc giỏ xuống.
Nấm mộ này với nấm mộ thằng Thuyên nằm cùng một hàng, chỉ cách con đường mòn ở giữa. Thấy bà kia cũng bày ra một bát cơm, bốn đĩa thức ăn , đứng khóc một hồi, rồi đốt vàng, thì bà Hoa trong bụng nghĩ thầm: “Chắc cũng là con chết”. Bà kia nhìn vơ vẩn xung quanh một lát, bỗng tay chân hơi run lên, rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, mắt trợn trừng ngơ ngác.
Thấy thế, bà Hoa sợ bà kia thương con quá phát điên chăng, cầm lòng không đậu, bèn đứng dậy, bước sang bên kia đường mòn, khẽ nói:
– Bà ơi! Thôi mà, thương xót làm chi nữa! Ta đi về thôi!
Bà kia hơi gật đầu, nhưng mắt vẫn trừng trừng rồi ấp úng nói khe khẽ:
– Kìa… bà trông kia kìa, cái gì thế này?
Bà Hoa nhìn theo ngòn tay chỉ, thấy nấm mộ trước mặt cỏ chưa xanh khắp, còn loang lổ những mẩu đất vàng khè, rất khó coi ; lại nhìn kĩ phía trên bất giác giật mình. Rõ ràng có một vòng hoa, hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên nấm mộ khum khum.
Cả hai bà, mắt lòa từ lâu rồi, nhưng nhìn những cánh hoa trắng hoa hồng kia thì còn thấy rõ. Hoa không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề. Bà Hoa vội nhìn về phía mộ con mình và những nấm mộ khác xung quanh, chỉ thấy lác đác vài nụ hoa bé tí, trăng trắng, xanh xanh, tuy trời giá lạnh nhưng cũng chưa tàn. Bà ta bỗng thấy lòng trống trải, không thỏa, nhưng rồi cũng không muốn suy nghĩ thêm. Bà kia bước lại gần mộ con mình: “Hoa không có gốc, không phải từ dưới đất mọc lên! Ai đã đến đây! Trẻ con không thể đến chơi. Bà con họ hàng nhất định là không ai đến rồi!… thế này là thế nào?”. Nghĩ rồi lại nghĩ, bỗng nước mắt trào ra, bà ta khóc to:
– Du ơi! Oan con lắm, Du ơi! Chắc con không quên được, và con đau lòng lắm, phải không con? Con hiển hiện lên cho mẹ biết, con ơi!
Bà ta nhìn xung quanh, chỉ thấy một con quạ đen đậu trên cành khô trụi lá. Rồi lại khóc:
– Mẹ biết rồi! Du ơi! Trời còn có mắt, chúng nó giết con thì rồi trời báo hại chúng nó thôi! Du ơi! Con nhắm mắt thế cũng yên phận con. Hồn con còn ở đâu đây thì hẵng nghe lời mẹ nói. Con ứng vào con quạ kia, đến đậu vào nấm mộ con cho mẹ xem, con ơi!
Gió đã tắt. Những ngọn cỏ khô đứng thẳng tắp như những sợi dây đồng. Một tiếng rên rỉ run run đưa lên giữ không trung, nhỏ dần, rồi tắt hẳn. Xung quanh vắng lặng như tờ. Hai bà già đứng giữa đám cỏ khô, ngước mắt nhìn con quạ. Con quạ vẫn đậu trên cành khô trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt.
Một lúc lâu, người đi viếng càng đông. Bóng kẻ già người trẻ thấp thoáng giữa các nấm mộ.
Không hiểu sao, bà Hoa cảm thấy người nhẹ đi như cất được gánh nặng. Bà ta nghĩ đến chuyện về, khuyên giải bà già kia:
– Ta về đi thôi!
Bà kia thở dài một cái, uể oải thu dọn bát đĩa, lại chần chừ một lúc, rồi cũng chậm rãi bước đi, lẩm bẩm nói một mình:
– Thế này là thế nào nhỉ?
Hai bà đi, chưa được vài ba chục bước, bỗng nghe sau lưng một tiếng “Coa… ạ” rất to. Hai bà giật mình ngoảnh lại, thì thấy con quạ xòe đôi cánh, nhún mình, rồi như một mũi tên, vút bay thẳng về phía chân trời xa.
Tháng 4 năm 1919