Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt (5 mẫu), Tài Liệu Học Thi xin mời tất cả các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu lớp 12: Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ Nhặt. Đây là tài liệu
Để có thể giúp cho các bạn học sinh bổ sung thêm nhiều kiến thức Ngữ văn lớp 12, sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số bài văn mẫu lớp 12: Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt.
Vợ Nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm vô cùng độc đáo của nền văn học nước ta. Để có thể hiểu hơn về tác phẩm này, sau đây chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo một số bài văn mẫu Ý nghĩa nhan đề của truyện Vợ nhặt.
Xem Tắt
Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt – Mẫu 1
Kim Lân đã chọn cho đứa con tinh thần của mình là từ “ Vợ nhặt”, đây là một từ ghép phân nghĩa được ghép bởi danh từ “vợ” và động từ “nhặt”. Khi 2 từ đơn này được kết hợp với nhau, động từ nhặt lại ngay lập tức chuyển đổi từ động từ sang tính từ. “Vợ nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ, đó là vợ theo không, người vợ không mai mối, không lễ nghĩa cưới xin. Bởi chỉ cần nhắc tới từ “nhặt” thôi chúng ta đã có rất nhiều những liên tưởng khác nhau. Bởi lẽ, chúng ta chỉ thường biết tới việc nhặt nhạnh bông hoa, nhặt cái cây, nhặt cọng rơm ngọn cỏ, thế nhưng ở đây, có một sự thật thật trớ trêu và bi hài đó là nhặt được vợ.
Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã nên duyên vợ chồng. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi kịch.
Thông thường, chúng ta chỉ thường thấy từ “vợ” đi với những từ như “vợ yêu, vợ đẹp,…” nhưng ở đây lại lại “vợ nhặt” chưa bao giờ giá trị của con lại rẻ rung đến như thế. Nhan đề của tác phẩm mang sức mạnh tố cáo xã hội phong kiến và bọn thực dân đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ đẹp của nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy vọng về cuộc sống. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm. Thêm vào đó, không thể phủ nhận rằng khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chung ta bắt gặp một điều gì đó rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này.
Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt – Mẫu 2
Nhan đề Vợ nhặt thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. “Nhặt” đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kỳ lúc nào. Nhưng “vợ” lại là sự trân trọng. Người vợ có vị trí trung tâm xây dựng tổ ấm. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
Như vậy, nhan đề Vợ nhặt vừa thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945 vừa bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con người trong cảnh khốn cùng.
Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt – Mẫu 3
Nhan đề vừa có tính hài hước,bông đùa, lại vừa có tính chua chát. Vì người ta thường nói “ nhặt” được đồ vật nào đó, chứ không ai nhặt được một con người về làm vợ bao giờ cả. Chuyện mới nghe cứ như đùa, nhưng kỳ thực lại là một cảnh ngộ đau xót rất thực của những con người dưới gầm trời này.
Nhan đề này đã thể hiện giá trị hiện thực của thiên truyện, là lời kết án đanh thép của Kim Lân đối với chế độ Thực dân Pháp và tay sai. Chúng đã đẩy người nông dân vào tình cảnh ngặt nghèo đói ăn “chết như ngả rạ”, thân phận họ thật rẻ rúng trong tình cảnh ấy nên mới có chuyện nhặt được vợ của anh Tràng.
Nhan đề “ Vợ Nhặt” đồng thời cũng thể hiện lòng nhân đạo của tác giả, khi ông đồng cảm xót xa cho cảnh ngộ của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Kim Lân cũng trân trong khao khát về mái ấm hạnh phúc gia đình của người nông dân ngay trong thời buổi đói kém chạy ăn từng bữa đó.
Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt – Mẫu 4
Tựa đề Vợ nhặt có rất nhiều ý nghĩa. Đó là một tựa đề độc đáo, gây sự chú ý, tò mò và lôi cuốn người đọc, góp phần mang lại ý nghĩa sâu xa cho chủ đề chuyện. ”Nhặt ”, vâng người ta chỉ nhặt đồ vật, hàng hóa chứ không ai nhặt vợ. Thế mà Tràng lại nhặt được vợ. Điều đặc biệt ở đây là vì một người như Tràng mà cũng lấy được vợ: nghèo (lấy vợ phải có tiền cheo cưới), là dân ngụ cư, xấu trai… Là vì quá dễ dàng đúng là “nhặt” được về. Một người như Tràng mà lấy được vợ, mới đầu không ai tin. Cả xóm Ngụ Cư đều ngạc nhiên, coi như một điều vô lý. Đến bà cụ Tứ là mẹ Tràng cũng không tin… Ngay đến bản thân Tràng cũng không tin(nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ, như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?.
Ý nghĩa nhan đề truyện Vợ nhặt – Mẫu 5
Nhan đề “Vợ nhặt” vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa nhân đạo rất lớn. Chữ “nhặt” trong “Vợ nhặt” không phải là danh từ như chúng ta có thể lầm tưởng nếu chỉ đọc nhan đề mà chưa tiếp cận với nội dung tác phẩm. Đây là một kết hợp từ rất đặc biệt.
Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống mọi xóm làng.
Trong hoàn cảnh ấy, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ – đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”.
Như vậy, “nhặt” trong “Vợ nhặt “là động từ. Một kết hợp từ đặc biệt chỉ có trong bối cảnh năm 1945 kinh hoàng ấy. Cái đói đã đẩy đến những cảnh bi hài kịch: mạng người trở nên rẻ rúng có thể “nhặt” được như người ta nhặt cái rơm, cái rác ngoài đường, ngoài chợ.
Phải đặt vào truyền thống của dân tộc coi “người ta là hoa đất”, coi việc dựng vợ gả chồng là đại sự: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn – Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông”, mới thấy hết chuyện vợ nhặt theo không như thế này mới thật éo le! Hoàn cảnh đói khát cần duy trì sự sống làm cho người ta quên đi lễ nghĩa đã đành, còn phải bước qua thể diện để theo không về làm vợ người.
Mới hiểu vì sao chị vợ nhặt tủi hổ như thế trước những ánh mắt nhìn ngó, soi xét trên đường theo Tràng về nhà. Nhan đề đã gói trọn tình huống truyện. Đặt trong hoàn cảnh gia đình anh cu Tràng, nhan đề “Vợ nhặt” còn cho chúng ta thấy vẻ đẹp của tình người.
Người ta nhặt nhau về và về với nhau không phải chỉ vì muốn có miếng ăn, có một chốn nương thân. Thẳm sâu của chuyện nhặt vợ ấy là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc “một miếng khi đói bằng một gói khi no” của người dân lao động.
Đằng sau nhan đề ấy, Kim Lân muốn gửi gắm một thông điệp khác: “khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hy vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người”.