Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Mầm non, Mời quý thầy cô cùng tham khảo 4 mẫu thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Mầm non được Tài Liệu Học Thi tổng hợp từ các
Bài thuyết trình Hội thi giáo viên giỏi Mầm non là tài liệu hữu ích, gồm 4 mẫu thuyết trình hay được Tài Liệu Học Thi đăng tải trong bài viết dưới đây.
Thông qua 4 mẫu thuyết trình thi giáo viên dạy giỏi giúp quý thầy cô có thêm nhiều tư liệu tham khảo, giúp giáo viên ôn lại một số kiến thức về lĩnh vực chuyên môn từ đó liên hệ thực tế của bản thân trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Nội dung chi tiết mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây.
Xem Tắt
- 1 Bài thuyết trình Biện pháp gây hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động học
- 2 Bài thuyết trình biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi
- 3 Bài thuyết trình biện pháp dạy trẻ 24 -36 tháng tuổi quan tâm và yêu thương mọi người
- 4 Bài thuyết trình biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua kể chuyện
Bài thuyết trình Biện pháp gây hứng thú cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động học
Kính thưa:
– Ban tổ chức!
– Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học 20….-20…, với “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua hoạt động học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Hoạt động học là một trong những giờ sinh hoạt một ngày của cô và cháu ở trường. Qua hoạt động học sẽ giúp trẻ có thêm một số kiến thức mới về sự vật, hiện tượng xung quanh và kỹ năng cần thiết. Nhưng trẻ của lớp còn hiếu động không chịu ngồi yên, hay đùa nghịch, nói tự do không tập trung chú ý, nên tôi nghĩ việc gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động học là rất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Năm học 20….-20…, được sự phân công của lãnh đạo nhà trường, bản thân phụ trách lớp Mẫu giáo 4-5 tuổi. 1 với 28 trẻ . Trong quá trình tổ chức hoạt động học cho trẻ thì bản thân tôi có những thuận lợi như sau:
* Thuận lợi:
– Lãnh đạo nhà trường luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất và đồ dùng phục vụ cho trẻ trong hoạt động học .
– Một số trẻ ở lớp mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động.
– Được sự quan tâm của các bậc phụ huynh về cách giáo dục trẻ và luôn hỗ trợ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, tôi còn gặp một số khó khăn trong quá trình thực hiện.
* Khó khăn
– Trong lớp còn có trẻ nhút nhát không tham gia hoạt động cùng các bạn. Lớp có nhiều trẻ hiếu động, khả năng tập trung chú ý thấp.
– Một vài trẻ chưa học qua lớp 3- 4 tuổi, trẻ chưa có nền nếp khi tham gia hoạt động học.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, để tổ chức tốt hoạt động học cho trẻ có hiệu quả, bản thân tôi thực hiện biện pháp gây hứng thú cho trẻ qua các hoạt động học như sau:
Nghệ thuật tạo hứng thú cho trẻ trong hoạt động học vừa dễ lại vừa khó. Vì trẻ rất thích những điều mới lạ nhưng dễ chán với những gì quen thuộc. Cho nên, tôi luôn suy nghĩ thay đổi một số hình thức trong hoạt động học để thu hút sự chú ý của trẻ , tạo không khí giờ học trở nên hào hứng, sôi nổi, không gò bó mà vẫn đạt kết quả cao. Cụ thể:
1. Gây hứng thú cho trẻ thông qua đồ dùng, đồ chơi, vật thật
Lên 4 tuổi tư duy trực quan hình tượng của trẻ vẫn còn, nên tôi đã sáng tạo làm nhiều loại đồ dùng, đồ chơi bằng những nguyên vật liệu phù hợp với từng nội dung hoạt động để gây hứng thú cho trẻ, giúp trẻ có những ấn tượng tốt về đồ vật, sự vật đó ngay từ ban đầu hoạt động học.
Ví dụ:
– Trong hoạt động kể chuyện: Tôi dùng bìa cứng, giấy màu, xốp, hộp, chai nhựa, vải, len, các hột hạt tạo thành những nhân vật rối que, rối tay để làm đồ dùng trực quan gây hứng thú cho trẻ.
Chẳng hạn với câu chuyện “Thỏ ngoan” tôi dùng vải vụn, bông gòn, hột hạt tạo những nhân vật rối như Thỏ, Cáo, Bác Gấu để cho trẻ đoán câu chuyện cô sắp kể, từ đó trẻ sẽ chú ý lắng nghe câu chuyện cô sắp kể với các nhân vật đó.
– Trong hoạt động môi trường xung quanh “Tìm hiểu vật nuôi trong gia đình”
Tôi sử dụng con vịt thật, cho trẻ nghe tiếng kêu và đoán tên con vịt. Sau đó tôi cho trẻ xem con vịt và cùng trò chuyện.
Cũng với đồ dùng tự tạo đó tôi chú ý đến việc sử dụng giới thiệu cho trẻ bằng nhiều hình thức khác nhau để gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ:
– Trong hoạt động thể dục: Tôi dùng quả bóng, kẽm lông, vải nỉ làm mũ kiến, tôi cho trẻ đội làm những chú kiến nhảy vũ điệu Kiến, trẻ rất thích ngay từ đầu hoạt động.
– Trong hoạt động tạo hình: Với đề tài “Những chiếc vòng xinh” tôi cho trẻ chuyền tay nhau những chiếc vòng làm bằng lá dừa, lá mì trẻ rất thích và từ đó trẻ sáng tạo hơn trong làm ra sản phẩm.
2. Gây hứng thú thông qua trò chơi
Để tránh tình trạng trẻ bị nhàm chán, mệt mỏi trong hoạt động, tôi luôn tổ chức đan xen các trò chơi để nhằm thay đổi giữa trạng thái động và tĩnh cho trẻ. Từ nội dung của hoạt động, tôi chuyển sang trò chơi một cách nhẹ nhàng để thông qua chơi mà trẻ học. Hay thông qua chơi trẻ sẽ được cảm giác thoải mái để tiếp tục tham gia hoạt động.
Ví dụ:
– Trong kể chuyện “Quả trứng” tôi cho trẻ đội mũ vịt chơi trò chơi “Chuyển trứng vào ổ”. Sau khi chuyển hết trứng, cô mời các chú vịt đi ngủ. Trẻ ngồi nhắm mắt lại. Cô ra hiệu lệnh trời sáng, trẻ mở mắt ra. Cô nói cho trẻ biết sau một đêm số trứng của trẻ chuyển về đã nở ra những chú vịt con rất xinh xắn(cô làm những chú vịt bằng hũ sữa chua) và tặng những con vịt đó cho trẻ. Sau đó, cô cho trẻ chơi với những chú vịt đó bằng những trò chơi khác nhau như xây chuồng vịt, nặn thức ăn cho vịt,… trẻ rất thích thú và tích cực tham gia vào hoạt.
– Trong hoạt động tìm hiểu các con vật: Sử dụng trò chơi như: Đối đáp về tiếng kêu các con vật (cô nêu tên con vật, trẻ làm tiếng kêu và mô phỏng dáng đi điệu bộ của con vật tương ứng). Sau đó, cô cùng trẻ trò chuyện về các con vật.
– Trong hoạt động âm nhạc: Đề tài “Hát: Đàn gà trong sân”, sau khi trẻ thuộc bài hát, cô tổ chức cho trẻ chơi trò chơi âm nhạc bằng cách nghe giai điệu phát ra từ chú gà trống và đoán tên bài hát, chích bong bóng tìm yêu cầu của trò chơi âm nhạc,…
– Trong hoạt động thể dục: cho cả lớp chơi: Bóng lăn, trẻ vừa chơi vừa mô phỏng quả bóng lăn về hai hàng ngang bên phải- trái (thay vì cô yêu cầu trẻ về hai đội bạn trai, bạn gái).
Hay tôi sử dụng một số trò chơi nhỏ như “Trời tối, trời sáng”, “Úm ba la”,… để gây sự bất ngờ cho trẻ xem một vật nào đó.
Như vậy có rất nhiều trò chơi để gây hứng thú nhưng tùy theo hoạt động học mà tôi vận dụng một cách sáng tạo để luôn đem lại hứng thú cho trẻ.
3. Gây hứng thú thông qua sử dụng âm nhạc, thơ, vè, kể chuyện
Âm nhạc là hoạt động thường mang tính vui tươi, nhí nhảnh, mang lại sự hứng thú cho trẻ rất cao. Vì vậy, tôi thường dùng âm nhạc vào hoạt động học để gây hứng thú cho trẻ.
– Ví dụ: Chủ đề “Trường mầm non” tôi cho trẻ hát và vận động bài hát “Vui đến trường”, sau đó cùng trò chuyện với trẻ về trường mầm non. Hay học đếm đến 5, cô cho trẻ hát bài hát “Tập đếm”.
Để tạo sự mới lạ, tôi sáng tác một số bài hát dựa trên lời bài hát có sẵn để gây hứng thú cho trẻ.
-Ví dụ: Hoạt động tìm hiểu về quả, sau khi chơi trò chơi hái quả cô cho trẻ hát theo giai điệu bài hát: “Lý kéo chài” để chuyển hoạt động.
“Đã đến rồi khu vườn cây trái, chúng mình ơi thăm bác nông dân. Tình tang tang tình tính tang. Giúp bác nông dân cùng nhau hái quả để đem về nhà. Ơi hò là hò ơi!”
Sử dụng bài thơ, bài vè, câu chuyện có liên quan đến hoạt động học tạo cho trẻ được nhiều hứng thú.
– Chẳng hạn như ở hoạt động “Tìm hiểu những con côn trùng” đầu tiên trò chuyện về con muỗi, tiếp theo là trò chuyện về con kiến, nhưng nếu để trẻ ngồi một chỗ trò chuyện từ con vật này sang con vật khác thì trẻ rất dễ nhàm chán, không hứng thú vào hoạt động nữa nên tôi cho trẻ đứng lên làm đàn kiến và cùng đọc bài đồng dao về con kiến để di chuyển đến mô hình đàn kiến trẻ rất thích. Hay sau khi cung cấp kiến thức xong, tôi cho cả lớp cùng đọc bài thơ tự sáng tác để về 3 đội thi đua. Nội dung bài thơ như sau:
Kiến xanh, kiến đỏ
Kiến cam, kiến vàng
Đi lại từng đàn
Kiếm được mồi ngon
Cùng tha về tổ
Hay trong hoạt động làm quen với toán: Cho trẻ đọc bài vè về quả, sau đó cho trẻ lên tìm những loại quả có trong bài vè và đếm số lượng.
Hay trong hoạt động tìm hiểu về nghề trồng lúa: Kể cho trẻ nghe câu chuyện sự tích hạt lúa, sau đó cùng trẻ tìm hiểu về nghề trồng lúa.
4. Gây hứng thú thông qua sử dụng tình huống
Để mở đầu cho hoạt động, tạo được hứng thú cho trẻ, tôi dựa vào nội dung yêu cầu để sử dụng những hình thức kích thích trẻ suy nghĩ, phán đoán và có nhu cầu muốn được tìm hiểu, khám phá. Sử dụng tình huống có vấn đề là đưa ra tình huống có vấn đề và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết. Trẻ có thể đưa ra nhiều phương án khác nhau, cô và trẻ cùng thử thực hiện và chọn cách giải quyết hiệu quả nhất.
Chẳng hạn ở hoạt động “Tìm hiểu về gió”, tôi tắt hết quạt, đóng cửa sổ, cô và trẻ cùng chơi trò chơi: Bay thấp- bay cao. Rồi cô gợi hỏi trẻ:
+ Con cảm thấy không khí của lớp như thế nào?
+ Muốn mát mình phải làm sao?
Rồi cô và trẻ thử mở cửa sổ, dùng quạt giấy, lấy khăn ướt lau mặt,… Sau đó, cả lớp cùng thử mở quạt máy. Cô hỏi trẻ chọn cách nào là mát nhất.
– Hay tình huống: Cô ra vườn hái một số loại trái cây, yêu cầu trẻ tìm ra những loại trái cây có đặc điểm giống nhau (Hoạt động tìm hiểu về loại trái cây nhiều hạt), gà mái mẹ lạc mất trứng, nhờ lớp tìm giúp 4 quả trứng mang về ổ (Hoạt động: Đếm đến 4. Nhận biết chữ số 4),…
Sau thời gian áp dụng “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua các hoạt động học”, tôi đạt được một số kết quả như sau:
* Đối với giáo viên:
– Tôi có thêm kinh nghiệm hơn trong việc gây hứng thú cho trẻ trong hoạt động học.
– Các hoạt động học đạt hiệu quả và thu hút trẻ tham gia tích cực hơn.
* Đối với trẻ:
– Trẻ tập trung vào giờ học nhiều hơn, tiếp thu nhanh kiến thức mới và có những kỹ năng cần thiết.
Tóm lại để hoạt động học có hiệu quả, trẻ trung chú ý vào hoạt động, theo bản thân tôi cần phải:
– Có hiểu biết đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, khả năng, nhu cầu của trẻ để có phương pháp giáo dục thích hợp.
– Tạo môi trường hoạt động phong phú. Sử dụng nguyên vật liệu, đồ dùng đồ chơi một cách có hiệu quả. Tổ chức hoạt động một cách nhẹ nhàng, kết hợp nội dung kiến thức của chủ đề với các hình thức tổ chức khoa học, hợp lý để thu hút trẻ tham gia tích cực.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua các hoạt động học”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài thuyết trình biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 – 5 tuổi
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Biện pháp gây hứng thú cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi qua hoạt động học”.
Kính thưa ban giám khảo!
Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ nhỏ. Giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin bước vào giai đoạn tiểu học.
– Về thể chất: giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự kiên trì, bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo, kiên trì, giúp cho trẻ nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.
– Về tình cảm: giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ, sống có trách nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ.
– Về giao tiếp-ngôn ngữ: giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin, giao tiếp hiệu quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hòa nhã.
– Về nhận thức: giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến thức, ham mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mê học tập suốt đời.
– Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có bước đệm chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn tiểu học: việc giáo dục kỹ năng sống từ sớm giúp trẻ có khả năng thích nghi với sự thay đổi môi trường sống, khả năng hòa nhập nhanh, giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Những kỹ năng cần dạy cho trẻ mầm non không chỉ giúp trẻ có khả năng thích nghi tốt. Mà còn giúp bé rèn luyện tính tự giác, tự lập từ nhỏ trẻ thể hiện cá tính của bản thân mạnh mẽ nhất. Các bé sẽ cảm thấy tò mò với mọi thứ và sẽ rất cố gắng để học hỏi những điều mới mẻ. Vì vậy đây là thời điểm thích hợp nhất để các bậc cha mẹ cũng như thầy cô rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho bé.
*Thuận lợi:
Trường có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ theo quy định cho các độ tuổi.
Trẻ được phân chia học theo độ tuổi 100% và được thực hiện chương trình Giáo dục mầm non.
Giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, luôn năng nổ, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kỹ năng tốt để hướng dẫn trẻ trong quá trình học tập.
Phụ huynh có hiểu biết về Giáo dục mầm non và rất quan tâm đến công tác chăm sóc và giáo dục trẻ của nhà trường.
*Khó khăn:
Số học sinh tương đối đông, vượt chỉ tiêu biên chế số trẻ/lớp đối với các độ tuổi.
Học sinh đa số được phụ huynh nuông chiều quá mức nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ.
Một số phụ huynh chỉ quan tâm đến việc học văn hoá của con mà không quan tâm đến việc dạy các kỹ năng sống cho trẻ nên một số trẻ rất ương bướng và khó bảo.
* Khảo sát thực trạng chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi ở trường trước khi thực hiện đề tài:
Hiện nay, trong các nhà trường đã chú trọng việc đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động hàng ngày dưới nhiều hình thức, đưa lồng ghép vào các hoạt động là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ. Tuy nhiên, ở một số giáo viên chưa thực sự quan tâm tới việc giáo dục rèn kĩ năng sống cho trẻ, chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đối với trẻ, vào đầu năm học nề nếp, kĩ năng sống còn hạn chế. Vì vậy giáo viên thường tập trung lo lắng cho những trẻ có vấn đề về hành vi và khả năng tập trung. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non.
Các biện pháp thực hiện giáo dục kỹ năng sống cần thiết cho trẻ 4-5 tuổi
Biện pháp 1: Lồng ghép các nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các tháng.
Biện pháp 2: Giáo dục kỹ năng sống qua bài tập tình huống tại trường mầm non
Biện pháp 3: Phát triển các kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
Biện pháp 4: Sưu tầm những bài thơ , câu chuyện về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Điều đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động xử lý linh hoạt các tình huống trong cuộc sống, trẻ được bắt đầu làm quen với các kỹ năng như giao tiếp, thích nghi, khám phá thế giới xung quanh, kỹ năng tự chăm sóc bản thân, kỹ năng tạo niềm vui, tự bảo mình, kỹ năng làm việc nhóm, và kỹ năng tự quyết một số tình huống phù hợp với lứa tuổi. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non có một ý nghĩa rất lớn trong sự hình thành con người của trẻ sau này.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!
Bài thuyết trình biện pháp dạy trẻ 24 -36 tháng tuổi quan tâm và yêu thương mọi người
I. Cơ sở lí luận:
Như chúng ta biết:”Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Trẻ em chính là niềm vui, niềm hạnh phúc, niềm hi vọng của mỗi gia đình và toàn xã hội.
Làm tốt việc chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ lứa tuổi mầm non là một sự khởi đầu hết sức quan trọng và cần thiết hình thành nhân cách cho trẻ để sau này trẻ trở thành những người công dân tốt – thế hệ tương lai của đất nước.
Như chúng ta biết nhân cách của trẻ không phải ngẫu nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở nền tảng của giáo dục. Là một giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề tôi luôn băn khoăn làm thế nào để có thể giáo dục các bé biết yêu thương, đoàn kết, quan tâm, chia sẻ với bạn bè, người thân và mọi người xung quanh. Và đó là lý do tôi chọn bài thuyết trình về: “Một số biện pháp dạy trẻ 24 -36 tháng tuổi quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh”.
II. Biện pháp thực hiện:
Biện pháp 1: Khảo sát
Tôi tiến hành khảo sát trẻ như sau:
– Thông qua hoạt động vui chơi, chơi ở các góc, tôi bao quát, quan sát trẻ chơi sau đó ghi chép lại một cách cẩn thận, tỉ mỉ xem trong khi chơi trẻ có tranh giành đồ chơi với bạn không, biết nhường bạn hay chưa, trẻ đã biết chơi đoàn kết cùng các bạn chưa, trẻ có biết phối hợp cùng bạn trong lúc chơi không?
– Thông qua giờ đón trả trẻ, các giờ hoạt động trong ngày trẻ chơi cùng bạn, tôi quan sát trẻ sau đó ghi chép lại những thái độ, cách bộc lộ cảm xúc của trẻ với bố mẹ, cô giáo và các bạn.
* VD: Tôi cho trẻ quan sát một đoạn video về câu chuyện ‘‘Đôi bạn nhỏ” và đàm thoại với trẻ:
+ Các con vừa xem gì?
+ Con thấy bạn gà và bạn vịt trong đoạn băng đang làm gì?
+ Điều gì xảy ra khi bạn gà bị cáo đuổi bắt?
=> GD trẻ biết quan tâm, giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn
– Trong giờ đón trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ:
+ Ở nhà các con biết làm những công việc gì để giúp đỡ bố mẹ?
+ Để bố mẹ vui lòng thì con thường làm gì?
+ Con cảm thấy thế nào khi được bố mẹ khen?
Như vậy, việc giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của việc biết yêu thương và chia sẻ là điều không thể thiếu được trong quá trình giáo dục trẻ phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ mầm non.
Biện pháp 2: Giáo dục trẻ biết yêu thương và quan tâm trên hoạt động học:
Thời gian cho mỗi hoạt động học của trẻ nhà trẻ là từ 15- 20 phút nên nội dung tích hợp trong mỗi bài giảng còn hạn chế, chưa có tác dụng khơi gợi cảm xúc và kích thích mong muốn thể hiện tình cảm ở trẻ. Vì vậy tôi đã thiết kế giáo án nhằm dạy trẻ biết quan tâm và yêu thương với mọi người.
Giáo án: Nhận biết tập nói
Giáo án: Dạy trẻ biết chia sẻ yêu thương.
Đề tài: : Bản thân và gia đình thân yêu
* Mục đích- yêu cầu:
– Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, trí tưởng tượng, trẻ hiểu chia sẻ là niềm vui.
– Trẻ biết tên các thành viên trong gia đình
– Trẻ biết yêu mến những người thân trong gia đình.
Qua bài học trẻ biết quan tâm yêu thương không chỉ với bạn bè và mọi người xung quanh mình mà trẻ còn biết yêu thiên nhiên biết cùng bạn bảo vệ môi trường xung quanh mình.
Biện pháp 3: Dạy trẻ biết quan tâm và chia sẻ thông qua trò chơi tập thể:
Như chúng ta đã biết, hoạt động chủ đạo của trẻ chính là hoạt thộng vui chơi.Trẻ học thông qua chơi, chơi thông qua học.
Ví dụ một số trò chơi:
* Trò chơi 1: “Hành động yêu thương”
+ Trẻ biết thể hiện tình cảm của mình cho bạn biết bằng các cử chỉ, hành động đơn giản như cầm tay, nắm tay, khoác vai, ôm bạn.
* Trò chơi 2: “Tình bạn thân thiết”
* Trò chơi 3: “ Sinh nhật vui vẻ”
Biện pháp 4: Sưu tầm bài thơ, truyện có nội dung dạy trẻ biết quan tâm giúp đỡ mọi người
VD: Bài thơ: “ Bạn mới”
Giáo dục trẻ: Thông qua bài thơ giáo dục trẻ biết giúp đỡ , quan tâm đến bạn bè xung quanh
VD: Bài thơ: “Yêu mẹ”
Giáo dục trẻ: Biết yêu mẹ của mình và những người thân trong gia đình
Những câu truyện sưu tầm:
VD: Truyện: “Đôi bạn tốt”
Giáo dục trẻ: Thông qua câu chuyện “Đôi bạn tốt”, giáo dục trẻ biết yêu thương, chia sẻ và nhường nhịn bạn
Biện pháp 5: Dạy trẻ biết chia sẻ thông qua ngày hội, ngày lễ:
Ngày 20/10, ngày Tết Trung Thu, Noel, Tết Nguyên Đán, ngày 8/3 và đặc biệt hướng ứng ngày hạnh phúc 20/3. Với mỗi ngày hội tôi cố gắng sử dụng một hình thức tổ chức riêng nhằm lôi cuốn hấp dẫn trẻ tích cực tham gia hoạt động.
Ví dụ: Ngày 8/3- ngày quốc tế phụ nữ
Trước ngày tổ chức lễ hội tôi cùng trẻ trò chuyện về ý nghĩa ngày hội, đưa ra ý định, hình thức tổ chức và thăm dò ý kiến của trẻ về món quà tặng bà và mẹ. Sau đó dạy trẻ làm bưu thiếp tặng bà, tặng mẹ, giúp trẻ ghi lại cảm xúc, lời chúc của trẻ dành cho bà và mẹ.
Biện pháp 6: Phối kết hợp với phụ huynh để dạy trẻ biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh
– Qua bảng tuyên truyền ở lớp và giờ đón, trả trẻ tôi kết hợp với phụ huynh thường xuyên giáo dục trẻ biết quan tâm và giúp đỡ mọi người xung quanh
– Qua đó sự chăm sóc và giáo dục cho trẻ tôi thấy được sự chú ý của trẻ phát triển một cách rõ rệt.
Muốn trẻ em hình thành được tính quan tâm đến mọi người thân xung quanh trẻ thì nhà trường và phụ huynh phải thống nhất những yêu cầu giáo dục trẻ. Giáo viên thông báo với phụ huynh những biện pháp giáo dục trẻ, yêu cầu phụ huynh theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực tiễn ở nhà để cùng phối hợp giáo dục trẻ.
III. Kết quả khảo sát thực nghiệm:
Thời gian |
Trẻ biết quan tâm (%) |
Trẻ chưa biết quan tâm (%) |
Trẻ biết yêu thương (%) |
Trẻ chưa biết yêu thương (%) |
Đầu năm |
17/30 = 56,6% |
13/30 = 43,3% |
16/30 = 53,3% |
14/30 = 46,4 % |
Cuối năm |
25/30 = 83,3% |
5/30 = 16,6% |
25/30 = 83,3 % |
5/30 = 16,6% |
Qua kết quả thực nghiệm tôi thấy. Phần lớn các cháu thích đến lớp, biết vâng lời cô, yêu thương giúp đỡ bạn và mọi người xung quanh.
– Trong giờ chơi hiện tượng đánh nhau, tranh giành đồ chơi giảm bớt và không còn nữa. Trẻ chơi đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau.
– Không những thế trẻ biết quan tâm, chia sẻ công việc với cô và bạn bè như: Giúp cô, lấy ghế ngồi, lấy đồ những đồ dùng của trẻ khi cô yêu cầu….
IV. Kết luận
Qua quá trình thực hiện giáo dục trẻ biết quan tâm và yêu thương mọi người xung quanh chúng ta thấy rằng việc giáo dục trẻ biết yêu thương và chia sẻ là một yếu tổ rất quan trọng và rất cần thiết. Muốn đạt được những thành tích trên, trước hết là nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự đoàn kết của chị em đồng nghiệp, nhà trường và phụ huynh đã giúp đỡ để tôi thực hiện chuyên đề một cách dễ dàng hơn.
Bản thân tôi được trao đổi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ qua các hoạt động học, các hoạt động vui chơi, ngoài ra tôi còn được phụ huynh, đồng nghiệp tin tưởng, yêu quý.
Vừa rồi tôi đã trình bày xong bài thuyết trình của mình, xin cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe.
Bài thuyết trình biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng thông qua kể chuyện
Kính thưa:
Ban tổ chức!
Thưa Ban giám khảo!
Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia thuyết trình trong hội thi “Giáo viên dạy giỏi” cấp Huyện năm học …, với “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36t thông qua kể chuyện trẻ nghe”.
Kính thưa ban giám khảo!
Đối với trẻ nhà trẻ nói chung và trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với ngôn ngữ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát , bài thơ, đồng dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Lứa tuổi này trẻ đang học nói, Những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy việc cho trẻ tiếp xúc sớm với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể lại chuyện là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Thông qua hoạt động kể chuyện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tư duy, trí nhớ , biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ tập kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng, trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về câu chuyện bằng chính ngôn ngữ của trẻ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu phát triển toàn diện cho trẻ mầm non. Do vậy là giáo viên dạy trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng tuổi tôi đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc biệt là thông qua hoạt động dạy trẻ kể lại chuyện. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện.
*Thuận lợi
a. Cơ sở vật chất:
– Nhà trường được sự quan tâm giúp đỡ của các cấp như: UBND quận, PGD&ĐT quận, Đảng ủy, UBND phường, hội cha mẹ học sinh.
– Cơ sở 1 và cơ sở 2 của nhà trường được đầu tư xây dựng mới nên có đầy đủ các phòng chức năng, lớp học rộng, thoáng, đầy đủ đồ dùng đồ chơi.
– Sân trường rộng, thoáng, xanh, sạch, đẹp.
b. Giáo viên:
– Giáo viên trong lớp đều có trình độ, nghiệp vụ sư phạm vững vàng, năng động, sáng tạo, có năng khiếu làm đồ dùng, yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục mầm non.
c. Học sinh:
– Lớp tôi đang dạy là lớp nhà trẻ có độ tuổi từ 24-36 tháng với 34 trẻ, 100% các cháu đúng độ tuổi, sức khỏe bình thường, khả năng vận động tương đối đồng đều.
– Trẻ ở lớp với cô cả ngày, nên thuận lợi trong việc giáo dục rèn luyện có tính xuyên suốt.
d. Cha mẹ học sinh:
– Cha mẹ học sinh nhiệt tình phối hợp với trường lớp trong các nội dung chăm sóc giáo dục của nhà trường với con em mình.
*Khó khăn
a. Giáo viên
– Đây là năm đầu tiên trường có lớp nhà trẻ vì vậy giáo viên gặp nhiều khó khăn.
b. Trẻ:
– Ngôn ngữ của trẻ đầu năm còn hạn chế, trẻ chỉ nói được 1 đến 2 từ đơn giản như: Ạ, vâng, bố, mẹ, bà, cô.
– Các trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin
c. Phụ huynh học sinh:
– Đa số phụ huynh ở khu vực này là đi chợ buôn bán cả ngày, họ thường ít có thời gian bên con, trò chuyện với con.
– Có một số phụ huynh còn xem nhẹ khả năng nói của con, họ nghĩ để con phát triển tự nhiên, dần dần sẽ tự biết nói.
Các biện pháp đã tiến hành
1. Giáo viên phải chuẩn bị kỹ các nội dung của hoạt động trước khi dạy:
Hoạt động kể chuyện là một trong những hoạt động giúp trẻ phát triển ngôn ngữ rất tốt nhưng hoạt động kể chuyện có thành công hay không phần lớn là do giọng kể của giáo viên, mà muốn có giọng kể hay thì trước hết người giáo viên phải thuộc truyện, hiểu nội dung truyện. Chính vì vậy tôi luôn đọc kỹ truyện, luyện giọng kể sao cho ngộ nghĩnh đáng yêu phù hợp với từng nhân vật trong truyện:
VD: Truyện “ Thỏ con không vâng lời” giọng của thỏ mẹ, bác gấu thì ấm hơn, nói chậm và tình cảm.
– Giọng của thỏ con lúc vui thì nhí nhảnh, trong trẻo. Khi làm sai thì nức nở, buồn bã hoặc dùng tay gạt nước mắt.
2. Tích cực sưu tầm, làm đồ dùng đẹp và sáng tạo phù hợp với nội dung truyện:
Trẻ nhà trẻ thích màu sắc rực rỡ, đồ vật phát ra tiếng kêu và có âm thanh vui nhộn. Vì vậy để tạo được hứng thú cho trẻ trong hoạt động kể truyện tôi đã không ngừng tìm tòi, làm đồ dùng từ nguyên liệu sẵn có sao cho đẹp mắt, hấp dẫn trẻ nhưng phải đảm bảo an toàn, sử dụng hợp lý. Cô sử dụng đồ dùng thành thạo, tạo tình huống bí mật để thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái tự tin và kích thích trẻ nói được nhiều.
Ví dụ: Truyện “Cây táo”: Từ vỏ chai nước ngọt tôi đã cắt và tận dụng phần đáy của hai cái chai ghép vào nhau thành quả táo sau đó phun sơn màu xanh, đỏ theo ý thích rồi trang trí lên cây khi trẻ lên bắt chước hành động của nhân vật trẻ được lên chăm sóc, được cầm, được chơi với chúng, trẻ được nói theo ý hiểu của trẻ qua đó trẻ có thể dễ dàng tưởng tượng ra cây táo thật.
– Khi trẻ được nhìn, cầm trên tay trẻ rất thích thú, trẻ sẽ dễ dàng nói tên và biết đặc điểm của cây táo.
Ngoài tranh truyện do nhà trường cấp phát tôi còn làm rối tay, rối dẹt để dạy trẻ.
Ví dụ: Để làm mô hình ngôi nhà sao cho gần gũi với cảnh nông thôn Việt Nam tôi dùng tre để làm thân nhà và dùng rơm để làm mái nhà đó là những nguyên liệu dễ tìm mà lại còn gần gũi với trẻ. Hay những con rối bằng vải vụn. Trước kia có một số đồng nghiệp cho rằng hoạt động kể chuyện thì không cần có đồ dùng như các tiết học khác mà chỉ làm đồ dùng cho cô nên trẻ hay nhàm chán. Đối với lứa tuổi nhà trẻ các nhân vật trong truyện đều là các con vật gần gũi. Những con vật nhỏ nhắn xinh xắn luôn là những người bạn đáng yêu của trẻ, hiểu được tâm lý này của trẻ nên khi kể truyện tôi đã làm đồ dùng cho trẻ như mũ các nhân vật gà con, vịt con, thỏ con để trẻ được cầm, đội và bắt chước nhân vật trong truyện. Việc làm đồ dùng phục vụ cho các hoạt động kể truyện đó là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng sáng tạo của trẻ trong giờ học, khi trẻ có hứng thú với các hoạt động trẻ sẽ mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, điều đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ trong các hoạt động.
3. Đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động học:
Các nhân vật trong truyện thì luôn vận động và thay đổi vị trí nhưng nếu ta chỉ dạy bằng tranh thì trẻ khó có thể tưởng tượng và hiểu được những hành động của nhân vật. Vì vậy tôi kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào làm và tìm tòi các hiệu ứng hình ảnh, slides để tạo hứng thú, kích thích trẻ tập nói để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Thường xuyên truy cập vào các trang web như: Giáo dục mầm non.vn, giáo án điện tử. com, youtube. Com, suối nguồn yêu thương.net, học viện IQ để tìm các tài liệu, video có nội dung phù hợp với nội dung bài dạy sau đó sử dụng máy tính, tivi vào dạy trẻ.
4. Lựa chọn câu hỏi đàm thoại và nội dung tích hợp:
Trẻ ở lứa tuổi này nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi thường xuyên nhắc nhở trẻ hoặc nói mẫu cho trẻ nghe, động viên khuyến khích trẻ nhắc lại, luôn tạo điều kiện đáp ứng mọi câu hỏi của trẻ một cách ngắn gọn, dễ hiểu. Hệ thống câu hỏi phải phù hợp với độ tuổi, kích thích trẻ nhận biết, phân biệt được sự vật, hiện tượng tình huống mà trẻ đang trực tiếp tri giác.
Cho trẻ kể cùng cô: Cô là người dẫn truyện, trẻ kể tiếp cùng cô. Sau khi xác định được câu hỏi đàm thoại. Tôi suy nghĩ để tích hợp các nội dung khác vào giờ kể chuyện sao cho hợp lý, logic phù hợp với giờ học.
Ví dụ: Để gây hứng thú vào bài trong các câu chuyện tôi có thể tích hợp thêm:
+ Trò chơi vận động
+ Âm nhạc: Khi kết thúc hoạt động tôi thường cho trẻ hát, vận động theo nhạc.
+ Tập nói: Trong giờ kể truyện tôi luôn chú ý cho trẻ đọc và phát triển từ, chú ý sửa sai cho trẻ khi trẻ đọc chưa đúng, tôi cho trẻ bắt chước, nhắc lại lời nói của nhân vật hoặc từ láy nhiều lần.
Cô giải thích nghĩa của từ khó kết hợp động tác minh họa giúp cho trẻ hiểu, trẻ nói và làm theo cô.
5. Thay đổi hình thức tổ chức phù hợp, sáng tạo:
Thông thường các giáo viên tổ chức các hoạt động kể chuyện trong lớp và cho trẻ ngồi hình chữ U từ đầu đến cuối vì cho rằng trẻ nhà trẻ còn nhỏ không cần thay đổi chỗ ngồi và địa điểm. Chính vì vậy đã khiến trẻ cảm thấy khó chịu, nàm chán thậm chí nằm bò ra sàn nhà dẫn đến tình trạng trẻ không chú ý, không nhớ được tên truyện và không trả lời được các câu hỏi của cô nên mở rộng vốn từ cho trẻ còn ít. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải thay đổi hình thức tổ chức linh hoạt.
Ví dụ: Với câu chuyện “ Sẻ con” tôi cho trẻ ra vườn cổ tích và đứng xung quanh các nhân vật để nghe cô kể chuyện để được nhìn, vuốt ve và gọi tên các nhân vật mà mình yêu thích.
Hoặc xây dựng khung cảnh truyện ngay trong lớp học. Cô giáo là người dẫn truyện còn trẻ đóng vai, bắt chước các nhân vật trong truyện và kể cùng cô. Trẻ khi được bắt chước các nhân vật sẽ rất thích thú và chú ý vào mọi hoạt động qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn từ và sự hiểu biết của mình về các hiện tượng xung quanh. Trẻ biết nói đủ câu và trả lời cô rõ ràng mạch lạc.
6. Chú ý đến trẻ cá biệt và chậm phát triển:
Bên cạnh việc thay đổi hình thức tổ chức thì vấn đề cô giáo phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi và quan trọng hơn là phải nắm rõ đặc điểm riêng của từng trẻ nhằm tìm ra các biện pháp bồi dưỡng cho trẻ theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi hợp lý:
+ Trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ mạnh dạn, tự tin và nhanh nhẹn.
+ Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình.
+ Trẻ hiếu động, cá biệt, hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan, trẻ hay khóc ngồi cạnh cô giáo, để dễ quan sát và tiện cho việc điều hành trẻ tốt hơn. Việc phân nhóm này rất có hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tôi lấy ví dụ thực tế đã trải qua: Theo sự sắp xếp chỗ ngồi trên, khi tôi mời một cháu khá trả lời câu hỏi thì cháu trung bình ngồi cạnh bên bạn có thể nghe được câu trả lời của bạn và khi được cô mời lên trả lời lại thì cháu sẽ trả lời được và với sự động viên khen thưởng của cô sẽ tạo cho trẻ hứng thú học và trẻ đó sẽ dần dần tiến bộ lên làm cho nề nếp học tập của trẻ ngày càng ổn định.
Kính thưa Ban tổ chức, ban giám khảo!
Tôi vừa trình bày xong bài thuyết trình: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36t thông qua kể chuyện trẻ nghe”.
Cuối cùng xin kính chúc Ban tổ chức, ban giám khảo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Chúc Hội thi thành công tốt đẹp!
Trân trọng cảm ơn!