Bài văn mẫu Lớp 11 – Bài viết số 6: Nghị luận xã hội (Đề 1 đến Đề 5), Bài tập làm văn mẫu Lớp 11 số 6 (Từ đề số 1 đến đề số 5) là tài liệu tham khảo hữu ích vì nó
Để giúp các em học sinh có nhiều ý tưởng hay cho bài viết số 6 lớp 11 môn Tập làm văn. Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến các bạn bộ sưu tập Bài tập làm văn mẫu Lớp 11 số 6 (từ đề số 1 đến đề số 5).
Hi vọng, những bài văn mẫu hay lớp 11 dưới đây sẽ giúp các em biết lập dàn ý khi làm văn, nắm được các cách kể lại một câu chuyện đã đọc, hoàn thành bài viết số 6 một cách tốt nhất. Chúc các em học tốt!
Xem Tắt
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 6 – Đề 01
Đề 1: Anh (chị) hãy trình bày suy ngẫm của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội hiện nay
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Nói qua về cuộc sống hiện hiện là ngọn nguồn của căn bệnh vô cảm.
– Trong thế kỷ 21 này nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển trên tất cả các lĩnh vực, mang lại nhiều lợi ích cho con người.
– Tuy nhiên sự phát triển của kinh tế, khoa học công nghệ cũng khiến con người dễ mắc bệnh một căn bệnh đó là bệnh vô cảm.
II. Thân bài:
– Giải thích bệnh vô cảm là gì? Bệnh vô cảm là thái độ sống thờ ơ, với những gì xung quanh, những thứ không liên quan tới quyền lợi, hay lợi ích của mình thì không quan tâm, không tham gia, không bận lòng.
– Bệnh vô cảm, không phải là bệnh gây ảnh hưởng tới sức khỏe của con người. Nhưng nó làm con người trở nên chai lì, mất đi cảm xúc tâm hồn, thờ ơ với thời cuộc.
– Lâu dần căn bệnh này sẽ thành mãn tính khó chữa, là cho con người sống trong xã hội không còn tinh thần đoàn kết, yêu thương, chia sẻ.
– Mở rộng lấy một số ví dụ về bệnh vô cảm hay gặp trong cuộc sống như: Khi ta thấy một người bị tai nạn giao thông đang bất tỉnh, rất nhiều người sẽ dừng xe lại để xem người đó vì tò mò. Nhưng rất ít người giúp đỡ hoặc gọi một cuộc điện thoại cho xe cấp cứu.
– Hậu quả của bệnh vô cảm là? Chính những hành động thờ ơ, vô cảm này của con người đã làm cho xã hội của chúng ta ngày càng phức tạp, hỗn loạn, thiếu an toàn. Tội phạm thì ngày càng manh động chúng ra tay tàn ác hơn, còn người tốt thì không dám lên tiếng vì nếu họ chỉ có một mình sẽ không làm gì được bọn xấu.
– Chính thái độ vô cảm của chúng ta, khiến cho cái tốt ngày càng bị thui chột, cái xấu ngày càng gia tăng. Chúng ta đang giết chết chúng ta bởi căn bệnh vô cảm này.
– Những truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã để lại từ bao đời nay. Truyền thống “lá lành đùm lá rách” “uống nước nhớ nguồn”…
III. Kết bài:
– Vô cảm sẽ trở thành căn bệnh trầm kha vô phương cứu chữa nếu như chúng ta không lên tiếng ngăn chặn nó, loại bỏ nó ra khỏi cuộc sống hiện tại của chúng ta.
– Mỗi cá nhân cần phải tự rèn luyện đạo đức của mình biết phân biệt đúng, sai, đạo lý, lễ nghĩa. Phải có tinh thần chống lại cái xấu cái ác, không im lặng, thờ ơ để cho chúng phát triển.
– Chỉ khi con người chúng ta đoàn kết nhau lại thì căn bệnh vô cảm sẽ được loại bỏ vĩnh viễn.
Bài tham khảo mẫu 1
Trong đời sống đang phát triển mạnh mẽ về công nghệ, máy móc, con người có thể kiếm được nhiều tiền hơn, giàu có hơn, nhưng có một thứ dường như có biểu hiện vơi đi, đó là sự quan tâm giữa người với người? Cuộc sống công nghiệp với những tất bật và tốc độ vận động quá nhanh khiến người ta hẫng hụt đến mức ít quan tâm đến nhau hơn. Phải chăng những tất bật ấy là nguyên nhân khiến “bệnh vô cảm” có cơ hội lan rộng?
Vô cảm là một căn bệnh hiện không có trong danh sách của ngành y học, nhưng nó đã ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống con người. Vậy “bệnh vô cảm” là gì? Vô là không, cảm là tình cảm, cảm xúc. Vô cảm là trạng thái con người không có tình cảm. Sống khép mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với tất cả mọi việc xung quanh. Trong nhịp sống hiện đại ngày nay, một số’ người chỉ lo vun vén cho đời sống cá nhân và quay lưng lại với cộng đồng xã hội. Một số người tự làm mình trở nên xa lánh, không quan tâm đến ai, không biết đến niềm vui nỗi buồn của người khác. Đó là “bệnh vô cảm”. Chỉ lo chạy theo giá trị vật chất, đôi khi con người ta đã vô tình đánh mất đi vẻ đẹp đích thực của tâm hồn. Cuộc sống dù có sung túc hơn, giàu sang hơn, nhưng khi con người không biết quan tâm yêu thương nhau, thì đó vẫn không được xem là cuộc sống trọn vẹn được. Ngại giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn, cuộc sống của chúng ta dần đi ngược lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân từ xưa “Lá lành đùm lá rách”.
Ngày nay, một số người chỉ biết sống và nghĩ cho riêng mình. Như khi thấy bao người hành khất bên đường, họ không giúp đỡ, thậm chí còn khinh miệt, dè bỉu chế nhạo trước nỗi bất hạnh của những mảnh đời đáng thương đó. Và cũng như bao tệ nạn, mọi việc xấu xa cướp giật giữa đời thường vẫn xảy ra hằng ngày đấy thôi, nhưng không ai dám can ngăn. Vì sao? Vì sao con người lại vô cảm như vậy? Phải chăng cũng vì họ sợ, sợ sẽ gặp rắc rối liên lụy, cho nên không dại gì lo nghĩ đến chuyện của người khác. Nhưng đây không là “chuyện của người khác”, đó chính là những vấn đề chung của xã hội. Sao con người lại có thể quay lưng lại với chính cộng đồng mình đang sống được kia chứ! Và không chỉ dừng lại ở một vài cá nhân, bộ phận nhà nước cũng có lối sống ích kỉ như vậy. Một vài cơ quan giàu sang luôn tìm cách bóc lột người dân, như về việc chiếm đất đai, tài sản… Rồi sau đó, họ ngoảnh mặt đi một cách lạnh lùng, bỏ lại sau lưng những mảnh đời khốn khổ khi cùng bao giọt nước mắt hờn trách cuộc đời không thể sẻ chia cùng ai. Đó không phải là biểu hiện của “bệnh vô cảm” hay sao!
Nếu cứ mãi tiếp tục như vậy, cuộc sống này sẽ mất hết tình thương, mất hết niềm cảm thông san sẻ, mất đi cả truyền thống đạo đức quý báu ngày xưa. Sẽ không còn là “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ nữa”, mà chỉ còn lại sự lạnh nhạt, sự thờ ơ vô cảm. “Tình thương là hạnh phúc của con người”, liệu cuộc sống này có còn ý nghĩa nữa hay không nếu con người cứ tự khép mình lại và chỉ biết sống cho bản thân? Liệu bạn có cảm thấy hạnh phúc nếu xung quanh mình chỉ toàn là giọt nước mắt cùng với nỗi bất hạnh của bao người? Thomas Merton đã từng nói: “Nếu chúng ta chỉ biết tìm hạnh phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích thực là biết sống vì người khác”. Bạn giàu sang ư? Bạn thành công ư? Nhưng khi đã trở nên vô cảm, bạn chỉ thấy mỗi bản thân mình mà thôi. Sự giàu sang, sự thành công như vậy có mang lại hạnh phúc cho bạn không khi bạn chỉ sống một mình, hay đúng hơn là bạn tự tách mình ra khỏi cộng đồng, sống không sẻ chia.
Sống đôi khi đơn giản là học cách yêu thương. Hãy thử một lần trải lòng mình ra dù chỉ là chút ít ỏi. Bởi vì, khổ đau được san sẻ sẽ vơi đi một nửa, còn hạnh phúc được san sẻ sẽ nhân đôi. Hãy thử nghĩ xem, cụ già trên đường kia sẽ có thể qua đường nếu bạn chịu bỏ chút ít thời gian dừng xe lại và dắt cụ qua. Em bé sẽ không lạc giữa chợ nơi bạn chịu bỏ chút ít thời gian đưa em về phường công an tìm mẹ… Mỗi ngày đến trường, bạn có thể dành dụm một chút ít tiền cho quỹ “Vì người nghèo”. Nhiều, rất nhiều những việc bạn có thể làm nếu bạn chịu bỏ “chút ít”. Những đóng góp của bạn đôi khi rất nhỏ nhặt nhưng quan trọng hơn hết, đó là tình thương, là sự quan tâm chia sẻ, là cả một tấm lòng. Hãy làm những gì có thể để giúp cho nỗi đau của bao người được vơi đi. Sự trao đi yêu thương đôi khi cũng là điều mang lại hạnh phúc. Phải nói rằng, xã hội càng văn minh, thì con người đối xử với nhau nhân ái hơn, văn minh hơn. Tuy nhiên, vẫn tồn tại đâu đó lối sống thực dụng, ích kỉ đã làm tổn thương đến truyền thông “nhiễu điều phủ lấy giá gương” của dân tộc ta. Vì vậy, chúng ta không nên nói đời sống công nghiệp đã làm nảy sinh “bệnh vô cảm”, mà căn bệnh ấy xuất phát từ việc giáo dục con em và công dân chúng ta chưa thật nghiêm túc. Thật khó tìm nguyên nhân đầy đủ, nên xin trao câu hỏi này cho các nhà giáo dục và xã hội học, tâm lý học,.
Trong ca khúc “Mưa hồng”, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”. Vâng, đừng sống quá vội vã! Đừng để dòng đời hối hả có thể cuốn bạn đi! Đừng quay lưng lại với tất cả! Đừng để dòng màu đỏ chảy trong con người bạn trở nên lạnh đen. Đừng để một khi nào đó dừng lại, bạn chợt nhận ra mình đã vô tình đánh mất quá nhiều thứ! Hãy nuôi dưỡng lòng nhân ái, tình thương của mình cùng mọi người đẩy lùi “căn bệnh vô cảm” kia. Và cũng bởi vì ngày mai có thể sẽ không bao giờ đến nên hãy cho và nhận những gì bạn có trong ngày hôm nay.
Bài tham khảo mẫu 02
“Vô cảm” là không có cảm giác, không có tình cảm, không xúc động trước một sự vật, hiện tượng, một vấn đề gì đó trong đời sống. Bệnh vô cảm là căn bệnh của những người không có tình yêu thương, sống dửng dưng trước nỗi đau của con người, xã hội, nhân loại…
Trải qua các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, những cuộc đọ sức với thiên tai khắc nghiệt, nhân dân ta đã có truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dường như càng qua gian khổ, đau thương, mất mát con người lại sống gần nhau, quan tâm, giúp đỡ nhau nhiều hơn. Tình làng nghĩa xóm, thương người như thể thương thân đã trở thành một đạo lý của dân tộc: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.
Hiện nay, trong cuộc sống vật chất ngày càng được cải thiện hơn, đầy đủ hơn, người ta dễ có xu hướng lo vun vén cho bản thân và gia đình mình, ít quan tâm đến những vấn đề xã hội. Trước kia, ông cha ta đã phê phán lối sống chỉ biết vun vén cho riêng mình. Cuộc sống quanh ta hiện nay không thiếu những người như thế. Họ sống thờ ơ với mọi việc đang diễn ra, nhà nào nào đóng cửa biết nhà nấy. Nhà hàng xóm có hoạn nạn, có con cái bị rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội họ cũng bàng quan như không biết. Đi đường gặp người bị tai nạn, họ cũng bỏ qua như không nhìn thấy. Thấy lũ trẻ cãi nhau thậm chí đánh nhau họ cũng làm ngơ. Trước cảnh khổ đau của những người tàn tật, bất hạnh, họ cũng không mảy may xúc động…Bệnh vô cảm đã làm cho con người như vô tri, vô giác, không thể hòa nhập với cộng đồng.
Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người chẳng khác nào một cái máy. Họ làm việc một cách đơn điệu, tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắc chắn hiệu quả công việc sẽ không thể nào cao, thậm chí còn làm trì trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.
Là cán bộ, công chức của Nhà nước, mắc bệnh vô cảm sẽ dẫn đến xa rời nhân dân, tắc trách trong công việc. Một bác sĩ vô cảm không thể có tình thương người bệnh, nhất là những người bệnh nghèo. Không thiếu những trường hợp vì vô cảm mà người bệnh không được chăm sóc chu đáo, dẫn đến những cái chết đáng tiếc. Một kỹ sư vô cảm có thể dửng dưng trước những sinh mạng con người do công trình không đạt chất lượng của mình gây ra. Một tài xế vô cảm sẵn sàng xem thường tính mạng của người khác khi phóng nhanh vượt ẩu. Một thầy giáo vô cảm chỉ nghĩ bài giảng cho xong chuyện, còn nói gì đến tình nghĩa thầy trò, tận tâm dạy bảo, nhất là những học trò còn học kém, gia đình khó khăn. Cán bộ vô cảm sẽ không thể nhìn thấy hoàn cảnh của mỗi người dân, không thấy những nỗi bức xúc của nhân dân, giúp đỡ nhân dân tận tâm, tận tình.
Gần đây thôi, nếu bạn có tình cờ xem qua các trang báo sẽ ngỡ ngàng vô cùng với “sự nhẫn tâm” đến đáng sợ của con người: Một thanh niên gào khóc thảm thiết trên chuyến xe buýt khi kẻ gian lấy mất chiếc bóp của anh ấy nhưng đáp lại là sự im lặng đến xót xa. Và đau lòng hơn nữa khi xem cảnh bao người đi “hôi bia” khi chuyến xe định mệnh của người tài xế đáng thương lật trên đường. Đáp lại cho tiếng khóc của anh là tiếng cười hả hê của những người đi nhặt của “trên trời rơi xuống”. Viết đến đây tôi lạnh cả người và tự hỏi lòng trắc ẩn, tình thương của con người hiện đại có còn hay không? Phải chăng khi xã hội phát triển con người lại đánh mất tình yêu thương?
Là bản thân học sinh chúng ta hãy ra sức chống bệnh vô cảm trong việc làm, học tập hằng ngày của mình. Hãy quan tâm giúp đỡ bạn bè. Hãy chia sẻ những gì mình có thể cho những cuộc đời bất hạnh quanh ta. Đừng để một ngày nào đó khi nhìn thấy bà lão ăn xin, một đứa bé côi cút bơ vơ, một người khách lỡ đường mà trái tim bạn không lên tiếng. Hãy thắp sáng, hãy gieo mầm cho những yêu thương trong trái tim bạn, trái tim tôi, trái tim tất cả chúng ta.
Bài tham khảo mẫu 03
Nếu sống không có tình cảm thì khác nào tự huỷ hoại hai tiếng “con người”. Truyền thống người Việt từ xưa “thương người như thể thương thân”. Đó là truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời mà dân ta giữ gìn. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, lại xuất hiện những con người có lối sống gặm nhấm dần mòn những truyền thống tốt đẹp ấy. Đó là những con người mang trong mình căn bệnh vô cảm – một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm.
Bệnh vô cảm không hề có trong danh sách bệnh của y học. Vậy nhưng điều đáng nói là những điều đó gây ra lại khiến con người ta phải xót xa, đau đớn thay. Có thể những căn bệnh hiểm nghèo, bệnh thế kỷ AIDS là sự quan tâm hàng đầu của y học hiện nay bởi sự nguy hiểm chết người của chúng. Tuy nhiên nó vẫn chỉ là căn bệnh và với sự tiến bộ y học vẫn hy vọng có thể được chữa khỏi. Còn bệnh vô cảm? không đơn giản là sự sống còn của một ai đó mà nó là cả một vấn đề của xã hội – vấn đề nhân đạo.
Những “biểu hiện lâm sàng” của căn bệnh này rất dễ nhận biết. Ngày qua ngày biết bao nhiêu những ứng xử vô cảm diễn ra mà đôi khi người ta coi chúng như những việc bình thường. Người ta thấy việc làm cần không ngăn, thấy người yếu bị ức hiếp cũng không bênh vực. Những lý do “đó là việc của kẻ khác, hơi đâu quan tâm..” càng tiếp tay cho những kẻ xấu, việc xấu lấn tới. Cụ thể, thấy người bị nạn lại bỏ đi, đưa những ánh nhìn lạnh lùng, vô cảm, thậm chí có kẻ lợi dụng cơ hội để ăn cắp, lấy tài sản của họ. Đó là những kẻ không biết động lòng trước nỗi đau của người khác, không biết phẫn nộ, bất bình trước cái xấu. Những cách sống khô khan nghèo nàn và khan hiếm tình cảm như vậy thật đáng buồn. Càng đáng buồn hơn nữa khi nó tồn tại ở mọi tầng lớp, lứa tuổi từ trẻ nhỏ đến người lớn. Một đứa trẻ có thể bắt con chuồn chuồn và vật cánh, ngắt đuôi nó, lấy đó xem như một thú vui. Chúng không hề biết nghĩ hay thất sợ sệt mà ngần ngại. Nhiều bậc cha mẹ cũng nghĩ chuyện bình thường, nó chỉ biết chơi với con vật vậy thôi. Nhưng chắc chắn một điều rằng , vô tình đã gieo vào mình ít nhiều mầm mống bệnh vô cảm. Chẳng hạn những cử động, thoát khỏi bàn tay đứa trẻ của con chuồn chuồn một cách bất lực không làm cho đứa trẻ động lòng thương. Liệu có chắc rằng sau này nó không hành động với con người như vậy. Nói một cách khác có thể bạn cho hơi quá nhưng không hề vô lí, nó có thể đối xử với người ta như đã từng đối xử với con chuồn chuồn khi nó lớn lên ai biết được?
Nhiều khi người ta nghĩ rằng giới trẻ là những người văn minh nhất vì họ có tri thức. Nhưng điều đó là chưa hẳn. Người ta chỉ dạy cho họ những tri thức khoa học, mấy khi họ được học những điều về cách sống tình cảm, cách đối nhân xử thế. Có chăng cũng những câu lí thuyết nhàm chán, dần ra cũng chẳng còn tác dụng. Họ chỉ biết sống tốt hơn nếu họ được sống trong môi trường ứng xử tình cảm giữa mọi người. Vậy nên những cảnh xua đuổi người hành khất, bố thí với ánh mắt dè bỉu, khinh thường của các bạn trẻ cũng không hiếm khi ta bắt gặp. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng trăm thậm chí hàng triệu để tiêu xài vào những thứ vô bổ mà không dám bỏ ra vài nghìn để mua một tờ báo hay một tờ vé số mà các em nhỏ đang nài nỉ khàn cả cổ…Ai dám bảo văn minh là thế?
Những người dân thường đã thế, nếu những người nằm trong đội ngũ lãnh đạo cũng có những người vô cảm, những người thờ ơ trước nỗi khổ dân nghèo, những con người làm các ngành nghề lương tâm như bác sĩ, giáo viên… mà vô cảm thì thế nào? Cuộc sống ngày càng xô bồ, hối hả. Mọi người cứ chạy theo cái vòng quay của cuộc sống. NGười ta mưu sinh chạy theo đồng tiền mà nhiều khi lại bị chính nó điều khiển. Những bản chất truyền thống tốt đẹp của con người bị đồng tiền che lấp. Người ta chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân mà quên đi người khác. Dần ra, họ sống cuộc sống vô cảm, thậm chí vô nhân đạo , không biết quan tâm, chia sẻ với mọi người. Một người sống trong môi trường không có sự quan tâm chia sẻ giữa mọi người lẫn nhau thì càng có nguy cơ mắc bệnh vô cảm. Không có gì nguy hiểm hơn là một xã hội toàn những người vô cảm.
Bài tham khảo mẫu 04
“Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng
Để làm gì, em biết không?
Để gió cuốn đi…”
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã gửi gắm qua những nốt nhạc của mình một sợi chỉ đỏ để gắn kết con người với nhau. Đó chính là “tấm lòng” theo gió cuốn đi. Thế nhưng, thực trạng của xã hội hiện đại lại không đẹp như lời bài hát, bởi căn bệnh vô cảm đã và đang lan truyền một cách chóng mặt – một căn bệnh nguy hiểm mà ai trong số chúng ta cũng có thể mắc phải.
Yêu thương nhau mới khó, chứ xa cách nhau thì chẳng phải là chuyện quá dễ dàng sao? Vô cảm là trạng thái cảm xúc mang tính tiêu cực, là sự tuyệt đối của thờ ơ, lạnh lùng. Sự bình thản một cách đáng sợ của chúng ta trước mọi biến đổi của cuộc sống xung quanh đã tạo nên những bức tường kiên cố ngăn cách ta với thế giới. Benjamin Franklin đã nhắc tới những con người với căn bệnh vô cảm ấy qua câu nói “Có những người chết ở tuổi 25 và đến 75 tuổi mới được chôn”. Câu nói có khiến ai đó giật mình? Ta có ở trong đó không? Ta chết khi còn quá trẻ. Vì tâm hồn ta mục ruỗng, héo úa, tàn tạ. Lẽ sống của ta cũng không còn vì ta chưa bao giờ cho đi để nhận lại yêu thương. Yêu thương sẽ chỉ được nảy mầm khi nó được gieo xuống và được chăm sóc hàng ngày. Vô cảm chính là thứ thuốc độc giết chết tâm hồn của ta, khi chúng chưa kịp gieo xuống đất và lớn lên.
Xã hội càng hiện đại, lượng thông tin mà chúng ta nhận được từ nó lại càng nhiều. Nhưng đáng buồn thay, ngày qua ngày những thông tin ấy chỉ toàn là mặt tối của hiện đại, của phát triển. Ta rùng mình ớn lạnh khi nghe tin một đứa bé 12,13 tuổi dám thẳng tay giết hại người bà của mình chỉ vì vài chục nghìn thỏa mãn đam mê với những trò chơi ảo trên mạng. Người yêu cũ sẵn sàng giết hại cả nhà bạn gái chỉ vì sự ngăn cản từ phía gia đình. Bao nhiêu cái chết thương tâm, bao nhiêu mạng người vô tội chỉ vì những con quỷ dữ máu lạnh tồn tại trong tâm hồn và chỉ một phút lơ là, nó đã cướp đi phần lương thiện trong ta.
Còn đau đớn hơn khi ngày ngày trên mặt báo là những khuôn mặt ngây thơ vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường đã sẵn sàng hành hung bạn bằng dao, bằng kiếm, bằng những trận ẩu đả đậm chất giang hồ chỉ vì bạn lỡ lời trên mạng xã hội hay vì nhắn tin vụng trộm với “bạn trai”, “bạn gái” của mình. Nhưng buồn hơn nữa là bạn bè đứng đó, không những không can ngăn, không tìm cách giúp bạn hòa giải mà lại cổ vũ, xúi bẩy, quay clip đăng lên mạng để nhận được những ánh nhìn mà đối với chúng là sự ngưỡng mộ, là sự nể phục. Điều gì đã khiến những cô cậu học trò áo trắng đơn thuần mang trong mình một tâm hồn hiếu chiến đến thế? Sẽ ra sao nếu các em vẫn cứ tiếp tục thờ ơ với chính mình, tiếp tục sống với những tháng ngày bồng bột, thiếu suy nghĩ, với sự vô cảm cứ lớn dần lên không cách nào kìm hãm lại được? Thật khó mà tưởng tưởng một đất nước với những con người lấy thách thức làm bản lĩnh, lấy chiến tích của những cuộc ẩu đả làm thước đo giá trị của con người, đất nước ấy không biết sẽ đi về đâu.
Ta quên làm sao được tiếng khóc nức nở, tiếng van xin đầy bất lực của anh tài xế trong vụ hôi bia ở Đồng Nai tháng 12/2013. Nhìn đôi mắt ngỡ ngàng, đôi tay run rẩy và sự níu kéo tuyệt vọng của anh ta có thấy nhói lòng? Người ta bỏ qua hết những âm thanh ấy, bước qua giá trị đạo đức thường ngày, đạp đổ lằn ranh của sự lương thiện mà bước chân sang bờ bên kia của cái ác. Đôi khi, ranh giới giữa thiện và ác cũng chỉ mong manh như một tấm màn mỏng. Vậy mà ta vẫn không đủ lý trí để xé toạc tấm màn mà sống với đúng lương tri của mình.
Tố Hữu đã từng viết:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người sống để yêu nhau…”
Lương thiện là bản tính vốn có của mỗi người. Mới sinh ra chúng ta có ai là người xấu? Nhưng dòng đời xuôi ngược bon chen với gánh nặng cơm áo gạo tiền khiến ta thay đổi, biến chất. Con người bị những thứ vật chất phù phiếm che mắt để rồi sa ngã, đánh mất chính mình. Tiền tài, danh lợi lại là thứ được xếp trước đạo đức và nhân cách con người. Sự tác động khách quan từ cuộc sống cũng chỉ là một phần nhưng quan trọng nhất vẫn là cá nhân mỗi chúng ta. Nếu chúng ta đủ lý trí và bản lĩnh đã không bị cám dỗ bởi những thứ phù hoa ấy. Hoặc giả như ta kiên định ngay từ đầu với quan điểm sống của riêng mình thì ta còn dễ bị lung lay bới những tác động trong chốc lát từ ngoại cảnh sao?
Hệ lụy tất yếu của căn bệnh vô cảm là mọi sự kết nối trở nên màu mè, vô nghĩa. Con người sống với nhau bằng sự giả dối, hời hợt. Những mối quan hệ dần rạn nứt, mờ nhòe bởi ta thu mình lại trong vỏ ốc chật hẹp, chỉ đủ chỗ cho những toan tính nhỏ nhen và ích kỷ. Con người không còn rung động trước cái đẹp mong manh, khó nắm bắt của thiên nhiên như màu “trắng điểm” hoa lê trong Truyện Kiều vì họ chỉ đi lướt qua, chứ không dừng lại để cảm nhận. Con người cũng sẽ không yêu bằng sự cao thượng như Puskin, nồng nàn, mãnh liệt như Xuân Diệu, cũng chẳng phải là sự quê mùa chân thật như Nguyễn Bính nữa, thay vào đó là một tình yêu đầy thực dụng của tình – tiền – tài. Chao ôi! Xã hội bây giờ sao mà loạn quá!
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 6 – Đề 02
Đề 2: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích” – một “căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Có thể thuật kể sơ lược một tin tức của đài, báo, truyền hình có liên quan đến “bệnh thành tích”.
– Giới thiệu chủ đề bài viết.
II. Thân bài:
* Khái niệm và biểu hiện của “bệnh thành tích”:
– Khái niệm.
– Phân biệt bệnh thành tích với ý thức phấn đấu để đạt những thành tích chính đáng.
– Biểu hiện của bệnh thành tích.
* Nguyên nhân của bệnh thành tích:
– Nguyên nhân khách quan.
– Nguyên nhân chủ quan.
* Hậu quả của bệnh thành tích:
– Với sự phát triển nhân cách con người.
– Với môi trường xã hội và sự phát triển của đất nước
* Giải pháp khắc phục bệnh thành tích:
– Đối với người quản lý và chính sách quản lý.
– Đối với mỗi cá nhân. Kết bài:
– Sự cần thiết của việc chống bệnh thành tích.
– Suy nghĩ về việc xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh và thực sự phát triển.
III. Kết bài:
– Sự cần thiết của việc chống bệnh thành tích. – Suy nghĩ về việc xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh và thực sự phát triển.
Bài làm tham khảo mẫu 01
Trong thực tế, ai cũng thích, cũng mong muốn được khen ngợi, được ghi nhận, được thành danh. Có người vì thế mà nỗ lực phấn đấu để biến đổi về chất. Song đáng buồn lại có những người muốn rút ngắn con đường bước đến vinh quang mà tin xổi ở thì, không chăm lo cho thực tế chỉ cố tô vẽ bề ngoài để được khen được thưởng. Đáng buồn hơn, chúng ngày càng phổ biến và trở thành một căn bệnh xã hội. Bệnh thành tích.
Thực chất, thành tích là kết quả được đánh giá tốt do nỗ lực mà đạt được. Như vậy, thành tích là nhóm để biểu dương, nêu gương những kết quả thực tế tốt đẹp. Điều đó động viên cố gắng của người được nêu gương, thúc đẩy họ tiếp tục cố gắng. Mặt khác thành tích của người này còn là “cú hích” cho người khác cùng “chạy đua” để tiếp tục đi lên. Rõ ràng, thành tích là điều tốt đẹp và nó cũng mang lại những điều tương tự cho cuộc sống.
Tuy nhiên, khi đặt trước từ “thành tích” một chữ “bệnh” – bệnh thành tích thì vấn đề đã khác. Bởi từ “bệnh” không gợi đến điều gì tốt đẹp. “Bệnh thành tích” là thói a dua, là chỉ chăm lo đến vẻ bề ngoài nhằm được tuyên dương khen thưởng nhưng thực chất bên trong vấn đề không đạt mong muốn. Nói khác đi, bệnh thành tích là tên gọi của sự không phù hợp giữa hình thức và bản chất: hình thức rất hào nhoáng, sáng bóng, lẫy lừng nhưng bản chất thì xuống cấp, gỉ sét, cong vênh.
Bệnh thành tích đã tồn tại từ lâu trong đời sống xã hội, đục sâu lan rộng vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Trong giáo dục, bệnh thành tích còn được gọi là bệnh hình thức. Có những trường vì thành tích mà luôn cố gắng tập trung luyện “gà” – luyện học sinh giỏi, tạo mọi điều kiện để các em có thời gian tập trung học môn mình thi nhằm đạt kết quả cao mang vinh dự cho trường. Hay trong mỗi kỳ thi tốt nghiệp, có những trường huy động giáo viên cùng làm với học sinh rồi ném bài cho các em. Trong các cơ quan, công ty, nhà máy,… bệnh thành tích nằm ở những bản báo cáo được mài cho nhẵn viết cho đẹp. Trong thực tế người ta không màng đến chất lượng, chỉ chạy theo số lượng để đạt chỉ tiêu. Họ chỉ sung sướng khi nghe đến những con số 100%, 99%,… Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT những năm trước, trường nào chỉ đạt 95%, 96% là đã lo lắng căng thẳng rồi. Nhưng một hai năm trở lại đây khi công tác kiểm tra, giám sát được thắt chặt hơn, trung bình cả nước chỉ đỗ khoảng 60% – 70%.
Rõ ràng kết quả xa nhau, nó phản ánh thực tế chất lượng giáo dục trong một thời gian dài bị o bế, làm nhiễu. Rõ ràng, bệnh thành tích sẽ để lại hậu quả vô cùng tai hại. Trước hết, nó khiến mỗi cá nhân tổ chức không hiểu rõ về thực lực của mình, tự mãn về thành tích, không có xu hướng vận động phát triển. Bệnh thành tích do đó tiếp tục “được” duy trì, phát triển. Dần dần nó sẽ ăn sâu, đeo bám vào tư tưởng, lối sống cách thức làm việc của xã hội, làm cho chất lượng thực bị bỏ bê, xuống dốc, chỉ có cái vẻ bề ngoài là hào nhoáng, đẹp đẽ. Nó thực chẳng khác nào một trái bí đỏ bị thối rữa bên trong. Dân gian ta nhắc nhở nhau tốt gỗ hơn tốt nước sơn vì sơn có thể tróc nhưng gỗ không được phép mục, gỗ mục sẽ làm sụp đổ cả một hệ thống quan trọng. Nhưng bệnh thành tích đã làm đảo lộn truyền thống đạo lý ấy và mỗi hệ thống xã hội đang có nguy cơ lung lay, suy sụp vì chất gỗ bên trong đang mối mọt dần.
Bệnh thành tích gây hại cho mọi ngành nghề, lĩnh vực. Và hậu quả dễ thấy nhất, tai hại nhất thể hiện ở ngành giáo dục. Có những trường lớp, vì thành tích mà cho học sinh lên lớp hàng loạt, bất chấp kết quả thực tế. Hậu quả là hàng trăm học sinh ngồi nhầm lớp, nhầm trường. Có em đã học lớp 7 mà chưa đọc thông viết thạo! Cũng vì thành tích mà các thầy cô “cấy điểm” cho học sinh giỏi ở những môn các em không thi học sinh giỏi, giúp các em tập trung ôn luyện cho thi cử. Và hàng trăm học sinh sa vào tình cảnh đạt giải học sinh giỏi quốc gia nhưng trượt tốt nghiệp, trượt đại học… Hậu quả trực tiếp học sinh là người gánh chịu. Nhưng hậu quả lâu dài là tương lai đất nước phải chấp nhận sự thui chột về đạo đức, tài năng của nhiều thế hệ.
Bệnh thành tích có căn nguyên sâu xa từ một thói xấu của con người: thói ghen ăn tức ở, “con gà tức nhau tiếng gáy”. Thấy cá nhân, đơn vị khác được nêu gương, cá nhân đơn vị mình cũng muốn được như vậy. Song, thay vì tập trung nâng cao chất lượng họ lại đốt cháy giai đoạn, đánh bóng hình thức để được tuyên dương. Nhưng công bằng mà đánh giá, bệnh cũng có nguyên nhân từ những sai lầm trong công tác quản lý tổ chức của nhiều cấp, ngành: trọng giấy tờ, hình thức, không gần gũi sâu sát thực tế và chỉ tiêu hoá, kế hoạch hóa cao độ mọi vấn đề thi đua. Bởi vậy, các tổ chức, cá nhân chỉ cốt lo sao cho bản báo cáo, cuốn sổ của mình được sạch sẽ đẹp đẽ. Rồi lo sao để chỉ tiêu kế hoạch trên giao ta “trăm phần trăm” hoàn thành.
Bài làm tham khảo mẫu 02
Trong cuộc sống này có ai không thích thành tích tốt, mình được khen ngợi, thế nhưng bản thân mỗi người cần nhận thức được thành tích thật sự là như thế nào. Ngày nay chỉ cần có được một thành thích tốt người ta bất chấp mọi thứ, chạy theo thành tích ảo, bằng những thứ không đúng sự thật. Có lẽ vì đó là căn bệnh thành tích ngày càng lây lan và đang gây ra những tác hại không nhỏ với sự phát triển xã hội.
“Bệnh thành tích” được hiểu là con người luôn muốn mình có một thành tích tốt đẹp, bất kể có phải là thành tích thật hay không. Vì điều đó họ sẵn sàng làm mọi điều kể cả những gian lận, những việc trái với đạo lý. Nó ăn vào tâm trí họ như một căn bệnh.
Khi xã hội ngày càng phát triển thì thành tích là điều rất đáng để được công nhận. Thế nhưng cũng thật đáng buồn khi xã hội ngày càng phát triển, những nỗ lực, cố gắng để đạt một thành tích tốt đẹp của con người lại trở thành một căn bệnh đang là mối đe dọa trong xã hội.
Một biểu hiện dễ thấy nhất đó là Bệnh thành tích trong giáo dục. Các thầy cô muốn thành tích cao cho trường, cha mẹ muốn thành tích tốt cho con mình. Khi còn đương nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, ông Nguyễn Thiện Nhân đã từng nói: “ Các thầy cô, các trường ham muốn thành tích bằng kết quả thi cử cao và hàng chục triệu phụ huynh, gia đình học sinh chính là đồng tác giả của bệnh thành tích”.
Phụ huynh muốn con em mình điểm cao mà sẵn sàng đưa tiền bồi dưỡng các thầy cô, thầy cô vì muốn học trò được điểm cao lấy thành tích cho trường mà mua chuộc giám thị. Chúng ta biết rằng kết quả thi cử của học sinh sẽ là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên và nhà trường. Từ đó nếu có một kết quả thi tốt của học sinh, thầy cô sẽ được khen thưởng, nâng lương. Và những phụ huynh học sinh cũng có được một bảng điểm đẹp cho con em mình. Ai cũng được lợi. Bên cạnh những phụ huynh thực sự muốn con em mình đi lên bằng chính sức lực của chúng không ít những phụ huynh vẫn đang tìm mọi cách giúp con có một bảng điểm đẹp, với hy vọng con có một tương lai tươi sáng sau này. Điều đó từ sâu xa đều xuất phát từ lòng thương con của cha mẹ. Ai mà không muốn con mình có một tương lai tốt đẹp hơn. Cứ tới mỗi kỳ thi, chúng ta lại bắt gặp những cuộc trò chuyện như “Đã lo chỗ nào chưa?”, “Đã đi thầy cô này chưa?”. Chính tình thương quá đáng của bậc cha mẹ đã vô tình trở thành công cụ cho bệnh thành tích ngày càng lây lan rộng hơn.
Chúng ta hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng đều đọc được những bản tin như học sinh ngồi nhầm lớp, học sinh lớp 6 vẫn chưa thuộc hết bảng cửu chương, chưa đọc thông viết thạo vậy mà các em vẫn được lên lớp đều đều. Chúng ta hẳn thấy thật chua xót khi sau mỗi năm thi đại học, cao đẳng lại xuất hiện những bài thi được chép kín những mặt giấy nhưng hoàn toàn không đúng nội dung đề bài. Sau mỗi ngày thi, sân trường phủ kín bằng phao trắng xóa. Hình ảnh thật xót xa.
Bệnh thành tích trong giáo dục đã trở thành một căn bệnh khó chữa. Nó không chỉ là căn bệnh của ngành giáo dục mà nó còn xuất hiện trong các lĩnh vực khác của xã hội nữa. Bệnh thành tích không còn giới hạn ở một con người cụ thể, một lĩnh vực riêng lẻ nào. Nhớ trước đây số xã nghèo ở nước ta chỉ khoảng 1700. Sau khi có các chương trình của Chính phủ, hỗ trợ tiền để xóa nghèo thì rất nhiều địa phương đã đăng ký thoát nghèo. Để rồi khi báo chí vào cuộc phanh phui thì vẫn có hàng trăm hộ trong tình trạng cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà đã được thoát nghèo. Âu cũng là bệnh thành tích mà ra.
Cấp trên thích nghe thành tích tất nhiên sẽ có cấp dưới tạo ra những thành tích ảo. Từ nhỏ thành lớn, từ ít đến nhiều, căn bệnh thành tích từ đó ngày càng lây lan rộng. Những câu chuyện về những công trình, dự án trên giấy, vấn đề giải quyết việc làm, câu chuyện xóa đói giảm nghèo,… với những báo cáo xa rời thực tế là vấn đề muôn thuở.
Bệnh thành tích gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội. Bệnh thành tích sẽ làm mất đi sự trung thực, niềm tin và sự phát triển của xã hội. Chúng ta đều biết rằng một xã hội muốn phát triển thì cần có nhân tài, mà nhân thì phải tài thực sự, có năng lực thực sự. Trong cuộc sống hiện đại nếu bạn không có năng lực thực sự thì sẽ không thể có một chỗ đứng. Căn bệnh thành tích khiến cho người ta chỉ xem trọng lượng mà không có chất. Một tập thể mắc bệnh thành tích sẽ cho ra những sản phẩm không có giá trị. Bệnh thành tích khiến người ta dễ ảo tưởng, lọc lừa dối trá. Dần dần họ sẽ thoái hóa nhân cách, đánh mất đi những giá trị đạo đức tốt đẹp của bản thân.
Người xưa có câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” đã cho thấy rõ một điều rằng con người ta quan trọng chất lượng chứ không thể lấy cái bề ngoài, cái số lượng để đánh giá giá trị của một vấn đề. Căn bệnh thành tích ngày nay đã đảo lộn mọi giá trị tốt đẹp ấy, đã phá vỡ đi những truyền thống văn hóa của dân tộc. Căn bệnh ấy sẽ khiến những cá nhân tự mãn về bản thân, cho mình luôn giỏi giang nhưng thực chất là không phải. Và ảo tưởng thì thường sẽ không có thật, không thể tồn tại lâu dài.
Do đó chúng ta cần có những biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi căn bệnh này. Các bộ, ngành và cơ quan chức năng cần có những cuộc thanh tra, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những thành tích ảo. Nếu cố ý vi phạm thì cần có biện pháp xử lý đích đáng. Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường những biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của mỗi người cần tránh xa và đẩy lùi căn bệnh này. Thiết nghĩ rằng dù nó là căn bệnh có tính lây lan nhưng có để mình bị lây hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân mỗi người. Chúng ta cần phải là những người có lòng tự trọng, có nhân cách và đó mới là điều cần lan tỏa trong xã hội này.
Bài làm tham khảo mẫu 03
Bạn biết không? Trong xã hội ai ai chẳng muốn mình được khen thưởng khi mình đạt được những thành tích. Đạt được nhiều thành tích và mọi người công nhận chắc chắn sẽ thôi thúc cá nhân, tập thể đó càng muốn đạt được nhiều thành tựu hơn nữa. Thế nhưng thật đáng buồn thay hiện nay lại có rất nhiều người chạy theo thành tích, mua thành tích,… tìm mọi thủ đoạn để có thành tích để được mọi người phải nể phục và thành tích trong thời hiện đại ngày nay cũng đã trở thành một vấn nạn, một căn bệnh khó chữa.
Con người phải hiểu được như thế nào là bệnh thành tích? Thành tích được hiểu đó chính là những kết quả được đánh giá tốt do nỗ lực mà đạt được. Như vậy, thực sự thành tích được xem là một điều kiện để biểu dương, nêu gương những kết quả thực tế tốt đẹp mà người tạo ra thành tích phải cố gắng mới có được. Khi được mọi người tán thưởng thì cũng chính điều đó động viên cố gắng của người được nêu gương, thúc đẩy họ tiếp tục cố gắng hơn rất nhiều. Mặt khác, chúng ta như cũng nhận thấy được rằng cũng chính thành tích của người này còn là “cú hích” cho người khác để người ta cũng lại có thể cùng “chạy đua” để tiếp tục đi lên. Rõ ràng, không một ai có thể phủ nhận thành tích là điều tốt đẹp. Thành tích luôn luôn mang lại được những điều tốt đẹp cho cuộc sống và những kết quả đã bỏ ra.
Tuy nhiên, thật đáng buồn hơn trong xã hội ngày nay người ta lại đặt trước từ “thành tích” một chữ *bệnh”. Chúng ta cũng nên hiểu bệnh thành tích thì vấn đề đã khác rất nhiều. Nhắc đến từ bệnh thì luôn luôn gợi đến điều gì không tốt đẹp. “Bệnh thành tích” không gì khác đó chính là những thói a dua, là chỉ chăm lo đến vẻ bề ngoài của một cá nhân, một tập thể,… nhằm được tuyên dương khen thưởng nhưng thực chất bên trong họ không có khả năng để đạt được những thành tích tương xứng để biểu dương. Thành tích như một lớp mỡ hào nhoáng bên ngoài bao phủ những sự vẩn đục, cũng như không có khả năng. Đến khi chỉ cần một giọt xà phòng tìm hiểu ra rơi xuống mặt nước được bao phủ với lớp mỡ hào nhoáng óng ánh đó thì lộ ra những sự yếu kém và sai sót.
Bệnh thành tích thực là một căn bệnh khó chữa mà từ lâu nó như cũng lại đã tồn tại từ lâu trong đời sống xã hội. Bệnh như cũng đã ăn sâu, đục sâu lan rộng vào nhiều ngành nghề, lĩnh vực đời sống. Chính trong môi trường giáo dục – môi trường từ lâu vẫn được đánh giá là một môi trường trong sạch thì hiện nay bệnh thành tích còn được gọi là bệnh hình thức nữa. Một lớp 100% học sinh giỏi, nhà trường chạy đua với những thành tích đạt được thật hoành tráng khiến cho các trường khác phải nể phục, đồng thời như một cách để thu hút học sinh. Thế nhưng thực tế ngôi trường đó vẫn có những học sinh ngồi nhầm lớp, ý thức chưa tốt và tất cả thành tích như đã đánh đồng, không phân biệt được năng lực thực sự của các em học sinh. Nhất là môi trường giáo dục của Việt Nam còn nặng về bằng cấp.
Rõ ràng, chúng ta như nhận thấy được chính bệnh thành tích sẽ để lại hậu quả vô cùng tai hại. Trước hết, người ta dường như cũng lại nhận thấy được cũng chính căn bệnh này nó cũng lại đã khiến mỗi cá nhân tổ chức không hiểu rõ về thực lực của mình, tự mãn về thành tích. Vì chạy theo thành tích nhiều nên con người lại không có xu hướng vận động phát triển. Trong xã hội hiện đại thì bệnh thành tích do đó tiếp tục “được” duy trì, phát triển và đáng buồn thay khi nó cũng lại ngày càng gia tăng theo số nhân. Dần dần căn bệnh. này cũng sẽ ăn sâu, đeo bám vào tư tưởng, lối sống cách thức làm việc của xã hội của đất nước ta. Căn bệnh đáng sợ này cũng lại làm cho chất lượng thực bị bỏ bê, xuống dốc, chỉ có cái vẻ bề ngoài là hào nhoáng, đẹp đẽ mà thôi còn bên trong rỗng tuếch.
Bài tham khảo mẫu 04
Mỗi khi nói đến thành tích thì bất kể ai cũng muốn mình có được thành tích cao. Trong mỗi con người luôn tiềm ẩn sự ganh đua. Khi chúng ta còn nhỏ, hẳn bạn nhớ là nếu có cuộc thi giữa bố mẹ và con cái xem ai ăn nhanh hơn thì chúng ta sẽ ăn rất nhanh để được khen ngợi. Cạnh tranh để có thành tích tốt không phải là xấu nhưng nếu bất chấp tất cả để có thành tích tốt thì lại khác. Hiện nay có một vấn nạn gọi là “bệnh thành tích” ý chỉ những người chạy đua để đạt thành tích cao mà không màng đến điều gì khác. Căn bệnh này gây nên những tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta ngày nay.
Vốn dĩ, thành tích là một thước đo dùng để đánh giá một người. Nhưng khi đặt chữa bệnh ở trước nó thì ta hiểu rằng đó là một điều chẳng tốt đẹp gì. Con người ta cứ mải chạy theo căn bệnh thành tích, chỉ chăm chăm nhìn vào cái kết quả cuối cùng mà bỏ qua hành trình để đạt được nó. Và đôi khi để đạt được thành tích cao, người ta thực hiện những hành vi xấu. Chẳng hạn như trong giáo dục căn bệnh thành tích thể hiện ở chỗ quay cóp để có được điểm cao mà không quan tâm đến việc mình thu nạp được kiến thức gì.
Thực ra căn bệnh thành tích không phải đến bây giờ mới xuất hiện. Nó có từ thời xa xưa và dường như mỗi lúc lại một nhân rộng hơn lên. Cũng không phải chỉ xuất hiện ở lĩnh vực giáo dục nhưng giáo dục là cái nôi phát triển của mỗi con người. Vì vậy, căn bệnh thành tích trong giáo dục vẫn được nói đến nhiều nhất. Hiện có không ít các trường học vẫn còn chạy theo thành tích với những chỉ tiêu 100% đạt thành tích cao trong các cuộc thi này, các cuộc thi khác. Để đạt được những thành tích như đã đề ra đó, họ tìm mọi cách để rèn học sinh. Chẳng hạn như mở các “lò” luyện thi. Học sinh đến trường lẽ ra phải được học đều các môn thì để đạt được thành tích cho nhà trường, học sinh được đặc cách chỉ tập trung học đúng 1 môn để thi còn các môn khác sẽ được thầy cô nâng đỡ. Chính điều đó đã khiến học sinh cũng bị cuốn theo căn bệnh đó. Trong các kì thi tốt nghiệp phổ thông, nhiều trường còn ngang nhiên cho học sinh quay cóp, ném phao vào cho học sinh để không em nào bị trượt. Bởi nếu có học sinh không vượt qua kì thi thì thành tích của trường sẽ bị giảm sút.
Có một câu chuyện vui nhưng cười ra nước mắt mà thầy giáo dạy Toán của tôi năm cấp 2 đã kể thế này. Một cậu học sinh của thầy không thể đọc được một đoạn định nghĩa trong sách giáo khoa. Khi được hỏi một phép cộng đơn giản trong phạm vi 10, cậu học sinh của thầy không trả lời được. Thầy dẫn cậu sang gặp cô hiệu trưởng trường cấp 1 và hỏi vì sao học sinh như vậy lại có thể lên lớp. Cô hiệu trưởng đáp lại thầy rằng “Nó không giỏi nhưng bố mẹ nó giỏi”. Câu chuyện thầy kể khiến tôi suy nghĩ mãi. Phải chăng bây giờ người ta đi học không phải để lấy kiến thức cho mình mà chỉ để lấy thành tích thôi sao? Một đất nước mà chỉ nhìn vào những thành tích ảo thì đất nước ấy sẽ đi đâu và về đâu?
Khi mà giáo dục không thể đào tạo ra những nhân tài đích thực sẽ kéo theo những hệ lụy vô cùng xấu. Những học sinh ấy khi ra đời sẽ không biết năng lực thật của mình đến đâu, không biết mình làm được những việc gì. Rồi họ sẽ loay hoay với chính cuộc sống của mình. Thực tế cho thấy có không ít những trường hợp học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia nhưng lại thi trượt tốt nghiệp.
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 6 – Đề 3
Đề 3: Hãy phân tích tác hại của thái độ thiếu trung thực trong thi cử. Theo anh (chị) làm thế nào để khắc phục thái độ đó?
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
Nêu ra vấn đề (thực trạng hiện nay là chất lượng dạy và đặc biệt nhấn mạnh là chất lượng học tập của học sinh có chiều hướng giảm sút đi rất nhiều, một trong số những nguyên nhân là thái độ thiếu trung thực trong thi cử, gian lận, quay cóp dẫn đến học giả thi giả…).
II. Thân bài:
– Giải thích thái độ thiếu trung thực là gì?
+ Thiếu trung thực là làm không đúng, không tôn trọng ý kiến của mình, với những gì đã có, đã xảy ra.
+ Trong thi cử, thiếu trung thực là gian lận, coi trọng điểm chác mà bỏ qua kiến thức thực (đoạn này nêu luôn biểu hiện của thái độ thiếu trung thực).
– Nguyên nhân của việc thiếu trung thực trong thi cử xuất phát từ chính bản thân mỗi học sinh.
+ Học trò lười học, học không hết bài mà muốn được điểm cao thì phải gian lận thôi.
+ Có những người cũng có kiến thức xong cứ đến giờ kiểm tra là họ không thể tự chủ được bản thân, không tự tin và họ không dám tin rằng mình có thể làm được bài mà không cần đến sách, thế là quay bài.
– Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận nguyên nhân cũng một phần xuất phát từ bên ngoài.
+ Ba mẹ nào cũng muốn con mình học hành giỏi giang nên gây áp lực: nào học thêm, nào con nhất định phải đạt học sinh giỏi… khiến các con cũng phải oằn mình gánh lấy ước muốn lớn lao của cha mẹ cho dù không phải ai cũng “thông minh vốn sẵn tính trời.”
+ Một số người ưa thành tích ép chỉ tiêu, ép số lượng khiến học giả, thi giả nên đánh phải thiếu trung thực mà vớt được số lượng như mong muốn.
– Tác hại của thái độ thiếu trung thực trong thi cử.
+ Không có kiến thức khi bước vào đời.
+ Gian lận được một lần mà có thể trót lọt thì lần sau họ sẽ tiếp tục gian lận để vươn tới vị trí cao hơn.
+ Người có chí dễ bi quan do nhiều người không bằng họ xong lại có vị trí cao hơn nhờ quay cóp, luồn cúi.
+ Bằng giả, bằng thật ai biết đâu mà lần. Nhưng rồi tấm bằng cũng quyết định một phần quan trọng trong việc tìm công ăn việc làm sau này nên nhiều người cứ vin vào đó để tiếp tục gian lận.
+ Xã hội sẽ mất niềm tin vào ngành giáo dục của đất nước, chất lượng giảm sút không thể nâng cao vị thế nền giáo dục trên trường quốc tế.
– Biện pháp khắc phục
+ Học bài, cố gắng học thật tốt vào và hãy tự tin vào bản thân, tin rằng thế hệ 8x, 9x chúng ta có thể làm được ngay cả những điều mà chúng ta nghĩ mình không làm được, hãy dũng cảm thoát ly khỏi cuốn sách, quyển vở trong giờ kiểm tra, không vụ lợi, không vì điểm số, không thành tích giả.
+ Kiên quyết chống bệnh thành tích, đề cao nhân tài có thực tài thực chất.
+ Khen thưởng, động viên kịp thời những đối tượng đầu tàu, gương mẫu trong vấn đề gạt bỏ mặt tiêu cực trong ngành giáo dục hiện nay.
III. Kết bài:
– Bày tỏ niềm tin rằng trong tương lai, thái độ thiếu trung thực này sẽ được khắc phục
Bài làm tham khảo 01
Trong thời đại ngày nay, thời đại của nền kinh tế tri thức, giáo dục cần được đặc biệt quan tâm để đào tạo ra tầng lớp trí thức trẻ có đầy đủ kiến thức và năng lực làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, nhằm phát triển kinh tế, xây dựng đất nước giàu mạnh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều đổi mới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Trong đó phải kể đến cuộc vận động hết sức ý nghĩa và hiệu quả: “Hai không” – “Nói không với gian lận trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”. Tuy nhiên trên thực tế hiện tượng thiếu trung thực trong thi cử vẫn hoành hành trong các nhà trường, vì vậy chất lượng học tập giảm sút đáng kể. Đây là một vấn đề nhức nhối cần lời giải đáp.
Từ khi mới vào lớp một chúng ta đã được trang bị bài học đạo đức đầu đời: năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng. Trong đó, điều 5 có viết: Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Như vậy, trung thực là một trong những đức tính quý giá mà con người được xây đắp ngay từ nhỏ. Cái gốc, cái nền có sẵn như thế, ấy vậy mà không ít học sinh, sinh viên đã vi phạm bài học đạo đức ấy. Họ, vì thật nhiều lý do, đã thiếu trung thực trong thi cử. Vậy nguyên nhân ở đây là gì?
Theo tôi, việc thiếu trung thực trong thi cử là do nhiều nguyên nhân, cả khách quan lẫn chủ quan. Khách quan là do những yếu tố tác động từ bên ngoài, như là sức ép phải đạt thành tích cao từ phía cha mẹ, thầy cô; do hiện tượng này xảy ra phổ biến và trở thành thói quen xấu trong cộng đồng học sinh. Song “thái độ thiếu trung thực trong thi cử” thì chỉ do một nguyên nhân chủ quan, đó là từ chính ý thức của người học sinh. Trong thi cử, thiếu trung thực là quay cóp, sử dụng tài liệu, là chép bài, là ăn trộm kiến thức…Nhiều học sinh do lười học hay học bài chưa kĩ, đến lớp gặp bài kiểm tra, vì muốn được điểm cao nên đã thiếu trung thực, quay cóp, xem bài bạn…Đó là những hành vi sai trái cần lên án và phê bình một cách nghiêm khắc. Bởi gian lận trong thi cử để lại thật nhiều tác hại khó lường. Trước hết, khi bạn quay cóp bạn trở thành một con tù nhân bị lệ thuộc vào những kiến thức ảo. Cái tâm lí dựa dẫm một cách lén lút khiến bạn luôn ở thế bị động trong cuộc chiến và rất khó khăn để thoát ra được. Bạn làm bài phụ thuộc vào sách vở, vào kiến thức của người khác, vì thế kết quả sẽ không thật và không tốt. Hơn thế nữa, gian lận sẽ tạo điều kiện cho bạn mắc vào nhiều thói xấu khác đó là lười nhác, ỷ lại và lừa dối. Nếu gian lận một lần mà trót lọt sẽ khiến bạn có ý định tái phạm thêm một, hai và có thể nhiều lần nữa. Vì bạn thấy: cần gì phải ra sức học làm gì cho mệt người, tốn công. Chỉ cần “khéo léo” một chút thôi thì chẳng học gì vẫn được điểm cao, có khi còn được tuyên dương nữa chứ. Và cứ thế bạn càng lấn sâu hơn vào bùn đen tội lỗi. Bạn chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt (có điểm số cao) mà quên không nghĩ tới tác hại vô cùng to lớn của thái độ thiếu trung thực ấy. Này nhé, bạn gian lận là lừa dối thầy cô, bè bạn. Tự bạn đã tha hoá bản thân, biến mình thành con người không trung thực, mất đi đức tính cao quý ngàn đời của cha ông và cả dân tộc Việt Nam. Bạn không cảm thấy day dứt với lòng mình hay sao? Rồi bạn có nghĩ đến việc nếu bị phát hiện bạn sẽ mất hết lòng tin yêu của mọi người, bị đánh giá và nhìn nhận theo một cách khác. Hơn thế bạn sẽ bị khiển trách trước hội đồng kỷ luật, bị nêu gương xấu trước toàn trường. Như vậy có đáng?
Song thiếu trung thực trong thi cử để lại tác hại lớn nhất là không có kiến thức. Khi bạn gian lận, bạn đã tự tạo cho mình một lỗ hổng rất lớn trong kho tri thức. Càng gian lận nhiều thì hố càng sâu và kiến thức càng vơi bớt. Giả dụ khi bạn làm bài sai hay không làm được bài, bạn sẽ được thầy cô chỉ bảo, chữa lỗi để rồi thật nhớ và thêm vốn kiến thức cho mình. Nhưng bạn gian lận thì tất cả chỉ là cơn gió thoáng qua và không ghi lại được chút kiến thức nào. Cứ như thế, thật lo ngại thay khi bước vào đời – Với một kho kiến thức ảo. Càng đáng lo hơn khi những kiến thức ảo ấy tiếp tục hoành hành song song với nhưng tấm bằng vô giá trị mà lại trở thành rất giá trị hiện nay. Tiến sĩ giấy, bằng giả đâu còn là chuyện gì xa lạ trong hiện thực cuộc sống! Bằng giả, bằng thật ai biết đâu mà lần. Nhưng rồi tấm bằng cũng quyết định một phần quan trọng trong việc tìm công ăn việc làm sau này nên nhiều người cứ vin vào đó để tiếp tục gian lận. Hậu quả là giảm sút năng suất, hiệu quả công việc, kinh tế tụt hậu…Bởi không có kiến thức thì làm sao có thể làm việc được…
Buồn thay, trước thực trạng ấy, người có chí đứng ngoài nhìn những kẻ lông bông bước chân vào giảng đường đại học, người có kiến thức không được trọng dụng, đành đứng nhìn những kẻ đeo tấm biển “bằng cấp” ngồi trên ghế lãnh đạo công ty…Thiếu trung thực trong thi cử đã khiến không ít nhân tài nhụt chí, chán nản, làm xã hội trở thành một xã hội bất công. Chúng ta – những người trong cuộc cần đứng lên đấu tranh chống lại hành vi sai trái đó ngay lúc này và ngay từ bây giờ.
Có rất nhiều biện pháp đã được đề ra trong nhà trường và từng lớp học. Song quan trọng nhất vẫn là ý thức của mỗi người chúng ta. Trung thực trong thi cử không những đem lại kiến thức, khẳng định cái tôi cá nhân trong sáng, mà nó còn thể hiện sự tôn trọng bản thân và mọi người xung quanh. Vì vậy, chúng ta – chủ nhân tương lai của đất nước, hãy sống một cách trung thực, lành mạnh, góp phần xây dựng nếp sống đẹp tuổi học trò, để môi trường học đường thật trong sạch và đáng tự hào. Hãy chăm chỉ học tập, trau dồi, nâng cao kho tri thức để thật tự tin trước mỗi bài kiểm tra, nỗ lực rèn luyện đạo đức để có đủ nghị lực tránh khỏi những cạm bẫy trong thi cử. Bên cạnh đó, chúng ta cần tuyên truyền cho các bạn mình cùng thực hiện: tuyên dương, học tập những tấm gương sáng trong cuộc vận động “Hai không”, kiên quyết chống lại hiện tượng gian lận trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Sự phối hợp của các cơ quan đầu ngành giáo dục, phụ huynh học sinh và nội quy kỷ luật nhà trường sẽ góp phần quan trọng đẩy lùi hiện tượng đáng phê phán trên.
Bài tham khảo mẫu 02
Trung thực là một đức tính quan trọng cần phải có của mỗi con người, đặc biệt đối với học sinh, đức tính đó càng quan trọng và phải được đặt lên hàng đầu. Giáo dục để đào tạo ra những người trung thực và sáng tạo là hai đức tính thực sự cần thiết trong quá trình hội nhập với thế giới.
Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn là hiện nay một bộ phận học sinh đang dần đánh mất đi sự trung thực trong học tập và thi cử. Để đáp ứng những đòi hỏi của một nền giáo dục hiện đại, hơn lúc nào hết, vấn đề này cần phải được nhìn nhận và bàn luận một cách nghiêm túc.
Một con người sống trong xã hội với đồng bào, đồng loại cần nhiều đức tính: lòng khoan dung, nhân ái, tin tưởng, hòa hợp, vị tha… và quan trọng nữa là lòng trung thực. Trung thực là ngay thẳng, thật thà. Người có thái độ trung thực là người trước một sự việc luôn có thái độ đúng đắn, phản ánh một cách chân thực, đúng với sự thật, không làm sai lạc đi. Thiếu trung thực trong cuộc sống chính là thái độ không tôn trọng sự thật, vì một mục đích nào đó mà có thể gây ra những hậu quả không tốt. Trong học tập và thi cử, thiếu trung thực là thái độ gian lận để đạt được những kết quả không đánh giá đúng thực lực của mình; là việc coi trọng điểm chác mà bỏ qua những kiến thức thực của bản thân, Một học sinh quay cóp trong giờ kiểm tra, nhìn bài bạn, chép bài của bạn để đạt điểm cao; các nhà giáo dục vì chạy theo thành tích mà không quan tâm đến chất lượng thực của học sinh, để cho tình trạng quay cóp, tình trạng ngồi nhầm lớp diễn ra.,. Đó là những biểu hiện tiêu biểu của thái độ thiếu trung thực trong thi cử.
Mấy ai tin rằng gian lận thi cử chỉ xảy ra vào năm 2006 và chỉ ở vài ba trường thuộc tỉnh Hà Tây?. Và mấy ai có thể khẳng định rằng, đằng sau những sự thiếu trung thực trong thi cử đó chúng ta đang phải đối mặt với biết bao những nạn học giả, bằng giả, làm suy thoái chất lượng nền giáo dục cũng như chất lượng đội ngũ tri thức nước nhà?.., Người học thiếu trung thực trong thi cử có thể do nhiều lý do: Học trò lười, nhưng lại muốn đạt điểm cao trong các kì kiểm tra, kì thi, dẫn đến gian lận. Cũng có những người tuy có học nhưng lại không tự tin với những gì mình có, không tự chủ được bản thân cộng với tư tưởng đánh đồng: với những hiện tượng đang diễn ra xung quanh nên vẫn quay bài. Cũng có cả những nguyên nhân khách quan là những áp lực từ gia đình, nhà trường và xã hội. Các bậc cha mẹ đều muốn con cái mình giỏi giang mà không hề quan tâm đến thực lực của con cái khiến chúng phải “oằn” mình gánh lấy ước mơ của cha mẹ. Khi bản thân không thể tự lực thì đành phải nhờ đến sự giúp đỡ của gian lận. Căn “bệnh thành tích” cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho tình trạng học giả, chất lượng học tập đồng đều giả vẫn còn đang diễn ra phổ biến trong xã hội.
Thiếu trung thực trong thi cử, nền giáo dục nước nhà nói chung và bản thân mọi người học nói riêng phải đứng trước những tác hại, hậu quả nghiêm trọng. Người học không phải bằng thực lực của bản thân sẽ không có kiến thức để có thể tự tin bước vào đời. Nó khiến cho học sinh trở nên phụ thuộc, coi thường tri thức và ý nghĩa của việc học tập, đôi khi là tự huyễn hoặc vào chính bản thân mình nên khi bắt gặp những môi trường đòi hỏi gắt gao, chân thực thì sẽ không thể đáp ứng được và bị đào thải là điều không thể tránh khỏi. Gian lận trong thi cử kéo theo sự mất công bằng trong xã hội, không đánh giá đúng thực lực con người. Những kẻ chủ nghĩa cơ hội, gian lận trót lọt thì đạt được những kết quả cao trong khi người học hành vất vả nhưng nhiều khi kết quả lại không được như mong muốn.
Từ đó dẫn đến hậu quả làm cho những người có chí, có tinh thần học tập đích thực dễ bị nản chí. Những kẻ dựa vào luồn cúi, gian dối để có được kết quả cao lại tiếp tục vươn lên những vị thế cao hơn trong xã hội. Tri thức đất nước vì thế mà có khả năng ngày cảng bị xuống cấp. Thiếu trung thực trong thi cử cũng làm cho chất lượng giáo dục giảm sút, mất niềm tin vào nền giáo dục nước nhà cũng như không có khả năng để khẳng định mình cùng với thế giới.
Chỉ có trung thực trong học tập và thi cử thì mới có thể nhìn nhận đúng năng lực, phản ánh đúng kết quả học tập của bản thân người học từ đó có hướng phấn đấu phù hợp. Để có thể đem lại sự trung thực trong giáo dục đòi hỏi sự hợp tác của mỗi cá nhân, của toàn xã hội. Mỗi học sinh cần phải ý thức một cách đầy đủ về vai trò của việc học tập bằng chính năng lực của mình để có thể đứng vững trong xã hội, phải thấy được rằng những thành quả có được do gian lận chỉ là những thành quả mang tính tạm thời, bề ngoài, khi phải đối mặt với khó khăn thực sự và những đòi hỏi gắt gao của cuộc sống thì họ sẽ không thể có đủ tự tin để vượt qua. Ý thức sâu sắc được việc học thật, thì thật là một điều cần thiết để từ đó mỗi chúng ta có một thái độ học tập nghiêm túc.
Bài tham khảo mẫu 03
Nếu được gọi tên xã hội hiện tại, tôi sẽ gọi đây là một xã hội giả dối. Vì sao ư? Vì mọi thứ đều có thể làm giả được. Từ đồ ăn, thực phẩm đến bằng cấp, thậm chí là con người. Đó là hệ quả tất yếu của thái độ thiếu trung thực, đặc biệt là thiếu trung thực trong thi cử của chúng ta trong suốt một thời gian dài khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Trung thực là thành thật, thẳng thắn, tôn trọng sự vật, sự việc, quá trình như đúng những gì ta chứng kiến, theo lẽ phải và sự công bằng. Thiếu trung thực chính là sự giả dối, lươn lẹo làm cho sự thật bị bóp méo, trái với lẽ phải và công bằng. Sự thật nếu đã bị bóp méo thì không còn là sự thật nữa. Và hẳn nhiên, nếu đã không còn là sự thật thì kết quả dù có thể nào thì cũng không còn giá trị. Thiếu trung thực trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều là điều không thể chấp nhận. Thiếu trung thực trong thi cử thì lại càng không. Thiếu trung thực trong thi cử là hành động gian dối trong các kỳ thi hay kiểm tra. Thực chất đây chính là hành động ăn cắp kiến thức một cách trắng trợn của một bộ phận không nhỏ những con người nhỏ nhen, ích kỷ với chủ nghĩa cá nhân hẹp hòi.
Kết quả của các kỳ thi hay kiểm tra chỉ có giá trị trong một thời điểm nhất định chứ nó không thể là thước đo để định giá giá trị của một con người. Bởi vốn dĩ các cuộc thi hay kỳ kiểm tra được đề ra là để đánh giá năng lực của người học trong một giai đoạn nhất định, từ đó ta có thể thấy được mình đang ở đâu, đang thiếu gì cần bổ sung và khắc phục. Nhưng bản chất của các kỳ thi sẽ thay đổi nếu như nó không còn giữ đúng được mục đích đề ra ban đầu của mình. Hành động gian dối trong thi cử là một hành động sai trái, thiếu công bằng và cần phải loại bỏ ngay khỏi suy nghĩ, trong tiềm thức của tất cả chúng ta.
Nếu đã là sự giả dối thì nó sẽ kéo theo hàng loạt những hệ lụy giống như khi ta bắt đầu một lời nói dối thì ta sẽ phải nói dối thêm hàng nghìn lần để có thể khớp với lời nói dối ban đầu. Đã sai sẽ lại càng sai.
Thiếu trung thực hay gian dối trong thi cử trước hết sẽ làm thay đổi kết quả của cuộc thi khiến cho việc đánh giá năng lực của người thi không còn đúng nữa. Những người học thực sự sẽ bị đánh đồng với những kẻ lười biếng, ỷ lại. Công bằng ở đâu khi người thì học ngày học đêm, kẻ thì nhởn nhơ bay nhảy để cuối cùng hai người được đánh giá như nhau? Vẫn biết cuộc đời vốn dĩ không công bằng nhưng nếu không có sự công bằng ngay trên ghế nhà trường thì khi ra ngoài xã hội kia, nhân cách và thế giới quan của chúng ta sẽ bị lệch lạc và méo mó đến nhường nào?
Gian dối trong thi cử đồng nghĩa với việc không học tập, không làm việc nghiêm túc trong suốt cả cuộc hành trình. Và điều đương nhiên, những con người ấy sẽ chẳng có gì trong đầu, dù là những thứ đơn giản nhất. Chúng ta gian lận trong mọi kỳ thi để có được thành quả một cách dễ dàng. Điều đó có nghĩa thành công đến với chúng ta như một điều đương nhiên, dù không cần bỏ ra chút công sức hay thật sự cố gắng một giây phút nào. Nếu kẻ gian dối may mắn qua được tất cả các kỳ thi, ta sẽ nhận vào xã hội một cái đầu rỗng tuếch, không làm được việc, không có tính kỷ luật, không cố gắng. Cả một xã hội nếu chỉ toàn những cái đầu rỗng thì chúng ta sẽ phát triển thế nào?
Người xưa nói “Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” để nhắc nhở chúng ta về việc hình thành một thói quen xấu. Việc gian lận trong thi cử suốt một thời gian dài sẽ tạo ra cho ta một thói quen. Đó là sự lười biếng, ỷ lại. Lâu dần thói quen sẽ ăn vào máu trở thành một phần của tính cách, sự lươn lẹo, giả dối. Sẽ chẳng ai có thể đặt niềm tin vào một con người thiếu trung thực. Đã gian dối được một lần, hà cớ gì họ lại không gian dối lần thứ hai nữa? Làm việc hay chơi cùng với những người gian dối ta sẽ luôn trong tâm thế đề phòng, cảnh giác vì họ có thể phản bội và bán đứng ta bất cứ lúc nào. Lòng tin là thứ ta phải dùng cả đời để xây dựng nhưng ta lại có thể đánh mất nó một cách dễ dàng trong vài phút. Chắc hẳn chúng ta vẫn còn ngỡ ngàng trước thông tin Tập đoàn Khải Silk buôn bán lụa giả nhập từ Trung Quốc số lượng lớn với giá rẻ và bán ra thị trường với giá cao ngất ngưởng sau khi được phù phép với mác lụa Việt Nam. Danh tiếng 15 năm gây dựng lòng tin nơi người tiêu dùng bốc chốc sụp đổ như làn khói mỏng. Cả một “đế chế” bỗng chốc trở thành kẻ lừa lọc, gian dối. Cho dù có cố gắng giải thích, phân trần hay chối bỏ trách nhiệm thì vết nhơ của sự gian dối sẽ không bao giờ có thể trắng lại được. Người tiêu dùng sẽ không ai dám tin tưởng dùng sản phẩm của Khải Silk nữa.
Con người là tế bào của xã hội. Nếu xã hội toàn những con người thiếu trung thực, gian dối, lừa lọc thì bản chất của xã hội ấy chính là sự giả dối. Sự giả dối đã trở thành bản chất thì đạo đức bị xuống cấp cũng đâu có gì lạ? Khi mọi phạm trù đạo đức bị đạp đổ bởi lợi ích cá nhân: ăn cắp kiến thức, ăn trộm thành quả lao động của người khác, lừa dối niềm tin của người tiêu dùng…thì sớm muộn gì không gian xã hội cũng bị thu hẹp lại chỉ còn một màu đen xám xịt. Cuộc sống còn ý nghĩa gì khi xung quanh ta toàn những chiếc mặt nạ của sự giả dối? Có mệt mỏi không khi cứ phải gồng mình cười nói với những thứ ta ghê tởm? Có thấy lạc lõng không khi cứ phải luồn cúi để trượt dài theo những giá trị phù phiếm, của cái tôi vị kỷ hẹp hòi. Cả một xã hội chạy theo thành tích, chạy theo sự hào nhoáng bề ngoài thì tụt hậu rồi chết là điều có thể lường trước được.
Vậy thì, phải làm thế nào để có thể khắc phục được thái độ thiếu trung thực trong thi cử? Mọi sai lầm đều xuất phát từ cá nhân mỗi người, đừng bao giờ tìm cách đổ lỗi cho bất kỳ ai, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Mỗi cá nhân đều là một tế bào của xã hội, tế bào ấy khỏe mạnh thì cả cơ thể sẽ hồng hào, đầy sức sống. Vì thế, mỗi chúng ta đều cần tự ý thức được về tác hại của việc thiếu trung thực, trong bất cứ việc gì, đặc biệt là trong thi cử. Hãy nghiêm khắc với chính bản thân mình để hình thành thói quen trung thực, thẳng thắn và biến nó thành tính cách của mình. Người ta thường nói, thật thà thẳng thắn thường thua thiệt. Nhưng cái thua thiệt ấy chỉ là cái lợi trước mắt, chỉ cả cái nhỏ nhặt, không có giá trị. Thua thiệt một chút nhưng cái mà ta nhận được là lòng tin, là tình yêu và sự kính trọng của mọi người đối với mình. Đó chẳng phải là giá trị lớn nhất của một con người sao?
Bài tham khảo mẫu 03
Một trong những căn bệnh xảy ra rất thường xuyên trong ngành giáo dục hiện nay đó chính là căn bệnh thiếu trung thực trong thi cử. Có thể nói việc thiếu trung thực này sẽ gây nên những vấn đề vô cùng nghiêm trọng không chỉ cho bản thân học sinh mà còn cho tương lai đất nước sau này. Vậy nó là gì mà lại khiến nhiều người lo sợ đến thế?
Trung thực là một đức tính vô cùng tốt đẹp của con người. Đó chính là việc thẳng thắn thừa nhận những việc làm sai trái của bản thân, dũng cảm nhận khuyết điểm của mình, không bao che tội lỗi của người khác. Ngay từ khi mới vào lớp một chúng ta đã được đọc những dòng chữ vàng Bác Hồ kính yêu dành cho thế hệ mầm non tương lai. Trong đó đức tính trung thực đã được đưa lên đầu tiên “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Bởi lẽ Người hiểu rằng chỉ có những người trung thực dám làm dám chịu mới có thể làm nên công trạng cho quốc gia. Thế nhưng trên thực tế dù đã được quán triệt tư tưởng bằng những bài giảng đạo đức bằng những lời dạy từ bố mẹ, thầy cô thì hiện tượng thiếu trung thực trong thi cử vẫn diễn ra rất nhiều trong môi trường giáo dục.
Bằng chứng cụ thể của nó chính là việc các em học sinh vẫn đang hàng ngày dùng thái độ “thiếu trung thực”, quay cóp trong những bài kiểm tra, khảo sát. Thực tế chúng ta cũng nên nhìn nhận việc này từ nhiều khía cạnh khác nhau. Đầu tiên nó xuất phát từ nguyên nhân khách quan. Có rất nhiều cha mẹ, thầy cô hầu như dùng điểm số để đánh giá nhận thức của các con. Điểm cao thì được thưởng được khen ngợi, thấp thì bị mắng mỏ thậm chí phạt và đánh. Điều này phải nói là hoàn toàn sai. Và chính nó đã vô tình đẩy con họ vào con đường gian dối, thiếu trung thực. Sâu xa hơn nó gây nên một hậu quả vô cùng nghiêm trọng đó chính là khiến chúng ta trở nên lệ thuộc vào sách vở, không bao giờ biết phấn đấu mà chỉ ỉ lại vào nó. Lâu dần chúng ta mất đi khả năng tự học để rồi trượt dài trên con dốc của sự dối trá. Chưa kể việc có quay cóp lần thứ nhất sẽ có n lần tiếp theo như thế, để qua mắt được thầy cô các em ngày càng nghĩ ra nhiều trò tinh quái hơn, ranh ma hơn trở nên bất cần hơn. Bên cạnh yếu tố khách quan thì yếu tố chủ quan cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó xuất phát từ chính ý thức của mỗi con người, nếu bạn là người trung thực biết dũng cảm đối diện với những điều sai, day dứt trước lương tâm của mình thì bạn sẽ không bao giờ làm những việc như quay cóp hay gian dối trong học tập. Bởi lẽ trong mỗi con người đều có một tòa án lương tâm cho riêng mình. Những việc bạn làm không ai biết nhưng chính lương tâm của bạn là chiếc gương phản ánh mọi tội lỗi, nó sẽ nhắc nhở bạn khiến bạn day dứt và biết sửa những lỗi lầm. Việc bị đánh giá soi xét bằng những ánh mắt thiếu thiện chí, thiếu tin tưởng cũng chính là cách tốt nhất để bạn sửa sai.
Không chỉ gây nên những hậu quả khôn lường đối với bản thân mà căn bệnh thiếu trung thực trong thi cử này còn gây một tác hại nghiêm trọng đối với xã hội. Nó là nguyên nhân gây nên những việc bất công như người giỏi thì không có việc làm ổn định mà người chẳng biết chữ gì lại giữ những chức vụ quan trọng trong cơ quan, trong một tổ chức. Thế mới có trường hợp anh kỹ sư đốt tấm bằng đại học bách khoa của mình một cách đầy cay đắng. Thử hỏi những con người chỉ biết dùng tiền để “mua quan bán chức”, để “mua bằng cấp” nhưng bên trong chẳng có kiến thức gì sẽ lãnh đạo một tập thể như thế nào? Tương lai của đất nước sẽ đi về đâu?
Đề xuất những kiến nghị để hạn chế việc thiếu trung thực trong thi cử đã được các cấp ngành ráo riết thực hiện trong suốt nhiều năm qua bằng nhiều hình thức như: thắt chặt giám sát, lắp camera theo dõi, đưa ra nhiều mức xử lý cứng rắn đối với những cá nhân thiếu trung thực… Nhưng thiết nghĩ điều quan trọng nhất để giảm thiểu tình trạng này xuất phát từ ý thức của mọi người. Bởi lẽ dù thầy cô có làm chặt cỡ nào thì học trò cũng nghĩ ra những trò tinh vi hơn để qua mắt. Mỗi con người hãy ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình với xã hội để từ đó tự chủ hơn về hành động của mình. Bởi chúng ta là con người, có suy nghĩ có nhận thức vì thế hãy tiếp nhận cái tốt mà loại bỏ cái xấu không nên để người khác phải răn đe hay dọa nạt. Vì nó chỉ khiến cho giá trị của ta bị hạ thấp đi mà thôi.
Bài tham khảo mẫu 04
Từ xưa cho đến nay, giáo dục vẫn luôn được xem là một phần quan trọng của cuộc sống bởi nó đào tạo nên những người tài cho đất nước, góp phần không nhỏ vào sự phát triển văn minh, giàu mạnh của mỗi quốc gia. Trong quá trình đào tạo, thi cử là hình thức không thể thiếu để đánh giá kiến thức, năng lực của người học. Tuy nhiên, gần đây, vấn đề thiếu trung thực trong thi cử đang diễn ra ngày càng phổ biến và để lại nhiều tác hại.
Như chúng ta đã biết, thiếu trung thực là làm sai lệch, không đúng với thực tế, với những gì đã xảy ra. Thái độ thiếu trung thực trong thi cử có nhiều biểu hiện, diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Đơn giản và phổ biến nhất đó chính là sử dụng phao, giở tài liệu, quay cóp, chép bài của bài trong các giờ kiểm tra hay giờ thi. Nhưng không dừng lại ở đó, thái độ thiếu trung thực trong thi cử còn diễn ra ở mức độ cao hơn, tinh vi hơn đó chính là sử dụng các thiết bị hiện đại để làm bài thi theo hướng dẫn từ bên ngoài. Thêm vào đó, thái độ thiếu trung thực trong thi cử còn được thể hiện ở hành vi thuê người thi hộ, “đe dọa” giám thị để hỗ trợ thí sinh trong quá trình làm bài.
Có thể thấy, thái độ thiếu trung thực trong thi cử được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Vậy nguyên nhân của điều này xuất phát từ đâu? Trước hết, những điều đó bắt nguồn từ chính bản thân những người học. Nhiều học sinh trong quá trình học tập lười biếng, không chăm chỉ học hành nên lúc kiểm tra hay làm bài thi cử họ không đủ kiến thức, kĩ năng để hoàn thiện chúng. Ngoài ra,một số người thiếu dũng khí để đối mặt với kết quả, năng lực của bản thân mình, muốn che lấp đi năng lực thật của bản thân. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ bản thân người học còn có cả những nguyên nhân khách quan, xuất phát từ gia đình, nhà trường và xã hội. Đầu tiên, do sự giám sát lỏng lẻo, chưa có chế tài xử lý nghiêm minh và chưa có sự xử lý triệt để đối với các trường hợp vi phạm quy chế thi. Hơn nữa, nhà trường, thầy cô và phụ huynh luôn dùng điểm số để đánh giá học sinh, điều đó vô tình đã tạo nên áp lực cho các em, làm cho các em sử dụng phao, quay cóp trong giờ thi, giờ kiểm tra để đạt được điểm số cao.
Thái độ thiếu trung thực trong thi cử bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Với bản thân các học sinh, thiếu trung thực trong thi cử sẽ khiến các em ảo tưởng về trình độ, kiến thức của bản thân và mất đi ý chí, sự nỗ lực, cố gắng trong quá trình học tập. Đồng thời, điều này cũng đã hình thành nên ở các em đức tính xấu, sự giả dối, ỷ lại, dựa dẫm, phụ thuộc vào người khác và về lâu dài sẽ có nhiều hậu quả kéo theo. Thêm vào đó, thái độ thiếu trung thực trong thi cử sẽ tạo ra sự bất công giữa người chăm chỉ và người lười biếng, người thật thà và người dối trá, làm đảo lộn mọi nền tảng giá trị đạo đức và tài năng của con người. Thiếu trung thực trong thi cử sẽ dẫn đến những đánh giá sai lệch về trình độ, ảnh hưởng đến quá trình làm việc về sau, khiến cho chất lượng cuộc sống và sự phát triển của đời sống con người ngày càng đi xuống.
Thiếu trung thực trong thi cử đang ngày càng tinh vi và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp xử lý phù hợp. Trước hết, các nhà trường, thầy cô cần đổi mới hình thức ra đề thi và hình thức kiểm tra đánh giá, hạn chế đến mức thấp nhất việc học sinh có thể chép bài, sử dụng phao. Thêm vào đó, công tác coi thi phải thực sự nghiêm ngặt và cần đặt ra các chế tài xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm. Đồng thời, cần tuyên truyền ý thức cho học sinh để các em hiểu được hậu quả của thái độ thiếu trung thực trong thi cử và từ đó có ý thức tự giác trong quá trình học tập cũng như quá trình làm bài kiểm tra. Mỗi học sinh cần có kế hoạch học tập, ôn luyện phù hợp để có thể đạt được kết quả cao trong các kì thi bằng chính năng lực của bản thân.
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 6 – Đề 4
Đề 4: Hãy viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp đảm bảo an toàn giao thông.
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Giới thiệu vấn đề an toàn giao thông: là mối quan tâm chung của toàn xã hội
II. Thân bài:
– Thực trạng tai nạn giao thông ở nước ta hiện nay
– Hậu quả của tai nạn giao thông:
+ Gây nhiều thiệt hại về người và của: để lại thương tật vĩnh viễn hoặc có thể cướp đi mạng sống của nạn nhân
+ Để lại nhiều đau thương, mất mát cho gia đình các nạn nhân
– Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông
+ Người tham gia giao thông chưa chấp hành, tuân thủ các quy định
+ Thiếu hiểu biết về luật giao thông
+ Cơ sở vật chất còn hạn chế
– Hành động của tuổi trẻ để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông:
+ Tìm hiểu về các quy định an toàn giao thông ở trường lớp
+ Chấp hành đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định khi tham gia giao thông
+ Tuyên truyền cho mọi người về ý thức khi tham gia giao thông
III. Kết bài:
– Khẳng định vai trò của thanh niên trong công cuộc góp phần cải thiện an toàn giao thông.
Bài làm tham khảo 01
Từ lâu, an toàn giao thông đã là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Thế nhưng, hiện nay, số vụ tai nạn giao thông lại đang gia tăng cả về số lượng hay chất lượng. Tình trạng an toàn giao thông ở nước ta hiện nay đã được xếp vào mức báo động đỏ. Vậy, làm thế nào để đảm bảo an toàn giao thông? Đây là câu hỏi lớn chờ sự giải đáp và cụ thể hóa bằng hành động của tất cả mọi người.
“Thảm họa quốc gia” là cụm từ vô cùng đau xót khi nói về thực trạng giao thông ở nước ta hiện nay. Theo những số liệu gần đây, trung bình ở nước ta mỗi ngày có 24 người chết, hơn 60 người bị thương tật suốt đời vì tai nạn giao thông. Những con số biết nói này làm cho ta không khỏi băn khoăn, suy nghĩ về trách nhiệm của cả cộng đồng trong việc đảm bảo an toàn giao thông.
Tai nạn giao thông để lại những hậu quả vô cùng nặng nề. Tai nạn giao thông gây nhiều thiệt hại về người và của, để lại những thương tật vĩnh viễn hoặc có thể cướp đi mạng sống của con người chỉ trong một phút sơ sẩy. Không chỉ thế, tai nạn giao thông còn để lại bao xót xa, đau thương, mất mát trong lòng những người có nạn nhân mất vì tai nạn giao thông. Hạnh phúc gia đình tan vỡ, người thân mất đi một người trụ cột, mất đi một bàn tay đảm đang thu vén gia đình. Tai nạn giao thông không dừng lại ở việc gieo rắc đau thương, nó còn gây những thiệt hại nặng nề về vật chất và tinh thần cho toàn xã hội. Nhiều người nước ngoài khi đi du lịch Việt Nam rất sợ mỗi lần phải băng qua đường vì xe cộ nườm nượp, tình trạng vượt đèn đỏ, lạng lách, đánh võng xảy ra thường xuyên, phổ biến. Như vậy, giao thông đang là một trở ngại lớn cho vấn đề phát triển du lịch ở nước ta.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông nhưng đa phần nó xuất phát từ ý thức của người tham gia giao thông. Đó là những người thiếu ý thức thường vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, chen lấn, xô đẩy trên đường. Một số thanh niên thì tụ tập tổ chức đua xe trái phép, lái xe với tốc độ cao gây nguy hiểm cho người đi đường. Đồng thời, việc sử dụng rượu bia, nồng độ cồn trong máu cao quá mức quy định cũng là nguyên nhân gây nên những vụ tai nạn giao thông không đáng có. Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác là do cơ sở hạ tầng ở nước ta còn kém, những con đường quốc lộ còn ẩn chứa nhiều nguy hiểm từ những ổ voi, ổ gà, những khu vực miền núi có địa hình hiểm trở, những vùng sâu vùng xa chưa được quan tâm, chú ý.
Bài làm tham khảo 02
Trong vài năm trở lại đây, tình hình tai nạn giao thông luôn diễn biến phức tạp, đặc biệt là có chiều hướng gia tăng. Nó trở thành một trong những vấn đề nóng, bức thiết được xã hội quan tâm nhất hiện nay. Vậy chúng ta với cương vị người học sinh ngồi trên ghế nhà trường phải làm gì để đảm bảo an toàn giao thông?
Hàng ngày chúng ta lưu thông trên đường vẫn thường thấy biển hiệu “An toàn giao thông là hạnh phúc của mọi nhà”. Vậy an toàn giao thông ở đây là gì? Đó là việc chấp hành nghiêm chỉnh những luật lệ giao thông để mang đến sự an toàn cho bản thân và cộng đồng. Thế nhưng dường như việc bất chấp luật lệ vẫn diễn ra hàng ngày và gây nên những hậu quả vô cùng đau đớn. Theo thống kê của tổ chức an toàn giao thông quốc gia, mỗi ngày trên khắp cả nước có tới 33 người chết vì va quẹt giao thông. Đây là những con số biết nói, đáng báo động đối với tình hình giao thông của nước nhà.
Tai nạn giao thông không chỉ gây nên nỗi đau về thể xác mà nó còn là ám ảnh về tinh thần đối với nhiều người. Những gia đình có nạn nhân chết do tai nạn giao thông để lại một nỗi đau vô cùng lớn và sâu sắc. Bố mất con, vợ mất chồng, con mất cha mẹ… chưa kể những người phải mang bất hạnh suốt đời bởi khiếm khuyết cơ thể, bại liệt, tâm thần….
Tai nạn giao thông hiện nay do cả nguyên nhân do chủ quan và khách quan gây ra. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan xuất phát từ ý thức của con người chiếm vai trò quan trọng nhất. Không phải ngẫu nhiên mà tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều mà nó bắt nguồn từ việc thiếu hiểu biết luật lệ và ý thức bất cần của người điều khiển phương tiện giao thông. Hiện tượng phóng nhanh vượt ẩu, lấn làn, vượt đèn tín hiệu, không đội mũ bảo hiểm, điều khiển phương tiện khi có rượu bia ngày càng nhiều…. Họ coi thường tính mạng của bản thân cũng như người ngồi sau vô lăng của mình. Ngoài ra, sự bất cập trong cơ sở hạ tầng giao thông như đường sá kém chất lượng cũng là một yếu tố dẫn đến tai nạn giao thông ngày càng gia tăng. Những đoạn đường chỉ toàn ổ gà, ôm cua hiểm trở làm hạn chế tầm nhìn của người điều khiển…. dẫn đến nhiều câu chuyện tai nạn giao thông đau lòng.
Tai nạn giao thông gây nên không chỉ gây thiệt hại về người, sức khỏe …mà nó còn làm cản trở bước phát triển của xã hội. Một bài toán đặt ra cho mọi người đó là những nạn nhân của tai nạn giao thông nếu không thiệt mạng sẽ để lại rất nhiều những di chứng như khuyết tật, ảnh hưởng đến não bộ, và dần dần mất khả năng lao động….và rồi họ vô tình trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Để rồi, khi không còn cách nào khác để cứu vớt họ nhà nước phải trích quỹ phụ cấp, chúng ta lại tăng thêm gánh nặng để bù đắp cho những thiếu hụt này. Nền kinh tế không những không phát triển mà thậm chí còn bị thụt lùi nghiêm trọng. Đó là chưa kể những mặt trái nó mang lại như tình trạng tắc đường, kẹt xe, móc túi, cướp giật mà nó gây ra cho xã hội.
Chính vì thế ngay bây giờ Nhà nước các cơ quan cấp ngành càng phải đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền giáo dục chấp hành luật giao thông. Học sinh sinh viên những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước cần phải hiểu rõ vai trò cũng như trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo an toàn giao thông. Bằng những việc làm cụ thể như: chấp hành nghiêm túc luật an toàn giao thông đường bộ, không phóng nhanh vượt ẩu, không vượt đèn đỏ, không điều khiển phương tiện giao thông khi chưa có bằng lái, không dàn hàng hai hàng ba…. Ngoài ra thì học sinh, sinh viên cũng chính là những người đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền luật an toàn giao thông đến với cộng đồng, người thân của mình. Trên thực tế những học sinh tham gia vào đội tình nguyện bảo đảm an toàn giao thông đã có đóng góp vô cùng to lớn trong việc giảm thiểu ùn tắc, xử lý vi phạm an toàn giao thông.
Đối với nhà trường cần đưa việc tuyên truyền trật tự an toàn giao thông vào nội quy của trường học, đưa nó trở thành một nội dung đánh giá đạo đức học sinh. Thực hiện nghiêm chỉnh các đợt giảng dạy về an toàn giao thông, lồng ghép nó trong những bài học. Đưa an toàn giao thông vào trong những bài giảng ngoại khóa, chính khóa. Đối với những học sinh các lớp các cấp cần phải triển khai các chương trình giáo dục “An toàn giao thông” cho các em. Để các em biết cách bảo vệ mình và người thân khi điều khiển phương tiện giao thông.
Bài làm tham khảo 03
Hằng ngày, trên các trang báo lớn, chúng ta lại xót xa khi đọc những thông tin về tai nạn giao thông, những tai nạn thương tâm mà không chỉ để lại di chứng cho nạn nhân mà còn khiến bao gia đình phải đau khổ. Đã đến lúc mỗi người chúng ta phải kiên quyết hơn, phải có những giải pháp triệt để để giảm thiểu số lượng tai nạn giao thông, hướng đến một xã hội an toàn và văn minh hơn.
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu “an toàn giao thông” là gì? An toàn là bình yên trọn vẹn, không xảy ra bất kỳ sơ suất gì ảnh hưởng đến bản thân và người xung quanh. Thế nào là an toàn giao thông? Là những người tham gia giao thông tuân thủ đúng luật giao thông, không để xảy ra bất cứ tai nạn nào ảnh hưởng đến tính mạng đến của cải vật chất của bản thân mình và của người khác.
Tình trạng giao thông hiện nay ở nước ta đang diễn ra phức tạp với những biểu hiện mất an toàn tăng cao. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, năm 2017, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 20.280 vụ tai nạn giao thông. Trong đó, bao gồm 9.770 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 10.310 vụ va chạm giao thông, làm 8.279 người chết; 5.587 người bị thương và 11.453 người bị thương nhẹ. Bình quân 1 ngày trong năm 2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 55 vụ tai nạn giao thông, gồm 27 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 28 vụ va chạm giao thông, làm 23 người chết, 15 người bị thương và 32 người bị thương nhẹ. Hiện nay đang diễn ra một thực trạng là phần lớn học sinh tham gia giao thông có ý thức chưa cao như phóng nhanh, vượt ẩu, đi bộ và băng qua đường không đúng quy định, chạy xe đạp dàn hàng hai, ba, thậm chí là năm, sáu trên đường gây cản trở giao thông…; phụ huynh lấn chiếm lòng đường để đưa đón học sinh vẫn tái diễn. Một số em chưa đủ tuổi nhưng vẫn điều khiển xe trên 50 phân khối đến trường. Nhiều trường hợp không đội mũ bảo hiểm khi điều khiển xe đạp điện, mô tô và vượt đèn đỏ khi đi qua các nút giao thông có đèn tín hiệu…, đi tắt bục, dàn hàng ngang trên đường, đi sai làn đường uống rượu bia trước khi tham gia giao thông, sử dụng điện thoại khi đi xe…
Vì sao bài toán an toàn giao thông ngày càng trở nên nan giải? Vậy nguyên nhân ở đây là gì? Có hai yếu tố cần bàn ở đây: khách quan và chủ quan. Khách quan là những yếu tố từ bên ngoài, bản thân luật giao thông hiện nay vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Vì thế, người dân đôi khi vẫn vô tư dàn hàng chạy xe, bán hàng lấn chiếm vỉa hè, gây mất trật tự tình hình giao thông. Ngoài ra, cơ sở vật chất không được đảm bảo. Những con đường đầy ổ gà, lồi lõm, khiến nhiều xe bị lật bánh, dẫn đến tai nạn thương tâm. Là đường liên tỉnh, đường quốc lộ nhưng chỗ này đống đất, chỗ kia đống cát. Đường làm cả năm bảy năm chưa xong. Nhưng quan trọng hơn cả là nguyên nhân chủ quan đến từ người tham gia giao thông. Nhiều người bất chấp tất cả, loại đèn vàng đèn đỏ, uống rượu say xỉn khi lái xe. Lại có người ngủ gật, không đủ tỉnh táo điều khiển xe máy, xe tải… Bên cạnh đó cũng có không ít người không có bằng lái nhưng vẫn điều khiển xe máy, ô tô. Trong đó phần nhiều là những bạn học sinh còn đang độ tuổi học sinh: tay lái còn yếu, phản xạ còn kém nên việc tham gia giao thông còn nhiều hạn chế. Nguy hiểm hơn, có nhiều bạn học sinh hoặc các nhóm thanh niên mới lớn tổ chức đua mô tô, xe máy… gây mất trật tự trị an, nguy hiểm đến tính mạng những người xung quanh và cho ngay cả bản thân họ.
Những hành vi này cần bị xử phạt thật nặng, vì chúng sẽ gây ra hậu quả to lớn cho toàn xã hội. Nó dẫn đến thiệt hại lớn về người và của. Đó là thiệt hại về sinh mạng, gây tổn thương về tinh thần xã hội, về vật chất, tiền của và cả nỗi đau thể xác, tinh thần dai dẳng. Các gia đình mất đi những người thân, xã hội mất đi những thành viên, những bàn tay lao động. May mắn hơn có người chỉ bị thương. Nhưng trong số ấy cũng có người phải mang bất hạnh suốt đời: bị mất đi một phần cơ thể, bị liệt, phải sống đời sống thực vật… Hơn cả, không gì đau khổ hơn là mất mát về tinh thần, con mất cha, vợ mất chồng, cha mẹ mất con… cả một gia đình phải hứng chịu hậu quả nặng nề chỉ vì một phút không tập trung khi điều khiển phương tiện giao thông
Vậy, chúng ta phải làm gì để có thể cải thiện được tình hình này? Trước hết, cần phải tuyên truyền luật giao thông: trao đổi với người thân trong gia đình, tham gia các hoạt động tuyên truyền xung kích về an toàn giao thông để góp phần phổ biến luật giao thông đến tất cả mọi người, tham gia các đội thanh niên tình nguyện đảm bảo an toàn giao thông… Tham gia học tập luật giao thông đường bộ ở trường lớp. Ngoài ra, bản thân mỗi người phải tìm hiểu, nắm vững thêm các luật lệ và quy định đảm bảo an toàn giao thông. Chấp hành nghiêm chỉnh quy định về an toàn giao thông: không lạng lách, đánh võng trên đường đi, không đi xe máy khi chưa có bằng lái, không vượt đèn đỏ, đi đúng phần đường, dừng đỗ đúng quy định, khi rẽ ngang hoặc dừng phải quan sát cẩn thận và có tín hiệu báo hiệu cho người sau biết, đi chậm và quan sát cẩn thận khi qua ngã tư…
Bài văn mẫu lớp 11 bài viết số 6 – Đề 5
Đề 5: Theo anh (chị), làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp?
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài:
– Giới thiệu môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh- sạch-đẹp
Ví dụ:
Cuộc sống của chúng ta đang bị đe dọa bởi những thiên tai, những ảnh hưởng vô cùng xấu của thiên tai. Chính vì thế để bảo vệ cuộc sống chúng ta thì chúng ta cần bảo vệ môi trường thiên nhiên. Để nói lên thông điệp này chúng ta có câu Bảo vệ môi trường thiên nhiên là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Để làm thế nào để môi trường sống ngày càng xanh-sạch-đẹp, chúng ta cùng đi tìm hiểu
II. Thân bài:
* Giải thích về môi trường:
– Môi trường sống của chúng ta là một môi trường rộng lớn, bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên cũng như yếu tố xã hội xung quanh chúng ta
– Môi trường tự nhiên: gồm các thành phần tự nhiên như cây cối, đá, đất, không khí, nước,…
– Môi trường xã hội gồm là thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, các quan hệ khác trong xã hội…
* Thực trạng môi trường hiện nay:
– Nguồn nước bị ô nhiễm, không khí ô nhiễm, ô nhiễm môi trường nặng nề,….
– Rừng trên thế giới bị phá hủy nặng nề
– Rác thải môi trường đang ở độ báo động
* Hậu quả của việc ô nhiễm môi trường:
– Suy giảm chất lượng sống con người
– Làm suy giảm sự phát triển kinh tế xã hội
* Hành động của chúng ta:
– Khai thác tài nguyên thiên nhiên, rừng hợp lý
– Không xả rác bừa bãi
– Có những hành động yêu quý môi trường
– Tuyên truyền mọi người bảo vệ môi trường
III. Kết bài:
– Nêu cảm nhận của em về môi trường.
Ví dụ:
– Môi trường là không gian sống, là một nguồn sống vô giá của con người.
Bài làm tham khảo 01
Môi trường sống của con người ngày càng ô nhiễm nặng nề, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Và còn là một vấn đề cấp bách đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Nó gây ra những hiểm họa khôn lường, hiện tượng biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người trên thế giới. Việt Nam chúng ta mức độ ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi đang ở mức báo động. Chúng ta cần nhận thức vấn đề này như thế nào? Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và giải pháp để tìm hướng giải quyết đúng đắn là vấn đề cần đặc biệt quan tâm.
Môi trường sống của con người là một khái niệm rộng. Nó bao gồm tất cả yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng cuộc sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và mọi sinh vật trái đất. Môi trường có hai loại chính: đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên: bao gồm các thành phần tự nhiên như địa hình, địa chất, đất trồng, khí hậu, nước, sinh vật… Môi trường xã hội là tổng thể các mối quan hệ cá nhân với cộng đồng thể hiện bằng pháp luật, thể chế, cam kết, quy định… Ở đây ta chi bàn đến môi trường tự nhiên Hiện trạng ô nhiễm môi trường sống của chúng ta do các nhà máy đã và đang thải ra môi trường không khí một lượng khí cacbonic lớn, khói bụi xe và các loại động cơ khác… đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của con người, nó gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp… Việt Nam là một trong những nước bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe của người dân. Số lượng người sử dụng nước sạch chiếm tỉ lệ khôn lớn các nguồn nước ao, hồ, sông suối, nguồn nước ngầm ngày càng bị ô nhiễm; âm thanh, tiếng ồn tại các đô thị lớn cũng ảnh hưởng rất nhiều đen chất lượng cuộc sống của con người.
Từ thực trạng trên, chúng ta thấy nổi lên hai nguyên nhân. Trước hết là tình trạng nóng lên của trái đất gây ra những biến động lớn về khí hậu toàn cầu dẫn đến các hiểm họa thiên tai ngày càng khủng khiếp: lũ lụt, động đất, sóng thần, hạn hán, nhiệt độ tăng… Thứ hai là do ý thức của con người, không tôn trọng pháp luật bảo vệ môi trường, vì lợi ích kinh tế trước mắt mà các công ty, nhà máy, xí nghiệp đã bất chấp luật pháp thải ra môi trường nước thải công nghiệp chưa qua xử lý, rác thải công nghiệp; một số cơ sở y tế đã thải ra ra rác thải y tế; một số đô thị đã thải ra rác thải sinh hoạt không phân hủy được…
Để giải quyết được vấn đề này, công tác tuyên truyền giáo dục phải được xem là công việc hàng đầu; làm cho các cấp, các ngành và người dân hiểu và nhiều hơn nữa về các tác hại ô nhiễm và hủy hoại môi trường mà con người là tác nhân gây ra. Gần đây có rất nhiều đơn vị vi phạm Luật Bảo vệ môi trường mang tính chất điển hình như: nhà máy sản xuất bột ngọt Vedan, một số nhà máy ở Khu công nghiệp Bình Dương… Các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường và các cơ quan tư pháp phải khẩn trương hướng dẫn thi hành pháp luật; thấy vướng ở đâu thì phải trình các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi bổ sung, giải quyết. Điều 49 Luật Bảo vệ môi trường quy định về hình thức và mức độ xử lý đối với các cơ sở vi phạm gây ô nhiễm môi trường. Đó là phạt tiền và bắt buộc áp dụng biện pháp khắc phục, tạm đình chỉ, di dời đi nơi khác, đình chỉ hoạt động, bồi thường thiệt hại; trường hợp vi phạm nghiêm trọng thì áp dụng biện pháp xử lý hình sự.
Tất nhiên, xử lý vi phạm chỉ là một biện pháp. Chúng ta phải tuyên truyền, giáo dục, tạo điều kiện để doanh nghiệp khắc phục bằng các biện pháp như hỗ trợ kinh phí từ nguồn quỹ bảo vệ môi trường, hỗ trợ để cơ sở di dời phải cân nhắc vấn đề công ăn việc làm của người lao động, giúp doanh nghiệp duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh. Cho nên việc xử lý ô nhiễm môi trường không chi là nhiệm vụ của riêng ngành tài nguyên môi trường mà là của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội để môi trường sống của người Việt Nam không ngừng xanh, sạch, đẹp… Đó là những đòi hỏi cấp bách nhằm hưởng ứng ngày môi trường thế giới ngày 5 tháng 6 hàng năm.
Bài làm tham khảo 02
Hiện nay, vấn đề môi trường sống đang thu hút sự quan tâm của toàn nhân loại. Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta đang bị ô nhiễm trầm trọng vì những hoạt động khai thác, sản xuất với quy mô lớn của thời kỳ hiện đại hóa, công nghiệp hóa, thời kỳ của xã hội tiêu thụ và dân số tăng nhanh vượt khỏi tầm kiểm soát, ô nhiễm môi trường và những tác hại của nó đối với cuộc sống con người ngày càng nặng nề hơn. Do đó việc bảo vệ môi trường xanh – sạch – đẹp là nhiệm vụ của tất cả mọi người trên thế giới.
Ai cũng biết rằng môi trường có một ý nghĩa to lớn và vô cùng quan trọng đối với con người. Con người không thể tồn tại khi tách rời môi trường. Tất cả những gì con người có được đều lấy từ môi trường: không khí để thở, thức ăn, nước uống, đất đai canh tác, đất đai để xây dựng nhà ở, nhà máy, công xưởng, bệnh viện, trường học… và nguyên vật liệu để sản xuất ra các phương tiện làm việc, học tập. Từ những điều tưởng như bình thường, nhỏ nhặt nhất cho đến những của cải quý giá nhất, tất cả đều do thiên nhiên ban tặng cho chúng ta. Ngay cả những sản phẩm mà chúng ta gọi là “nhân tạo”, thực chất cũng có nguồn gốc từ thiên nhiên. Môi trường là điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội loài người. Con người là một phần trong quần thể sinh vật của thế giới tự nhiên.
Môi trường quen thuộc và gần gũi với chúng ta như những người bạn thân thiết trong cuộc đời. Thế nhưng vì lợi ích trước mắt, con người đã đối xử tàn tệ với môi trường, thậm chí cố tình hủy hoại môi trường mà không biết rằng làm như vậy là tự hủy hoại cuộc sống của chính mình.
Tình trạng ô nhiễm môi trường đang xảy ra trên đất nước Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới. Môi trường ngày càng xấu đi: đất đai bị ô nhiễm trở thành đất chết; nước ở các dòng sông bị nhiễm độc trở thành nguồn phát sinh bệnh tật; núi rừng bị tàn phá trơ trụi, hiện tượng bão lũ xảy ra bất thường, không khí đầy chất độc và nhiệt độ Trái đất đang nóng dần lên.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường. Trước tiên, do trình độ hiểu biết của con người còn thấp.Vì ích kỷ tư lợi dẫn đến không có ý thức bảo vệ môi trường, thậm chí cố tình hủy hoại môi trường. Tiếp đến là sự khai thác thiên nhiên quá mức, lối sống tiêu thụ thiếu trách nhiệm với môi trường và cộng đồng, xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa thiếu đồng bộ. Chẳng hạn như việc xây dựng nhà máy mà không xây dựng khu xử lý chất thải, khí thải; thiếu quan tâm đến sự cân bằng, thân thiện với môi trường để đảm bảo sự phát triển lâu dài, bền vững…
Các hành động gây ô nhiễm môi trường là muôn hình muôn vẻ và nhiều mức độ, từ nhẹ đến nặng, thậm chí nghiêm trọng, ở nước ta, nạn chặt phá rừng vô tội vạ do thói quen đốt rừng làm nương, mở rộng đất canh tác có từ lâu đời của đồng bào miền núi. Quyền lợi của cá nhân hoặc lợi nhuận của những doanh nghiệp khai thác lâm sản là rất lớn dẫn đến hiện tượng phá rừng, lở núi, lũ quét, lũ lụt… gây hậu quả thảm khốc.
Ở nông thôn, hiện nay nông dân sử dụng hóa chất rất tùy tiện. Hóa chất độc hại ngấm vào lòng đất làm ô nhiễm nguồn nước. Ngư dân nhiều nơi đánh bắt thủy hải sản bằng thuốc nổ, bằng lưới vét làm cạn kiệt nguồn lợi lâu dài. Ở các thành phố lớn, ô tô, xe máy xả khói bụi, gây tiếng ồn ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân.
Các phương tiện truyền thông hằng ngày cho thấy nhiều hình ảnh thương tâm và đáng sợ. Đó là khung cảnh hoang tàn của những khu vực bị bão lũ tàn phá ở các tỉnh phía Bắc năm 2007; những cánh rừng nguyên sinh giờ đây trở nên trơ trụi ở Nghệ An, Bình Thuận, Đắc Lắc… Những vùng đất xưa kia trù phú xanh tươi giờ đã bị con người biến thành vùng đất chết ở Tây Nguyên. Những dòng sông đem lại sự sống từ hàng ngàn năm nay, là đề tài của thơ ca nhạc họa giờ đây đã bị biến thành những dòng sông “chết” vì bị nhiễm độc bởi chất thải công nghiệp, ví dụ như sông Thị Vải, sông Cầu, sông Hồng… Có thể nói tất cả các con sông trên toàn quốc đều bị ô nhiễm nhưng nặng nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Vì lợi ích riêng, khi xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, người ta đã không xây dựng khu xử lý nước thải và khí độc mà cứ vô tư xả lên trời hoặc xả trực tiếp vào các dòng sông, biến sông ngòi, kênh rạch thành những cống chứa nước thải tự nhiên hết năm này qua năm khác.
Tác hại của việc gây ô nhiễm môi trường là rất lớn. Khí hậu trái đất đang nóng dần lên một cách bất thường bởi hiệu ứng nhà kính. Thiên nhiên ngày càng khắc nghiệt, dữ dội là nguyên nhân dẫn tới những thiên tai như giông bão, sóng thần, lở núi, lũ quét, lũ bùn, hạn hán… dồn dập xảy ra trên khắp thế giới, gây nên những thiệt hại ghê gớm về của cải và tính mạng, ô nhiễm không khí, tầng ozon bảo vệ trái đất bị thủng, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của con người và chất lượng cuộc sống. Nguồn năng lượng, nguồn thực phẩm càng ngày càng trở nên khan hiếm. Vì thiếu lương thực nên nạn đói đã xảy ra ở một số nước, nhất là ở châu Phi. Tất cả những điều đó đe dọa an ninh về lương thực, thực phẩm và cả trạng thái hòa bình, ổn định của đời sống chính trị, xã hội trên toàn thế giới.
Quả là tình trạng ô nhiễm môi trường đã đến mức báo động đỏ : SOS ! Chúng ta phải làm gì đây để cứu lấy môi trường, cứu lấy màu xanh của đất nước Việt Nam, cứu lấy Trái đất – ngôi nhà chung của chúng ta ?
Vậy xã hội cần có những giải pháp gì để bảo vệ môi trường và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với vấn đề này như thế nào?
Các quốc gia trên thế giới hiện nay đều nhận thức rất rõ về tình trạng ô nhiễm môi trường và đã đưa ra những giải pháp có tính chất vĩ mô. Nhà nước ta đã đưa vào Bộ luật hình sự năm 1999 điều khoản về vấn đề này: “Những kẻ có hành vi sai phạm mang tính chất hệ thống và đặc biệt nghiêm trọng đủ dấu hiệu cấu thành tội gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường sẽ bị xử lý theo pháp luật”, ở Trung ương và địa phương đã thành lập lực lượng cảnh sát môi trường và họ đã vào cuộc để giám sát, thanh tra việc xử lý khí thải, nước thải, rác thải của các xí nghiệp, nhà máy… Tuy nhiên, do trình độ quản lý của những người có trách nhiệm bị hạn chế, hoặc do họ bị các doanh nghiệp “qua mặt” nên hành động xả khí thải, nước thải, chất thải vào bầu trời và nguồn nước vẫn tiếp diễn. Bên cạnh đó là ý thức bảo vệ môi trường của từng cá nhân, từng gia đình chưa tốt!
……………………..
Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tại file dưới đây!