Bộ đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn có đáp án, Để hỗ trợ các bạn học sinh lớp 12 có thêm tư liệu ôn tập thi THPT quốc gia 2017, Tài Liệu Học Thi xin giới
Bộ đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn có đáp án
Bộ đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn có đáp án dành cho học sinh lớp 12 đang chuẩn bị cho kì thi THPT quốc gia 2017. Đề thi bám sát với cấu trúc đề thi môn Ngữ Văn của Bộ GD&ĐT sẽ giúp các bạn ôn tập và củng cố lại kiến thức môn Ngữ Văn một cách tốt nhất. Chúc các bạn ôn thi tốt và đạt kết quả cao trong kì thi THPT quốc gia 2017 sắp tới.
Đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn Sở GD&ĐT Bà Rịa – Vũng Tàu
Đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn – Thành phố Hà Nội (Có đáp án)
Đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn trường THPT Đoàn Thượng, Hải Dương (Lần 1)
ĐỀ SỐ 1
SỞ GD&ĐT HẢI DƯƠNG TRƯỜNG THPT THANH MIỆN (Đề thi có 02 trang) |
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2017 – LẦN 1 MÔN THI: NGỮ VĂN (Thời gian làm bài: 120 phút) |
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Một người bạn Phi-líp-pin gửi cho tôi cuốn sách mỏng. Tôi mở ra và nhìn thấy tựa đề “12 điều nhỏ bé mỗi người Phi-líp-pin có thể thực hiện để giúp ích Tổ quốc”. Tác giả – luật sư A-lếch-xan-đrơ L. Lác-xơn – chỉ là một thường dân, nhưng cuốn sách đã được khá nhiều nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX quan tâm và giới thiệu.
Đọc cuốn sách này, tôi thật sự bị thu hút vì những điều đơn giản mà tác giả đã trình bày và biện giải.
Hãy tuân thủ Luật Giao thông. Hãy tuân thủ luật pháp.
Bạn có thể thắc mắc vì sao trong 12 điều nhỏ bé này, việc tuân thủ Luật Giao thông lại được đặt lên hàng đầu?
Câu trả lời thật đơn giản. Luật Giao thông là những nguyên tắc giản đơn nhất trong nền pháp luật của một đất nước. Luật Giao thông hiện diện trong mọi mặt sinh hoạt của cuộc sống thường nhật, khi người dân phải ra đường. Chúng ta đối mặt với khoản luật này hằng ngày từ sáng đến tối. Do đó, quyết định tuân thủ hay không tuân thủ Luật Giao thông chính là điều kiện để tạo ra một môi trường liên tục cho mọi người cố gắng và nỗ lực trong từng ngày.
Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật Giao thông của chúng ta sẽ trở thành một thói quen, và dĩ nhiên, đó là thói quen tuân thủ chuẩn mực của quốc gia. Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước; từ đó, có thể xây dựng một thói quen văn hóa biết tôn trọng luật pháp của bất cứ công dân nào trong một đất nước văn minh.
Đó là vì trật tự cũng giống như những bậc thang. Trước khi leo lên được bậc cao nhất, hãy bắt đầu bằng nấc thang thấp nhất, bởi lẽ “cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng một bước đi nhỏ bé đầu tiên” (trích châm ngôn của Lão Tử).
(Theo báo điện tử Tuoitreonline, ngày 22-10-2007, Bài tập Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.92, 93)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Tại sao tác giả cho rằng “việc tuân thủ Luật Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước”?
Câu 3. Xác định và nêu tác dụng của phép tu từ cú pháp được sử dụng trong những câu văn sau: “Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật Giao thông của chúng ta sẽ trở thành một thói quen, và dĩ nhiên, đó là thói quen tuân thủ chuẩn mực của quốc gia. Một ngày nào đó, việc tuân thủ Luật Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước”.
Câu 4. Theo anh/chị, làm thế nào để việc tuân thủ Luật Giao thông trở thành một thói quen văn hóa biết tôn trọng luật pháp? (Trình bày khoảng 5 đến 7 dòng)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng một bước đi nhỏ bé đầu tiên”.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích sau:
Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng tiếng reo hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng cái cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.189, 190)
————– Hết———–
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn
I. ĐỌC HIỂU
1. Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.
2. Việc tuân thủ Luật Giao thông làm cho chúng ta dễ tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước vì:
- Luật Giao thông là những nguyên tắc giản đơn nhất trong nền pháp luật của một đất nước.
- Tuân thủ Luật Giao thông sẽ hình thành ở mỗi người thói quen tuân thủ chuẩn mực của quốc gia. Từ đó, dễ dàng tuân theo những điều luật phức tạp, khó khăn và quan trọng hơn trong luật pháp nhà nước.
3.
- Phép tu từ: Phép lặp cú pháp (lặp kết cấu ngữ pháp).
- Tác dụng: Nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tuân thủ Luật Giao thông và bày tỏ niềm mong mỏi tha thiết vào ý thức chấp hành Luật Giao thông của người dân.
4. HS nêu những giải pháp theo quan điểm cá nhân nhưng cần phải hợp lí và có sức thuyết phục.
(Có thể tập trung vào các giải pháp như: Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức của người dân. Tăng cường công tác điều hành, giám sát các hoạt động giao thông. Xử lí nghiêm minh các hành vi vi phạm luật giao thông.)
II. LÀM VĂN
1. Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về vấn đề: “Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng một bước đi nhỏ bé đầu tiên”.
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận: Có câu mở đoạn, các câu phát triển ý và câu kết đoạn. Đảm bảo số lượng chữ phù hợp với yêu cầu (khoảng 200 chữ), không quá dài hoặc quá ngắn.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cuộc hành trình ngàn dặm nào cũng phải bắt đầu bằng một bước đi nhỏ bé đầu tiên.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành một đoạn văn hoàn chỉnh, lôgic; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra được bài học cho bản thân.
* Giải thích:
- Hành trình ngàn dặm: đường đi dài (nghĩa đen), thành công lớn (nghĩa bóng).
- Bước đi nhỏ bé: việc làm, hành động nhỏ bé, cụ thể.
- Nội dung câu châm ngôn: đúc kết một chân lí đơn giản, có tính quy luật: muốn có được thành công thì phải có bắt đầu; làm tốt việc nhỏ mới có được thành công lớn.
* Phân tích – Bàn luận:
HS có thể trình bày quan điểm cá nhân nhưng cần hợp lí, thuyết phục. Dưới đây là một hướng giải quyết:
- Phân tích biểu hiện: Trong đời sống tự nhiên, cũng như xã hội của con người, những điều lớn lao đều được tạo ra bởi những gì nhỏ bé: biển cả mênh mông được tạo ra từ vô số giọt nước; cây đại thụ trưởng thành từ hạt mầm; kì tích của nhân loại có được nhờ những nỗ lực từng bước của con người…
- Bàn luận:
- Khẳng định tính đúng đắn của câu châm ngôn: Tất cả mọi điều vĩ đại trên thế giới này đều bắt đầu từ những thứ nhỏ bé ở đâu đó, ở một khoảnh khắc nào đó trong quá khứ. Thực tế cho thấy chẳng mấy ai hoàn thành việc lớn trong đời khi cứ ngồi một chỗ, chẳng làm gì cả. Những người thành đạt là người luôn làm việc, luôn hành động.
- Không phải cứ “bước đi” là sẽ vượt được “hành trình ngàn dặm” (tức là có được thành công) nhưng muốn thành công thì nhất thiết phải có những “bước đi nhỏ bé đầu tiên”.
- Việc làm, hành động có thể dẫn đến thành công hay thất bại song điều quan trọng là phải biết rút ra những bài học kinh nghiệm từ những thành công hay thất bại đó.
- Trong cuộc sống có những người biết ước mơ, dám nghĩ, dám làm và đi đến đích của cuộc hành trình rất đáng ngợi ca; bên cạnh đó, cũng cần phê phán những người không làm gì cả, không đi một bước nào hết, vì thế, không có được thành công thực sự.
* Bài học nhận thức và hành động: Cần làm tốt việc nhỏ để có được thành công lớn; bắt đầu những điều lớn lao bằng những bước đi vững chắc đầu tiên.
d. Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
2. Cảm nhận về hình tượng người lái đò trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/đoạn văn, kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Những phẩm chất đẹp đẽ của người lái đò trong cuộc vượt thác nước sông Đà.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; bám sát đoạn trích.
* Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, có phong cách độc đáo. Nhân vật của ông, dù ở lĩnh vực nào, cũng luôn hiện lên trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
- “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm kết tinh những thành tựu nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng, là đỉnh cao của thể tùy bút. Thông qua việc khắc họa thành công hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn đã khẳng định, ngợi ca “thứ vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn những người lao động ở Tây Bắc.
- Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò được thể hiện tập trung qua cuộc vượt thác (đoạn trích).
* Cảm nhận về hình tượng người lái đò trong đoạn trích:
- Bối cảnh, tình huống xuất hiện nhân vật: Nhà văn đã đặt nhân vật vào một cuộc vượt thác. Con sông Đà hung bạo, ác hiểm bày “trùng vi thạch trận” ba vòng, dụ thuyền đối phương…
- Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của nhân vật:
- Ở vòng vây thứ nhất: người lái đò hiện lên với bản lĩnh dũng cảm phi thường. Mặc dù bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc nhất nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương…, vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền sáu bơi chèo để giành chiến thắng.
- Ở vòng vây thứ hai: : người lái đò hiện lên với trí nhớ siêu phàm, kinh nghiệm dày dạn và hết sức tài hoa. Ông nhớ mặt từng hòn đá lòng sông và “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Từng động tác lái đò của ông vô cùng chuẩn xác, dứt khoát, khéo léo và tài hoa: lái miết một đường chéo, tránh, rảo, đè sấn, chặt đôi…
- Ở vòng vây thứ ba: nhân vật hiện lên với sự tài hoa, khéo léo và sức mạnh thể lực đáng ngưỡng mộ. Ông đã điều khiển con thuyền với tốc độ “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”; mọi động tác của ông đều đạt tới sự chính xác tuyệt đối.
- Vẻ đẹp bình dị, khiêm tốn của nhân vật:
- Sau cuộc chiến đấu ác liệt với sóng nước, ghềnh thác sông Đà, người lái đò lại trở về với những sinh hoạt bình dị: đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ…
- Dù là người chiến thắng giòn giã, nhưng người lái đò không có một lời bàn về chiến thắng vừa qua.
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật:
- Nhịp điệu câu văn mạnh mẽ như cao trào của một bản hùng ca
- Cách kể chuyện hấp dẫn, đầy kịch tính
- Ngôn ngữ điêu luyện, thể hiện sự uyên bác (huy động ngôn ngữ và kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống).
* Đánh giá chung:
- Hình tượng người lái đò sông Đà đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: luôn quan sát và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Qua hình tượng người lái đò, nhà văn muốn khẳng định: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
ĐỀ SỐ 2
SỞ GD & ĐT VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT YÊN LẠC |
ĐỀ KSCL ÔN THI TNPT QUỐC GIA LẦN 3 – LỚP 12 NĂM HỌC 2016 – 2017 ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN Thời gian làm bài 120 phút; Không kể thời gian phát đề |
PHẦN I: ĐỌC – HIỂU (2,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
(1) “Lấy chủ đề về cuộc khủng hoảng di cư nghiêm trọng nhất tại châu Âu kể từ sau Thế chiến II, bộ phim tài liệu Hành trình của sự sống và cái chết thể hiện một cách chân thực nhất, cận cảnh nhất, khách quan nhất về cuộc sống của những người dân tị nạn ở Trung Đông. Song song với đó, theo chân những dòng người di cư, bộ phim còn giúp khán giả chứng kiến sự khốc liệt, tội ác tột cùng của chiến tranh.
(2) Câu chuyện của Hành trình của sự sống và cái chết bắt đầu bằng giọng hát của những đứa trẻ tại một trại tị nạn gần biên giới Libăng và Syria – “Thiên đường, thiên đường, thiên đường. Quê hương em là thiên đường”. Hình ảnh những đứa trẻ vô tội bị đói, lạnh và bệnh tật dưới thời tiết 0 độ song vẫn hồn nhiên nở nụ cười được nhắc lại nhiều lần trong hơn 40 phút của bộ phim. Ở đó, mỗi đứa trẻ có một số phận, một hành trình gian nan khác nhau để đến với miền đất hứa nhưng điểm chung giữa chúng là khát vọng được sống trong bình yên, có đồ ăn và áo ấm. Những hình ảnh ấy có lẽ sẽ khiến nhiều người không thể quên, thậm chí bị ám ảnh.
(3) Không chỉ khắc họa chân thực cuộc sống của những người di cư, bộ phim còn trả lời một phần câu hỏi – Tại sao những người tị nạn phải rời bỏ quê hương, để tìm đến cuộc sống khổ cực cùng tận và cả những cái chết oan uổng trên nẻo đường tìm về miền đất hứa?. Câu trả lời cho câu hỏi này chỉ đơn giản là bởi nỗi sợ hãi, ám ảnh với chiến tranh và IS, là mơ ước về một cuộc sống thoát khỏi những cơn ác mộng đến hàng đêm.
(Lời bình của phim tài liệu “Hành trình của sự sống và cái chết” – VTV đặc biệt, tháng 12/2015).
Câu 1. Những thông tin người xem có thể thu thập được khi xem bộ phim tài liệu “Hành trình của sự sống và cái chết” (VTV đặc biệt, tháng 12/2015).
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 3. Trong đoạn (2), người viết đã sử dụng các phép liên kết nào? Tác dụng của các phép liên kết ấy?
Câu 4. Câu hát của những đứa trẻ trong trại tị nạn “Thiên đường, thiên đường. Quê hương em là thiên đường” gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì? Trình bày trong khoảng 7-10 dòng?
PHẦN II: LÀM VĂN (7,0 ĐIỂM)
Câu 1 (2,0 điểm).
Viết đoạn văn(khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh chị về Hòa bình.
Câu 2 (5,0 điểm).
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hai đoạn thơ sau:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
(Tây Tiến- Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012)
“Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du.”
(Đàn ghi ta của Lorca– Thanh Thảo, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012)
_______HẾT_______
Học sinh không được sử dụng tài liệu; Giám thị coi thi không giải thích gì thêm.
Đáp án đề thi thử THPT Quốc gia năm 2017 môn Ngữ văn
Phần đọc hiểu
Câu 1: Những thông tin người xem có thể thu thập khi xem bộ phim tài liệu “Hành trình của sự sống và cái chết” là: Cuộc sống của những người dân tị nạn ở Trung Đông; sự khốc liệt, tộiác tột cùng của chiến tranh và nguyên nhân vì sao những người tị nạn phải rời bỏ quê hương của mình .
- Điểm 1,0: Nêu đầy đủ thông tin như trên
- Điểm 0,5: Trả lời ½ ý trên (cuộc sống của người dân tị nạn hoặc tội ác của chiến tranh)
Câu 2: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích: Thuyết minh
Câu 3: Trong đoạn (2), người viết đã sử dụng phép lặp “những đứa trẻ”; phép thế “ở đó”, “những hình ảnh ấy”. Tác dụng: Tô đậm hình ảnh đáng thương của trẻ em trong trại tị nạn, câu văn ám ảnh, sinh động.
- Điểm 1,0: Trả lời đúng 02 phép liên kết trên và nêu tác dụng của chúng.
- Điểm 0,5: Trả lời đúng 01 phép liên kết và nêu tác dụng hoặc trả lời 2 phép liên kết mà không nêu tác dụng.
- Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 4: Câu hát của những đứa trẻ trong trại tị nạn cho thấy: Với chúng, quê hương là nơi đẹp đẽ,nơi có những điều tốt lành, hạnh phúc và mơ ước. Vậy mà chúng phải rời bỏ quê hương để cùng người lớn di cư tìm đến cuộc sống khổ cực. Câu hát cũng chính là lời tố cáo chiến tranh, IS đã đẩy con người, nhất là trẻ em, những nạn nhân đáng thương đến tình cảnh khổ sở.
- Điểm 0,5: Nêu đúng ý trên
- Điểm 0: Trả lời sai, chung chung, sơ sài hoặc không trả lời
Phần làm văn
Câu 1 Viết đoạn văn (khoảng 200 từ) trình bày suy nghĩ của anh chị về Hòa bình.
Đảm bảo các ý:
- Khái niệm: Hòa bình là trạng thái an toàn của một vùng lãnh thổ. Ở đó không có sự can thiệp tiêu cực của vũ lực, vũ khí để tranh chấp quyền lợi về mọi mặt, con người có thể sống vui vẻ, bình yên.
- Hòa bình là vấn đề toàn cầu, không chỉ là vấn đề của 1 quốc gia, càng không phải vấn đề cá nhân. Vì vậy yêu cầu mọi người phải chung tay xây dựng hòa bình.
- Hòa bình là một giá trị sống tích cực nhân loại luôn hướng tới. Chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 2014 là một cô gái 17 tuổi người Ấn Đọ đã nói: “Mục tiêu của tôi không phải là giải Nobel hòa bình. Mục tiêu của tôi là hòa bình và mọi trẻ em được đi học”.
- Là những thanh niên được mệnh danh là chủ nhân tương lai của đất nước, ngoài nhiệm vụ học tập, còn phải xây dựng lí tưởng sống lành mạnh, tốt đẹp, biết yêu chuộng hòa bình. Tránh xa, phản kháng lối sống bạo lực để hướng tới một xã hội tốt đẹp, văn minh.
Câu 2
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý/ đoạn văn, kết bài kết luận được vấn đề. Đảm bảo quy tắc chính tả, câu, từ.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: So sánh làm nổi bật vẻ đẹp phong cách riêng (nội dung và nghệ thuật) của hai đoạn trích.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm;
* Phân tích vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của hai đoạn trích:
- Đoạn trích trong bài Tây tiến – Quang Dũng: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được:
- Quang Dũng không hề che dấu sự khốc liệt của chiến tranh, những mất mát hi sinh của người lính cái chết gợi lên sự bi thương (Rải rác biên cương mồ viễn xứ).
- Câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh khẳng định mạnh mẽ khí phách của tuổi trẻ, không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên cái chết, sẵn sàng hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho nghĩa lớn của dân tộc. Đó là dũng khí tinh thần và hành động cao đẹp của người lính Tây Tiến. Tư thế ra trận, lý tưởng lên đường hào hùng mà bi tráng.
- Tác giả đã dùng từ Hán Việt, ngôn ngữ trang trọng (Biên cương, viễn xứ, áo bào, về đất, khúc độc hành) để diễn đạt sự đau đớn tiếc thương, tiễn biệt xen lẫn tự hào ngợi ca qua hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc nói thay cho cả dân tộc. Sự hi sinh của người lính được cảm nhận và miêu tả một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng. Cái chết hợp trời đất và lòng người nên thiêng liêng và bất tử.
- Nghệ thuật: bút pháp miêu tả lãng mạn kết hợp với bi tráng, nghệ thuật sử dụng ngôn từ hình ảnh đặc sắc độc đáo, phối hợp thanh điệu, … biểu đạt thành công nội dung.
- Đoạn trích trong bài Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được:
- Hình ảnh Lorca bị hành hình được miêu tả khốc liệt đầy đủ qua nghệ thuật hoán dụ áo choàng bê bết đỏ, trực tiếp điệu về bãi bắn tái hiện giây phút bi phẫn nhất cái chết của Lorca. Đó là khi ông bị bọn phát xít Phrăngcô giết, ném xác Lorca xuống giếng để phi tang. Tội ác của các thế lực tàn bạo là kẻ thù đối nghịch của cái đẹp gây nên nỗi kinh hoàng trong lòng người.
- Hình ảnh áo choàng bê bết đỏ gợi liên tưởng tới Tây Ban Nha như một đấu trường khổng lồ. Đó là cuộc đấu quyết tử giữa một bên là khát vọng dân chủ của người chiến sĩ Lor-ca và nền chính trị độc tài thân Phát xít; giữa người nghệ sĩ mang khát vọng cách tân nghệ thuật với sự bảo thủ của nền nghệ thuật già nua.
- Tây Ban Nha – hát nghêu ngao, như người mộng du gợi tư thế cái chết bi tráng Lorca, một cách siêu thoát, chập chờn bước vào cõi tử coi thường mọi đau đớn của người nghệ sĩ yêu tự do, vừa gợi được tính chất quyết liệt trong cuộc đấu tranh giữa ánh sáng – bóng tối, chính – tà, cũ – mới trong nền chính trị và nghệ thuật Tây Ban Nha thời đó.
- Từ “bỗng kinh hoàng” là một sự đổ vỡ ghê gớm. Báo chí Tây Ban Nha nói vụ giết Lor-ca vẫn là một trong những vết thương chưa lành ở Tây Ban Nha. Tây Ban Nha trở nên kinh hoàng khi nghe tin Lorca bị giết hại. Và gợi đau xót căm phẫn ở lòng người.
- Nghệ thuật: thể thơ tự do mang phong cách tượng trưng, siêu thực, kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và nhạc, giữa màu sắc thơ viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng phương Tây, hình ảnh thơ lạ hoá, áo hoá…
* Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt của hai đoạn trích để thấy được vẻ đẹp phong cách riêng của mỗi đoạn: Thí sinh có thể diễn đạt theo những cách khác nhau, nhưng cần làm nổi bật được:
- Sự tương đồng: Đều viết về những cái chết của những con người tài năng, yêu tự do, yêu đất nước, tiên phong mở đường cho lí tưởng mang vẻ đẹp bi tráng, hào hùng vượt lên trên hiện thực khốc liệt, bi thảm, nhưng mỗi tác gỉa lại có cái nhìn, cảm xúc và biểu đạt riêng.
- Sự khác biệt:
- Sự hi sinh, cái chết trong Tây Tiến của Quang Dũng được miêu tả gián tiếp qua hình ảnh (nấm mộ viễn xứ) và ngôn ngữ (về đất). Cái chết không đơn lẻ mà là sự hi sinh bi tráng chung của người lính Tây Tiến qua bức tượng đài tập thể tạo nên khúc tráng ca, mang dấu ấn sử thi của một dân tộc anh hùng. Cảm hứng lãng mạn khiến cách nhìn cái chết của những người lính vừa có chất khốc liệt trong cuộc chiến sinh tử nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, khí phách, lí tưởng mang dáng dấp của những tráng sĩ thủa xưa. Nghệ thuật chủ đạo là bút pháp lãng mạn kết hợp với bi tráng, sử dụng ngôn từ hình ảnh đặc sắc độc đáo, giàu tính nhạc và hội họa.
- Sự hi sinh, cái chết trong Đàn ghi ta của Lorca của Thanh Thảo miêu tả trực tiếp qua hình ảnh áo choàng bê bết đỏ, điệu về bãi bắn. Cái chết, sự hi sinh của Lorca đơn độc lẻ loi một mình tạo nên vẻ đẹp của con người mở đường tiên phong trong cuộc đấu tranh giữa ánh sáng – bóng tối, chính – tà, cũ – mới trong nền chính trị và nghệ thuật Tây Ban Nha thời đó nói riêng, cho sự tiến bộ nhân loại, cho nghệ thuật nói chung. Với thể thơ tự do mang phong cách tượng trưng, siêu thực, kết hợp giữa tự sự và trữ tình, giữa thơ và nhạc, giữa màu sắc thơ viếng phương Đông và chất bi tráng trong nhạc giao hưởng phương Tây, hình ảnh thơ lạ hoá, ảo hoá… tạo nên dấu ấn riêng của đoạn thơ.
- Lí giải: Thí sinh đưa ra sự lí giải về điểm tương đồng, khác biệt và đánh giá vị trí của tác giả và tác phẩm với nền văn học.
Thí sinh có thể có những cảm nhận và diễn đạt khác nhưng phải hợp lí, thuyết phục.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Tài liệu vẫn còn, mời các bạn tải về