
Bệnh dại ở người do virus gây ra và thường bị lây nhiễm thông qua vết cắn của động vật có virus Dại. Nếu động vật và người bị cắn không được tiêm phòng đầy đủ thì có nguy cơ mắc bệnh Dại với hậu quả nặng nề, thậm chí tử vong. Tìm hiểu ngay các đặc điểm và triệu chứng của bệnh Dại cũng như xử lý vết cắn kịp thời trong bài viết dưới đây.
Chó chưa được tiêm phòng nguy cơ truyền bệnh Dại sang cho người
Bạn Đang Xem: Các triệu chứng lâm sàng của bệnh dại ở trẻ em:
Xem Tắt
Đặc điểm của bệnh Dại
Bệnh Dại là bệnh của động vật, có thể là động vật hoang dại (thường là động vật ăn thịt: cáo, chó sói, chó rừng, dơi hút máu, dơi ăn côn trùng) hoặc động vật nuôi như chó, mèo, trâu, bò.
Virus dại
Virus dại xâm nhập vào cơ thể người từ động vật bị dại qua vết cắn, vết xước, vết liếm trên lớp da, niêm mạc bị tổn thương. Ở một số súc vật ăn thịt trong nước bọt của chúng có nhiều enzym hyaluronidaze là yếu tố có thể giúp cho virus dại lan toả nhanh hơn tới hệ thần kinh.
Là virus ái thần kinh. Dau khi xâm nhập nó tồn tại nhân lên tại vết thương từ vài giờ tới vài tuần. Sau đó nhanh chóng đi tới các đầu mút thần kinh cảm giác và vận động của hệ thần kinh ngoại biên. Cuối cùng chuyển tới cơ quan thần kinh trung ương.
Vì thế virus dại chỉ tiếp xúc thoáng qua với hệ miễn dịch mặc dù gần đây có công trình cho rằng sự âm hoá virus dại khỏi hệ thần kinh qua kháng thể trung gian là có thể xảy ra. Khi đã có mặt ở trong nơron của hệ thần kinh ngoại biên, virus được vận chuyển trong acxon bằng dòng phản hồi của tế bào sợi acxon với tốc độ 0.3 mm/giờ tới hệ thần kinh trung ương, nơi nó tiếp tục được nhân lên. Phần cuống não bị nhiễm trước tiên, sau đó tới vùng dưới đồi và cuối cùng đến phần vỏ não bị tổn thương.
Tuy nhiên vào giai đoạn nhiễm cuối thì toàn bộ hệ thần kinh trung ương cũng như một số mô ngoài như tuyến nước bọt cũng bị nhiễm virus, nhưng cơ chế nhân lên cũng bắt đầu vào thời điểm nào thì chưa rõ. Khi xâm nhập và nhân lên trong tế bào thần kinh, virus dại gây tổn thương não tủy ở các mức độ nặng nhẹ mà biểu hiện lâm sàng sẽ khác nhau.
Một số đặc điểm thường gặp của bệnh
Lúc đầu người bệnh có cảm giác đau đầu, bồn chồn, thổn thức, la hét, chán nản vô cớ, sợ hãi, sốt, khó chịu và những thay đổi cảm giác dị thường tại vết thương nơi bị súc vật cắn. Bệnh tiến triển đến liệt hoặc bị liệt. Các cơ nuốt của thực quản bị co thắt khi thử nước, nên người bệnh sợ nước, người bệnh mê sảng và co giật. Bệnh thường kéo dài từ 2 – 6 ngày rồi chết do liệt cơ hô hấp.
Chẩn đoán xác định bệnh bằng xét nghiệm kháng thể huỳnh quang đặc hiệu của tổ chức não hoặc phân lập virus trên chuột nhắt trắng, trên hệ thống tổ chức tế bào nuôi cấy.
Triệu chứng của bệnh Dại
Bệnh dại do virus thuộc họ Rhabdo viridae, giống Lyssavirus gây nên.
Thời kỳ ủ bệnh
Thời kỳ này tương ứng với sự di chuyển và nhân lên của virus. Thời gian ủ bệnh dại dài hay ngắn tùy thuộc vào khoảng cách từ vị trí vết cắn đến thần kinh trung ương xa hay gần , vết cắn càng gần thần kinh trung ương thi thời gian ủ bệnh càng ngắn.
Thời gian ủ bệnh trung bình là 30 – 90 ngày (80% trường hợp), có những trường hợp nhanh dưới 20 ngày (5 – 10% trường hợp) hoặc chậm hơn 3 tháng (7 -20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả năm (1,8% trường hợp). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và đặc biệt là đối với trẻ em. Triệu chứng của bệnh dại thời gian này không rõ ràng hoặc gần như không tìm được
Thời kỳ khởi phát
Từ 2 – 4 ngày trước khi phát bệnh, bệnh nhân thấy đau nhức nơi vết cắn, vết cắn bị sưng tấy. Những dấu hiệu này lan rộng dọc theo hệ thống thần kinh và hệ thống bạch huyết. Đồng thời người bệnh còn có các triêu chứng: bồn chồn, thổn thức, la hét, chán nản vô cớ.
Thời kỳ toàn phát
Có 3 thể lâm sàng
Thể co thắt
Đây là thể thường gặp nhất. Triệu chứng của bệnh Dại thể co thắt gồm: co cứng, co thắt, co giật, run các cơ kể cả cơ mặt. Co thắt hô hấp và co thắt thanh quản khiến bệnh nhân khó thở là biểu hiện tổn thương hành tủy và là triệu chứng đặc trưng của bệnh. Triệu chứng đặc trưng của bệnh là nhân lên cơn dại:
- Sợ nước: bệnh nhân thường rất khát nhưng khi uống nước họ bị co thắt lồng ngực, bị run câm cập. Trạng thái này qua mau nhưng để lại ân tượng kéo dài cho bệnh nhân, vì vậy họ không muốn uống nước mặc dù rất khát. Từ đó dẫn đến chỉ cần nhìn thấy 1 ly nước hoặc nghe tiếng nước chảy cũng sợ.
- Sợ ánh sáng: được mô tả tương tự như biểu hiện sợ nước.
Tính cách bệnh nhân không bình thường. Bệnh nhân bị phấn khích quá độ khi bị kích thích. Không phát hiện thấy dấu hiệu mất tri thức.
Những cơn co thắt đầu tiên còn xa nhau, càng ngày càng dày hơn và người bệnh thường tử vong sau 3 – 4 ngày do ngất hoặc ngạt trong một cơn co thắt sợ nước hoặc sau một cơn hôn mê.
Bệnh Dại thể co thắt là dạng phổ biến nhất
Xem Thêm : Tham Khảo 4 trường cao đẳng đại việt sài gòn mã trường hay nhất
Thể liệt
Thể này hiếm hơn, kém điển hình hơn, không có dấu hiệu phấn khích quá độ. Bệnh xuất hiện rất nhanh sau giai đoạn co thắt, run. Liệt có thể tiên phát và bắt đầu ở 1 chi hoặc 2 chi dưới rồi lan lên trên (hội chứng Landry) hoặc xuống dưới. Người bệnh thường bị tử vong do ngạt nước hoặc ngất vào ngày thứ 4. Diễn tiến bệnh thường không quá 4 -10 ngày.
Thể cuồng
Bệnh nhân bị kích thích quá độ, có những phản ứng dữ tợn, trở nên hung bạo.Vì vậy bệnh nhân thường có những hành vi không bình thường như chống lại y, bác sĩ và những người quanh mình. Thể trạng suy sụp nhanh, hôn mê, ngất và chết.
Phương thức và thời gian lây truyền bệnh Dại
Nước dãi mang virus bệnh Dại của động vật truyền vào người qua vết thương hở
Nước dãi mang virus của súc vật bị dại được truyền sang súc vật hoặc người cảm nhiễm qua vết cắn, có thể qua vết cào, vết rách, xước trên da hoặc rất hiếm có thể qua niêm mạc còn nguyên vẹn.
Lây truyền từ người sang người có thể xảy ra từ nước dãi của người bị bệnh có virus dại. Nhưng cần lưu ý rằng sau khi bị chó dại cắn, nếu người bị cắn chưa lên cơn dại (nghĩa là người đó đang ở thời kỳ ủ bệnh) thì không có khả năng làm lây nhiễm bệnh. Tuy nhiên việc lây truyền bệnh từ người sang người mới chỉ có tài liệu công bố và nguyên nhân của trường hợp này là do cấy ghép giác mạc lấy từ người bị chết vì dại mà không được chẩn đoán.
Thời gian lây truyền bệnh ở chó hay các súc vật khác là 3 – 5 ngày trước khi có triệu chứng biểu hiện bệnh và trong suốt thời gian súc vật bị dại.
Xử trí sau khi bị súc vật cắn
Người bị chó, mèo cắn, kể cả khi con vật đã được tiêm phòng dại, cần xử lý ngay vết cắn bằng xà phòng hoặc chất sát trùng. Sau đó đến phòng tiêm vác xin dại tại viện Pasteur hoặc các trung tâm y tế dự phòng quận/huyện để khám và nhận điều trị dự phòng bằng kháng huyết thanh hoặc vắc xin dại theo thường quy.
Chú ý theo dõi triệu chứng biểu hiện của súc vật cắn người từ 7 – 15 ngày. Mục đích để phát hiện những dấu hiệu nghi ngờ bệnh dại. Súc vật cắn người này không được giết chết. Nếu súc vật bị nhiễm virus dại trong thời gian cắn người thì những triệu chứng dại ở súc vật đó sẽ xuất hiện khoảng 5 -7 ngày sau khi cắn. Những biểu hiện ở súc vật như thay đổi tính tình, chó dễ bị kích động hoặc liệt và chết.
Tìm hiểu thêm về bệnh dại và cách phòng ngừa
Bệnh dại là bệnh nhiễm vi rút cấp tính của hệ thống thần kinh Trung ương, lây truyền từ động vật sang người chủ yếu qua vết cắn của động vật mắc bệnh dại. Bệnh dại trên người có thể phòng và điều trị dự phòng bằng vắc xin và huyết thanh kháng dại. Khi đã lên cơn dại, kể cả động vật và người đều dẫn đến tử vong.
Tiêm phòng bệnh dại tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Lạng Sơn
Nguồn bệnh: Động vật gây bệnh chủ yếu là chó (trên 90%), mèo và động vật hoang dã như chó rừng, chồn, cầy, cáo, rơi và một số loài động vật có vú khác.
Thời kỳ ủ bệnh: Thường thời gian ủ bệnh dại ở người từ 2-8 tuần, có thể ngắn khoảng 10 ngày hoặc dài trên một năm hoặc hai năm. Thời gian ủ bệnh phụ thuộc vào số lượng vi rút xâm nhập vào cơ thể, sự nặng nhẹ của vết thương, khoảng cách xa gần từ vết thương đến não bộ. Vết thương nặng, gần thần kinh trung ương thì thời gian ủ bệnh ngắn.
Thời kỳ lây truyền: Ở chó và mèo thường từ 3-10 ngày trước khi có dấu hiệu lâm sàng và trong suốt thời kỳ súc vật bị bệnh. Tuy nhiên có một số trường hợp chó, mèo có thể ủ bệnh trên 10 ngày đến 2 tháng trước khi phát bệnh và chết.
Xem Thêm : Tổng hợp 8 nhược điểm của ngành quản trị khách sạn tốt nhất, đừng bỏ lỡ
Phương thức lây truyền: Bệnh dại được lây truyền qua nước bọt của động vật mắc bệnh bài tiết ra ngoài và theo vết cắn, vết liếm, vết xước trên da xâm nhập vào cơ thể, từ đó theo dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương gây tổn thương thần kinh trung ương.
Triệu chứng của bệnh dại bao gồm:
Giai đoạn tiền triệu chứng: Thường kéo dài 1- 4 ngày; Biểu hiện: cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, tê và đau tại vết thương nơi vi rút xâm nhập.
Giai đoạn viêm não: dấu hiệu bệnh dại thường là mất ngủ, tăng cảm giác kích thích như: sợ ánh sáng, tiếng động, sợ nước. Ngoài ra, còn có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, hạ huyết áp… Nặng có thể liệt từ tay, chân đến các cơ, rối loạn tiểu tiện, đại tiện, khi liệt lan đến cơ hô hấp thì bệnh nhân sẽ tử vong. Bệnh dại ở người thường kéo dài từ 2- 6 ngày, đôi khi lâu hơn.
Xử lý vết thương khi bị động vật cắn, liếm, cào
Vết thương cần được rửa ngay với xà phòng và nước sạch dưới vòi chảy liên tục trong thời gian khoảng 10-15 phút, sau đó sát khuẩn bằng cồn 70 độ hoặc cồn Iod hoặc các chất sát khuẩn khác để làm giảm thiểu lượng virus dại tại vết cắn. Không chà sát, không nặn máu để tránh tổn thương rộng hơn. Đây là phương pháp sơ cứu hiệu quả nhất để chống lại bệnh dại. Sau đó cần đưa ngay người bị thương đến cơ sở y tế gần nhất để được tư vấn và điều trị càng sớm càng tốt.
Khi xử lý vết thương do bị động vật cắn người dân cần chú ý: Không băng kín, không làm dập nát thêm vết thương hoặc làm tổn thương rộng hơn, tránh khâu kín ngay vết thương; Không chữa bệnh dại bằng Đông y hay thuốc Nam.
Các biện pháp dự phòng, chống bệnh dại: Để chủ động phòng chống bệnh dại, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
* Đối với vật nuôi: Tiêm phòng đầy đủ cho chó, mèo nuôi và tiêm nhắc lại hàng năm theo khuyến cáo của ngành thú y; Không thả rông chó, mèo phải xích, nhốt; nếu chó ra đường phải được rọ mõm. Diệt ngay chó và động vật lên cơn dại hoặc nghi mắc bệnh dại trong khu vực ổ dịch.
* Đối với con người:
Không đùa nghịch, trêu chọc chó, mèo; Người bị chó, mèo cắn phải đi tiêm vắc xin phòng sớm và đầy đủ các mũi tiêm theo chỉ dẫn của bác sĩ;
Tùy theo tình trạng động vật, tình trạng vết cắn, vị trí vết cắn và tình hình bệnh dại trong vùng mà người bệnh được dùng vắc xin hoặc dùng vắc xin kết hợp với huyết thanh kháng dại. Việc khám và điều trị dự phòng dại phải thực hiện càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ sau khi bị cắn. Hiệu quả điều trị dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng vết cắn, vị trí cắn, thời gian từ khi bị cắn đến khi được tiêm vắc xin, loại vắc xin, đáp ứng miễn dịch của người bệnh.
Trong vòng 6 tháng sau tiêm vắc xin, người dân không sử dụng bất kỳ các loại đồ uống có cồn như rượu, bia … đặc biệt có một số thuốc gây ảnh hưởng đến quá trình hình thành kháng thể kháng vi rút dại của cơ thể, do đó trong thời gian này khi đi khám chữa bệnh cần báo cho bác sỹ biết việc mình đang tiêm phòng dại.
, Bác sỹ Dương Anh Dũng, Trưởng khoa Phòng chống bệnh truyền nhiễm của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cho biết: Từ đầu năm 2020 đến nay 16/9/2020, trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chưa ghi nhận ca bệnh dại nào, do cộng đồng nhận thức về sự nguy hiểm bệnh dại rất cao, những người khi bị chó, mèo cắn, cào xước da là khẩn trương đến ngay cơ sở y tế tiêm phòng vắc xin dại.
Theo báo cáo sự phối hợp giữa Cục Thú y và Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, thực hiện từ 15/5 đến 31/8/2020 về xét nghiệm trên đàn chó 44 con của 19 thôn/13 xã/06 huyện thì có 20 mẫu dương tính vi rút dại (chiếm 45%), 24 mẫu âm tính. Như vậy, nguy cơ măc bệnh dại rất cao khi bị chó, mèo cắn, cào xước tổn thương da. Do vậy, khuyến mọi người dân:
– Khi bị chó, mèo cắn phải khẩn trương đến ngay cơ sở y tế để tiêm vắc xin và huyết thanh kháng dại. Tiêm vắc xin dại cho cả người và động vật (chủ yếu là chó) là biện pháp hiệu quả và quan trọng để phòng chống bệnh dại.
– Mỗi chúng ta cần phát huy hơn nữa ý thức cá nhân cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng. Trong những dịp sum vầy vui vẻ, nhắc nhở nhau về tính chất nguy hiểm của bệnh dại, cách phòng tránh bệnh dại và cùng thực hiện cam kết 5 không: Không nuôi chó, mèo mà không tiêm phòng dại; Không nuôi chó, mèo chưa khai báo với chính quyền địa phương; Không nuôi chó, mèo thả rông; Không để chó, mèo cắn người; Không nuôi chó, mèo gây ô nhiễm môi trường.
Phạm Tiến Dũng – Trung tâm KSBT
Nguồn: https://quatangtiny.com
Danh mục: Blog