Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy (Dàn ý + 5 mẫu), Mời các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo bài văn mẫu: Phân tích lý tưởng sống của thanh niên
Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ cũng là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.
Sau đây, mời các bạn học sinh lớp 11 cùng tham khảo dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu lớp 11: Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy của Tố Hữu được chúng tôi tổng hợp và đăng tải ngay sau đây. Mời ban đọc cùng tham khảo và tải tại đây.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy
- 2 Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 1
- 3 Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 2
- 4 Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 3
- 5 Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 4
- 6 Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 5
Dàn ý phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy
I. Mở bài:
– Giới thiệu những nét khái quát nhất về tác giả Tố Hữu và bài thơ “Từ ấy”.
– Giới thiệu khái quát vấn đề cần nghị luận: Lý tưởng của thanh niên ngày nay thông qua bài thơ “Từ ấy”.
II. Thân bài:
* Lý tưởng là gì?
– Lý tưởng là những mục đích sống tốt đẹp, là lẽ sống, mục đích phấn đấu của mỗi người và từng ngày, từng giờ họ đang không ngừng cố gắng, nỗ lực để đạt được nó.
– Lí tưởng luôn có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với tất cả mọi người, trong mọi thời đại.
* Lý tưởng của thanh niên ngày nay qua bài thơ “Từ ấy”
– Lí tưởng của thanh niên thể hiện rõ nét ở sự giác ngộ lý tưởng của người thanh niên trẻ tuổi.
+ Từ ấy chính là mốc thời gian, là giây phút hạnh phúc khi tác giả đón nhận được ánh sáng lý tưởng của Đảng, được đứng vào hàng ngũ của Đảng.
+ Hình ảnh “mặt trời chân lý” là một hình ảnh ẩn dụ, Đảng chính là mặt trời, là ánh sáng tuyệt diệu soi sáng, dẫn đường, chỉ lối cho giai cấp vô sản, cho nhân dân đến những ngày tháng tươi đẹp.
+ Giây phút ấy, với người thanh niên hiện lên bao nỗi niềm rạo rực lên niềm sung sướng, hạnh phúc đến khôn nguôi.
– Lí tưởng ấy đầu tiên được thể hiện ở lẽ sống tốt đẹp, sống chan hòa, đoàn kết với mọi người, hòa cái tôi cá nhân vào trong cái ta chung của cả cộng đồng, dân tộc.
+ Động từ “buộc” đã thể hiện sự tự nguyện gắn bó, thắt chặt với những người xung quanh.
+ Các từ láy “trang trải”, “gần gũi” đã thể hiện sự mở lòng, mở rộng trái tim, vòng tay của mình để thấu hiểu, để cảm thông, để gắn bó với mọi người.
– Lí tưởng của người thanh niên qua bài thơ “Từ ấy” còn được thể hiện ở lối sống yêu thương đồng bào, không phân biệt giai cấp, dân tộc.
+ Sử dụng cấu trúc khẳng định “đã là” đã thể hiện ý thức tự giác và sự chắc chắn trong tác giả.
+ Sử dụng phép liệt kê “con của vạn nhà’, “em của vạn kiếp phôi pha”, “anh của vạn đầu em nhỏ” kết hợp với điệp từ là và các từ ngữ xưng hô “con”, “em”, “anh”, nhà thơ đã cụ thể hóa mối quan hệ của mình với các thành viên trong gia đình.
III. Kết bài:
– Khái quát lại vấn đề nghị luận và nêu cảm nhận của bản thân.
Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 1
Tố Hữu là một trong số những cây bút tiêu biểu của nền văn học Việt Nam nói chung và thơ ca cách mạng nói riêng. Suốt cả cuộc đời gắn bó với cách mạng, những trang viết của Tố Hữu luôn ánh lên những tư tưởng lớn, tình cảm và lẽ sống lớn. Bài thơ “Từ ấy” ra đời năm 1938 là một trong số những sáng tác xuất sắc nhất của ông. Bài thơ đã thể hiện rõ lý tưởng của người thanh niên ngày nay.
Như chúng ta đã biết, lý tưởng là những mục đích sống tốt đẹp, là lẽ sống, mục đích phấn đấu của mỗi người và từng ngày, từng giờ họ đang không ngừng cố gắng, nỗ lực để đạt được nó. Lí tưởng luôn có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với tất cả mọi người, trong mọi thời đại.
Từ cách hiểu, cách lý giải đó có thể dễ dàng nhận thấy bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu đã thể hiện một cách rõ nét, chân thực và sâu sắc lí tưởng sống tốt đẹp của thanh niên ngày nay.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy chính là mốc thời gian, là giây phút hạnh phúc khi tác giả đón nhận được ánh sáng lý tưởng của Đảng, được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Hình ảnh “mặt trời chân lý” là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo và giàu ý nghĩa. Nếu mặt trời của thiên nhiên chiếu ánh sáng tới muôn loài, muôn vật thì Đảng chính là mặt trời, là ánh sáng tuyệt diệu soi sáng, dẫn đường, chỉ lối cho giai cấp vô sản, cho nhân dân đến những ngày tháng tươi đẹp. Giây phút ấy, với người thanh niên, Đảng chính là lí tưởng, là ánh sáng và trong nỗi niềm rạo rực lên niềm sung sướng, hạnh phúc đến khôn nguôi.
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Với hình ảnh so sánh độc đáo, dường như hai câu thơ đã làm bật nỗi niềm sung sướng, niềm vui như đã hóa thành âm thanh, màu sắc của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của đời mình.
Không chỉ xác định được lí tưởng của mình, người thanh niên trong “Từ ấy” của Tố Hữu còn nỗ lực biến lý tưởng ấy thành hiện thực, thành nhận thức của bản thân. Lí tưởng ấy đầu tiên được thể hiện ở lẽ sống tốt đẹp, sống chan hòa, đoàn kết với mọi người, hòa cái tôi cá nhân vào trong cái ta chung của cả cộng đồng, dân tộc.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Tố Hữu đã thể hiện lẽ sống gắn với cộng đồng, với mọi người bằng hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị và sức gợi. Động từ “buộc” đã thể hiện sự tự nguyện gắn bó, thắt chặt với những người xung quanh. Cùng với đó, tác giả còn sử dụng các từ láy “trang trải”, “gần gũi” đã thể hiện sự mở lòng, mở rộng trái tim, vòng tay của mình để thấu hiểu, để cảm thông, để gắn bó với mọi người. Như vậy, trong lí tưởng sống của mình, người thanh niên đã hòa vào cái chung của cộng đồng, để đoàn kết, để yêu thương.
Thêm vào đó, lí tưởng của người thanh niên qua bài thơ “Từ ấy” còn được thể hiện ở lối sống yêu thương đồng bào, không phân biệt giai cấp, dân tộc.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ
Từ tình yêu thương, muốn gắn bó với nhân dân lao động, tác giả đã biến mình thành một người con trong đại gia đình lao động ấy. Với việc sử dụng cấu trúc khẳng định “đã là” đã thể hiện ý thức tự giác và sự chắc chắn trong tác giả. Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn cụ thể hóa mối quan hệ của mình với các thành viên trong gia đình thông qua việc sử dụng phép liệt kê “con của vạn nhà’, “em của vạn kiếp phôi pha”, “anh của vạn đầu em nhỏ” kết hợp với điệp từ là và các từ ngữ xưng hô “con”, “em”, “anh”.
Như vậy, có thể thấy, bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu đã thể hiện một cách chân thực và rõ nét những lí tưởng của thanh niên trong mọi thời đại. Đồng thời, qua đó cũng gợi lên trong chúng ta nhiều bài học đáng suy ngẫm về lí tưởng sống, về mục đích sống và sự nỗ lực, cố gắng của bản thân.
Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 2
Tố Hữu vừa là nhà cách mạng quả cảm, một Đảng viên ưu tú, một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của nhân dân trong những năm kháng chiến chống Pháp. Thơ ông giản dị nhưng nồng nàn tinh thần cách mạng và lòng tự hào dân tộc. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1938 đã tỏ rõ lí tưởng Đảng cao đẹp của người thanh niên trẻ tuổi trẻ lòng ấy.
Người thanh niên này được giác ngộ lý tưởng Đảng từ khi còn rất sớm, năm mười tám tuổi đã được kết nạp Đảng, với một độ tuổi mang trong mình nhiều nhiệt huyết can trường của tuổi trẻ, anh đã đón nhận ánh sáng của cách mạng như đón những luồng ánh sáng của thần linh:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
“Từ ấy” ở đây chính là từ khi ánh sáng cách mạng về với nhân dân, xóa tan đi mọi sương mờ chính trị trước đó. Từ đây nhân dân hiểu được cách mạng, tìm được chỗ dựa tinh thần cho niềm tin vào công cuộc giải phóng dân tộc và được sống trong không khí hào hứng xung trận của thời đại “vì dân quên mình”. Ánh sáng ấy bắt nguồn từ mặt trời chân lý, đó là Đảng, là mặt trời của giai cấp vô sản, mặt trời vĩnh cửu của nhân dân, mặt trời chói chang cái nắng hạ ấm áp và hừng hực lửa quyết chiến quyết thắng. Trong tim của người thanh niên trẻ chỉ có tràn đầy một sinh lực duy nhất đó là lí tưởng Đảng, chính lý tưởng đấy là động lực và niềm tin để anh trải lòng với cuộc đời và yêu thêm cuộc sống, để mà:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Hẳn lúc này, trong lòng người thanh niên đang rạo rực những tình cảm mới, xanh tươi, thơm mát, rộn ràng. Đâu còn cái u sầu của lớp thanh niên trí thức thời đại đang loay hoay không biết kiếm tìm đâu ra còn đường đúng đắn nữa mà chỉ còn một tâm hồn xốn xang những cảm xúc yêu đời, hạnh phúc đắm mình trong ánh sáng của Đảng. Ánh sáng ấy đã khiến trong người thanh niên có những suy nghĩ tươi đẹp, đó là lí tưởng sống cao đẹp, lẽ sống lớn với tình cảm lớn:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Từ “buộc” được sử dụng thật tinh tế. Có lẽ sợi dây liên kết giữa mọi người giờ đây chính là sợi dây đồng chí hướng của Đảng của cách mạng, tâm hồn của con người đã không còn thấy đâu cái vị kỷ cá nhân nữa mà hoàn toàn được “trang trải” rộng rãi khắp nơi nơi, sống chan hòa, yêu thương, để đoàn kết “thêm mạnh khối đời”. Đảng Cộng Sản là sự đoàn kết của giai cấp vô sản, lí tưởng cao đẹp của những con người yêu nước, được giác ngộ điều này, người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi đã tự coi mình là:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Ở khổ thơ cuối ta nhận ra sự từ chối phân biệt giai cấp trong một tâm hồn tràn ngập tình thân. Những từ: “con”, “em”, “anh” được thốt ra hết sức thân mật đã đánh tan rào cản giai cấp. Dưới sự bảo bọc của Đảng, đồng bào là anh em máu thịt một nhà, không phân biệt ai với ai cần yêu thương nhau, chở che, đùm bọc lẫn nhau, thậm chí không ngại hy sinh vì bảo vệ dân tộc.
Giọng thơ nở tràn như lời thiết tha tâm tình với ý tứ xô bồ, giàu lí tưởng như ngọn lửa đang thôi thúc trong tim của người thanh niên Cộng sản. Người thanh niên ấy từ nay đã hiểu hết ánh sáng cao cả mà Đảng muốn trảo chuyền, anh đã coi mình là người của toàn dân, coi đồng bào là máu thịt tình thân, coi giai cấp đã không còn tồn tại trên đời, thứ duy nhất tồn tại là lí tưởng sống cao đẹp, lẽ sống lớn vì một cộng đồng dân tộc. Với một tấm lòng tràn đầy nhiệt huyết và năng lượng bùng cháy khát khao sống hết mình vì cuộc đời chung như vậy, có lẽ cái chết đối với những người thanh niên như vậy chỉ nhẹ tựa lông hồng khi hồn họ đã buộc với nhân dân, buộc với cách mạng, hy sinh cho tổ quốc đối với họ là tự hào, là lẽ sống. Lí tưởng lớn ấy đã thôi thúc những tinh thần thanh niên thời đại xung trận, đem hết tinh hoa, trí lực của mình vào công cuộc giải phóng đất nước và là niềm tự hào mãi mãi cho thế hệ sau.
Lí tưởng sống của người thanh niên thật cao cả, lớn lao, là lí tưởng muôn đời không phai và đây chính là sức mạnh vô cùng nòng cốt trong cuộc chiến ác liệt giữa ta và địch. Có những thanh niên giàu lí tưởng như vậy, lí tưởng của toàn dân tộc ta mới rực sáng như ánh mặt trời, đẩy tan mọi bóng tối của quân xâm lược.
Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 3
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu luôn gắn liền với sự nghiệp cách mạng và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng Việt Nam. Bài thơ Từ ấy rút từ tập thơ cùng tên của tác giả ghi nhận những kỉ niệm đáng nhớ với những cảm xúc, suy tư. sâu sắc của nhà thơ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Niềm vui, niềm cảm xúc chân thành của Tố Hữu gợi cho người đọc cùng phấn đấu vì một lý tưởng đẹp.
Tố Hữu viết Từ ấy năm 1937, khi nhà thơ được kết nạp Đảng. Với Tố Hữu, được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được giác ngộ lý tưởng cộng sản là một niềm vui niềm hạnh phúc lớn:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Từ ấy đánh dấu thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu. Là một thanh niên. Tố Hữu đã có sự gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Với Tố Hữu phút giây ấy, ánh sáng cách mạng bùng cháy mãi và ngày một sáng rực hơn. Nó là tia nắng hạ. là mặt trời chân lí chói qua tim. Hình ảnh “Mặt trời chân lí chói qua tim” là một ẩn dụ tượng trưng cho lý tưởng cộng sản. Nhà thơ ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lý – nguồn ánh sáng vĩ đại làm bừng sáng cả trí tuệ và trái tim nhà thơ.
Được cách mạng soi đường, chỉ lối, Tố Hữu đã tự nguyện gắn bó với nhân dân, với những người cần lao:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Nhà thơ “buộc lòng” mình với mọi người để sống cuộc sống cùng mọi người, đế truyền cho họ ngọn lửa cách mạng. Sự lặp lại cấu trúc trong khổ thơ đã diễn tả sự gắn bó chân thành của người thanh niên cộng sản với nhân dân lao động. Bài thơ ngắn nhưng đã thể hiện được tất cả niềm vui của tác giả khi được gặp gỡ ánh sáng lý tưởng của Đảng cùng sự hoà mình vào cuộc sống của nhân dân. Và càng sâu sắc hơn, bài thơ còn gợi cho ta suy nghĩ về lí tưởng sống của thanh niên hiện nay.
Lí tưởng là mục đích sống cao đẹp và hoài bão lớn lao mà con người phấn đấu để hướng tới. Lí tưởng sống có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với mỗi người, đặc biệt là thanh niên hiện nay. Vì thanh niên là lực lượng quan trọng, là cánh tay đắc lực, là đội hậu vệ tiên phong của Đảng. Thanh niên sống có lí tưởng nghĩa là thanh niên đã xác định được con đường đi đúng đắn cho mình và có ý thức, trách nhiệm đối với đất nước.
Khi đất nước còn chìm trong đêm dài nô lệ, thì lí tưởng sống cao đẹp nhất của thanh niên là “đấu tranh giải phóng dân tộc”. Điều này lí giải vì sao, suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc có biết bao nhiêu thanh niên đã xả thân vì lý tưởng cao đẹp của đất nước. Người này ngã xuống, người sau lại đứng lên kế tục sự nghiệp cách mạng. Nhưng khi đất nước hoà bình thì lý tưởng cao đẹp nhất của thanh niên lại là xây dựng và bảo vệ đất nước. Muôn xây dựng và bảo vệ đất nước, mỗi thanh niên phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ về mọi mặt, trau dồi phẩm chất đạo đức, mạnh dạn tiếp thu cái mới, cái tiến bộ; tích cực đấu tranh với cái cũ, cái lạc hậu, cái xấu, cái ác… Có như vậy thanh niên mới có thể hội nhập được với thế giới, kiên định được mục tiêu mà mình đã lựa chọn.
Nhà văn Lép Tôn-xtôi từng nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” để nhắc nhở mỗi người hãy biết xác định lý tưởng sống cho mình để có cuộc sống đúng với ý nghĩa của nó. Có lí tưởng sống cao đẹp, mỗi người, đặc biệt là thanh niên sẽ có những đóng góp tích cực, có ý nghĩa lớn lao đối với cộng đồng.
Tôi đã từng ngưỡng mộ trước nhiều thế hệ thanh niên dám xả thân vì nghĩa lớn. Tôi cũng đã từng ngưỡng mộ trước nhiều thanh niên tài năng vắt trí tuệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôi cũng đã từng ngưỡng mộ trước những thanh niên dù có số’ phận bất hạnh nhưng vẫn sống vì lý tưởng cao đẹp như anh Nguyễn Ngọc Sơn, tác giả cuốn nhật kí Xin đừng khóc nữa mẹ ơi, hay anh Nguyễn Công Hùng dù tàn tật nhưng vẫn đi lên bằng tài năng, trí óc của mình… Vậy lí tưởng sống có vai trò như thế nào đối với thanh niên, với những người còn thiếu kiên định?
Lí tưởng sống không chỉ giúp thanh niên hiểu và thực hiện trách nhiệm của mình đối với đất nước mà còn định hướng con đường đi cho thanh niên. Khi xác định được lí tưởng sống đẹp, bạn sẽ dám chinh phục những đỉnh cao phía trước, đẩy lùi được con người bé nhỏ của mình, chiến thắng sự tầm thường để hướng tới những điều tốt đẹp hơn.
Đại đa số thanh niên hiện nay, nhờ sự giáo dục tốt, từ gia đình, nhà trường và xã hội đã xác định được lí tưởng cho riêng mình. Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ thanh niên vẫn chưa biết thế nào là lí tưởng sống, chưa tìm cho mình con đường đi đúng đắn trong tương lai. Họ sống buông thả, sống ăn chơi, đua đòi, không lo học hành nên rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội. Họ cần được sự quan tâm hơn của gia đình và xã hội, giúp họ có những định hướng tốt cho tương lai.
Hơn ai hết, là những thanh niên thế hệ Bác Hồ. chúng ta phải xác định cho mình mục đích, lí tưởng sống cao đẹp. Bởi “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì lớn lao nếu mục đích của anh tầm thường” (Đi-đơ-rô).
Tóm lại, qua bài thơ Từ ấy của Tố Hữu ta không chỉ hiểu được niềm vui, niềm hạnh phúc lớn lao của người thanh niên yêu nước khi được lý tưởng cách mạng soi đường mà từ bài thơ ta có cái nhìn đúng đắn hơn về lí tưởng của thanh niên hiện nay. Trên cơ sở đó mỗi người chúng ta sẽ biết xác định cho mình lí tưởng sống cao đẹp nhất, phấn đấu để thực hiện được lí tưởng mà mình đã lựa chọn.
Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 4
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là “lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng”. Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản, được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sống cách mạng và chính trị, thời sự đất nước. Các tác phẩm chính: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa,…
Từ ấy (1937 – 1946) là chặng đường đầu của thơ Tố Hữu. Tập thơ gồm 3 phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm,…
Tâm trạng nhà thơ có sự vận động qua ba khổ thơ: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng (khổ 1); những nhận thức mới về lẽ sống (khổ 2); sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.
Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
Hai câu thơ mở đầu trong khổ thơ 1 được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, được giác ngộ lý tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tố Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí – một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian ánh sáng, hơi ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ “bừng”, (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột), “chói” (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm.
Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, còn gì quý giá hơn khi có một lý tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời, chính lý tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn. Tố Hữu là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sống, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.
Ở khổ thơ thứ hai, trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa “cái tôi” cá nhân và” cái ta” chung của mọi người. Với động từ “buộc”, câu 1 là một cách nói quá thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân để sống chan hòa với mọi người (“trăm nơi” là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Với từ “trang trải” ở câu 2, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ở câu 4, “khối đời” là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ được nhận lên gấp bội.
Tóm lại, Tố Hữu đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
Trước khi được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỷ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ “là” cùng với từ “con” “em”, “anh” và số từ ước lệ “vạn” (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những “kiếp phôi pha” (những người đau khổ bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ “không áo cơm cù bất, cù bơ” (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,…).
Đến đây có thể thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ: đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.
Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lý tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu. Từ ấy đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu và trong sự nghiệp thơ ca của ông. Bài thơ không ngừng hấp dẫn độc giả các thế hệ.
Phân tích lý tưởng sống của thanh niên qua bài Từ ấy – Mẫu 5
Bài thơ “Từ ấy” – Tố Hữu được viết năm 1938, bài thơ là tiếng lòng của một người cách mạng trên con đường đi tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của Đảng, của Bác. Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc dâng trào và sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của chính tác giả.
Bài thơ được viết trong khoảng thời gian (1937 – 1946), đây là thời gian đầu Tố Hữu tham gia cách mạng, trở thành một người chiến sĩ. “Từ ấy” là bài thơ được viết trong giai đoạn này, cũng là bài thơ đánh dấu sự trưởng thành trong tâm hồn tác giả.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
“Từ ấy” chỉ một mốc thời gian, mốc son đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc đời Tố Hữu khi bắt gặp được lý tưởng sống cho chính cuộc đời mình. Đó còn là tiếng reo hò sung sướng tột bậc, niềm hạnh phúc ngập tràn khi trở thành một người cách mạng, được ánh sáng của Đảng và Bác dẫn đường. Nhà thơ đã miêu tả nó như “nắng hạ”, như ánh sáng sáng rực rỡ, chói chang của mùa hè, soi tỏa vào trong chính trái tim đang sôi sục tuổi trẻ của nhà thơ. Ánh sáng đó được ẩn dụ như hình ảnh “mặt trời”. Nếu như mặt trời thật đem lại ánh sáng ấm áp cho vạn vật, là nguồn sống cho muôn loài, thì “mặt trời chân lý”, mặt trời của Đảng xuất hiện đã xua tan màn sương mù tối tăm, đem lại một lẽ sống mới không chỉ cho chính tác giả, còn cho cả dân tộc Việt Nam, đang chìm đắm trong đói khổ với tư tưởng tiểu tư sản. Tố Hữu đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả một cách mạnh mẽ ảnh hưởng to lớn cho ánh sáng của Đảng khiến cho người cách mạng như bừng tỉnh sau những ngày tăm tối.
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sự chuyển biến sâu sắc đó, như một sức mạnh kỳ diệu, nó được bắt nguồn từ chính con người tác giả khi được Đảng soi đường, chỉ lối. Khiến cho tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như rộn ràng, tràn đầy sức sống. Nhà thơ đã so sánh nó như “một vườn hoa lá” với đủ sắc hương của đất trời, cả sự sống đang sinh sôi, nảy nở, nhảy múa hát ca, rộn ràng tiếng chim hót. Dường như sau những ngày tăm tối, không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn thấy tương lai, cùng với khi huyết của tuổi trẻ mong muốn được thay đổi, được cống hiến cho đất nước đánh đuổi giặc ngoại xâm thì giờ đây khi có “mặt trời chân lý” của Đảng dẫn dắt làm cho tâm hồn nhà thơ trẻ lại, sục sôi ý chí đấu tranh, khơi dậy sức sống và cảm hứng sáng tạo mới cho tác giả
Ở khổ thơ thứ hai, từ sau khi gặp được chân lý của cuộc đời mình nhà thơ đã có những sự thay đổi đặc biệt trong nhận thức, trong con đường làm cách mạng của mình
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
ần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Trước khi được trở thành một nhà cách mạng, được giác ngộ lý tưởng mới thì Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Với tư tưởng tiểu nông hạn hẹp thì giờ đây nhà thơ đã có cách nhìn nhận mới trong suy nghĩ. Nhà thơ đã bỏ qua sự hẹp hòi của tư tưởng cũ, vượt qua những rào cản định nghĩa của giai cấp để thấu hiểu quần chúng khổ lao. Đây là không phải là sự ép buộc mà nhà thơ đã tự nguyện “buộc”, tự nguyện gắn mình với “mọi người”, với những tầng lớp bần cùng của xã hội. Đem trái tim mình hòa cùng nhịp đập, cùng đau tiếng đau của đồng bào, cùng chia sẻ những mất mát, đắng cay ngọt bùi mà nhân ta đang chịu đựng. Nhà thơ mong muốn gây dựng những con người đang chịu cảnh nô lệ trở thành “khối đời” một khối thống nhất, như anh em ruột thịt, tạo nên một sức mạnh tập thể, không gì có thể đàn áp được
Bốn câu thơ cuối thể hiện rõ tấm lòng, sự đồng cảm của chính nhà thơ, lời khẳng định trong con đường làm cách mạng
Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Nhà thơ đã sử dụng điệp từ, cùng với những “con, em, anh”, như một sự khẳng định chắc chắn sự gắn bó giữa mình với nhân dân lao động. nhà thơ như một thành viên trọng gia đình của mọi tầng lớp trong xã hội. Tố Hữu hòa mình cùng với nhân dân. Nhà thơ tự nguyện làm “con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ”, nguyện mang cả cuộc đời mình để đem lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi trong tuyệt vọng, những đứa bé tội nghiệp. Qua đó, ta còn cảm nhận được sự căm ghét sâu sắc trong lòng tác giả đối với những cảnh bất công trong xã hội, chính những mảnh đời đáng thương đó mà nhà thơ đi theo cách mạng, đi theo tiếng gọi của tổ quốc, hăng say chiến đấu, hăng say sáng tác
Bài thơ là tiếng lòng, tiếng reo mừng sung sướng của không chỉ tác giả mà đại diện cho thế hệ trẻ của đất nước lúc bấy giờ khi tìm thấy lý tưởng của Đảng. Là sự nhận thức mới, cách nghĩ mới, đem tuổi trẻ cống hiến cho đời và cho tổ quốc.