Văn mẫu lớp 10: Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ gồm 2 dàn ý chi tiết
Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ giúp chúng ta cảm nhận được bao cảm xúc dồn nén của người chinh phụ. Mỗi câu thơ đều khiến người đọc cảm thấy đang lắng nghe người chinh phụ giãi bày tâm trạng cô đơn, đau đớn, và bày tỏ nỗi nhớ chồng nơi biên cương xa xôi.
Qua 8 câu thơ cuối tác giả đã nói hộ những khao khát, mơ ước giản dị, nhỏ nhoi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến – ước mong một hạnh phúc gia đình, được đoàn tụ, được yêu thương. Vậy dưới đây là 2 dàn ý và 4 bài văn mẫu hay nhất phân tích 8 câu cuối Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, mời các bạn lớp 10 cùng theo dõi tại đây.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu cuối
- 2 Dàn ý 8 câu cuối Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
- 3 Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 1
- 4 Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 2
- 5 Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 3
- 6 Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 4
Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu cuối
a) Mở bài
– Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm:
- Đặng Trần Côn (chưa rõ năm sinh năm mất) sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, là người có cống hiến to lớn đối với nền văn học Việt Nam.
- Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) là người có công với nền văn học quốc âm, một nữ sĩ nổi tiếng với nhiều giai thoại về khả năng xuất khẩu tài tình.
– Giới thiệu tác phẩm và đoạn trích:
- Chinh phụ ngâm là tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn, ra đời trong khoảng năm 1741 giai đoạn sơ kỳ Cảnh Hưng và về sau được nhiều người dịch ra thơ Nôm.
- Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích từ câu 193 đến câu 220 của tác phẩm Chinh phụ ngâm, trong đó 8 câu thơ cuối đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của toàn bộ tác phẩm.
b) Thân bài
* Khái quát về đoạn trích
– Hoàn cảnh sáng tác: Đầu đời vua Lê Hiền Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long, triều đình cất quân đánh dẹp. Đặng Trần Côn “cảm thời thế mà làm ra”.
– Giá trị nội dung: Đoạn trích miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ khát khao được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
* Phân tích 8 câu thơ cuối
Luận điểm 1: Ước muốn của người chinh phụ
– Hình ảnh thiên nhiên:
- Gió đông: gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống, gió báo tin vui, thể hiện sự sum họp, đoàn viên.
- Non Yên: Điển tích chỉ núi Yên Nhiên, nơi biên ải phương bắc xa xôi – nơi người chồng đang chinh chiến.
- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi lại thất vọng)
-> Ước muốn của người chinh phụ gửi gắm niềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gió xuân mang đến nơi chiến trường xa xôi để người chinh phu thấu hiểu và trở về cùng nàng.
=> Không gian vô tận, mênh mông, không giới hạn, không chỉ là không gian vô tận ngăn cách hai vợ chồng, mà còn là nỗi nhớ không nguôi, không tính đếm được của người chinh phụ, là tình yêu thương của người vợ nơi quê nhà.
Luận điểm 2: Nỗi nhớ của người chinh phụ
– Không gian:
- “Non yên – non yên, trời – trời” -> thủ pháp điệp liên hoàn nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, trắc trở không gì có thể khỏa lấp nỗi nhớ vời vợi, đau đáu trong lòng người chinh phụ.
- “thăm thẳm, đau đáu” : từ láy cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thăm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu. -> Nỗi nhớ triền miên trong thời gian vô tận được cụ thể hóa bằng không gian xa vời, khắc họa nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc.
- “Đường lên bằng trời”: Xa vời dường như không có điểm cuối
=> Nhấn mạnh sự xa cách trùng khơi của người chinh phụ, thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Sắc thái nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.
Luận điểm 3: Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh
– “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau
– Cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.
- “Cành cây sương đượm”: Gợi sự buốt giá, lạnh lẽo
- “Tiếng trùng mưa phun”: Sự ảo não, hoang vắng, nghe được cả tiếng côn trùng kêu rả rích.
=> Tâm trạng cô đơn, thổn thức, nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy
- Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
- Nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế
- Hình ảnh ước lệ
- Giọng điệu da diết, buồn thương
c) Kết bài
- Khái quát nội dung, nghệ thuật 8 câu thơ cuối: 8 câu thơ cuối như lời gửi gắm nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi đến người chồng nơi biên ải xa xôi.
- Liên hệ với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến có chồng đi lính
Dàn ý 8 câu cuối Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
I. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ: Đặng Trần Côn là con người tài ba học giỏi và có tài văn chương. Đoạn trích này là một trong những đoạn hay và xúc động nhất của tác phẩm chinh phụ ngâm
– Khái quát tâm trạng của người chinh phụ: Tâm trạng chủ đạo buồn sầu cô đơn nhung nhớ.
II. Thân bài
a. Làm rõ niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ (8 câu cuối)
– Không gian:
- “Gió Đông, non Yên”: Hình ảnh ước lệ gợi hình ảnh người vợ phải mượn ngọn gió Đông mới có thể truyền tải được nỗi nhớ chồng.
- “Đường lên bằng trời”: Xa vời dường như không có điểm cuối
→ Nhấn mạnh sự xa cách trùng khơi của người chinh phụ, thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ.
– Tính chất nỗi nhớ
- “Thăm thẳm”: Gợi độ dài của thời gian, độ rộng của không gian, độ sâu của nỗi nhớ.
- “Đau đáu”: Trạng thái không yên lòng, quan tâm nhớ nhung mong đợi day dứt không nguôi.
Nỗi nhớ triền miên trong thời gian vô tận được cụ thể hóa bằng không gian xa vơi, khắc họa nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc.
– Tâm trạng:
- “Cảnh buồn, thiết tha lòng”: Tả cảnh ngụ tình, cảnh buồn, lòng người đau xót, quặn thắt.
- “Cành cây sương đượm”: Gợi sự buốt giá, lạnh lẽo
- “Tiếng trùng mưa phun”: Sự ảo não, hoang vắng, nghe được cả tiếng côn trùng kêu rả rích.
→ Tâm trạng cô đơn, thổn thức, nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng.
– Nghệ thuật.
- Từ láy gợi hình gợi cảm: thăm thẳm, đau đáu, thiết tha
- Hình ảnh ước lệ: gió đông, non Yên.
- So sánh: “đường lên bằng trời”
- Điệp từ: “nhớ”, “gửi”, “thăm thẳm”
- Điệp ngữ bắc cầu: “non Yên –non Yên”, “bằng trời – trời thăm thẳm”.
- Tả cảnh ngụ tình: “Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
b. Thái độ của tác giả trước tâm trạng của người chinh phụ
– Thương xót, cảm thông trước tình cảnh cô đơn sầu muộn của người chinh phụ
– Ngợi ca tấm lòng thủy chung, khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
– Lên án chiến tranh phong kiến đã gây ra cho con người bao đau khổ, mất mát
III. Kết bài
– Khái quát lại tâm trạng của người chinh phụ
– Thể hiện suy nghĩ của bản thân: Đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của họ.
Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 1
Cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến ở nước ta cuối thế khỉ XVIII đi qua để lại những đau thương mất mát không gì bù đắp được. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn trích dưới đây là một trong những đoạn tiêu biểu của bản ngâm khúc:
Khi phân tích 16 câu đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi trống trải trong lòng thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi yêu thương cho chồng. Đó là ước muốn, là khát khao được biết tin tức về chồng mình:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, kết hợp với điển cố (non Yên) để diễn tả nỗi nhớ của nhân vật. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ. Gió đông là gió mùa xuân. Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Non Yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía Bắc, nơi chiến trận đầy gian khổ. Nàng hỏi gió, nhờ gió nhưng ”có tiện” hay không? Nàng mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với người chồng ngoài biên cương. Sự cô đơn trong lòng người chinh phụ ngày càng khắc khoải. Làm sao tới được non Yên, nơi người chồng đang “nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh”? Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng”, “xin” đã giúp người đọc thấy được không gian, nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông, vô tận, khắc sâu nỗi cô đơn, hiu quạnh. Thế nhưng hiện thực thật phũ phàng, đau xót:
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Việc sử dụng từ láy “thăm thẳm” đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian, “đằng đẵng” không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ ấy được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian “đường lên bằng trời”. Có thể nói, dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn – điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận.
Sau khi hỏi “gió đông” để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng, cuối cùng đọng lại trong nàng là nỗi đau, sự tủi thân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng, với biển trời rộng lớn, xa “thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng” của người vợ trẻ. Nỗi nhớ “đau đáu” trong lòng. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ láy: “đằng đẵng” và “đau đáu”, dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn, lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể, tinh tế, sống động. Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương. Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên. Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang ngày nọ. Nhìn cành cây ướt đẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo. Nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn nhớ. Âm thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, cô đơn biết bao thương nhớ, lo lắng, buồn rầu.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa, sự mòn héo của cảnh vật, tám câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ da diết, nhớ tới thầm đau của người chinh phụ. Nỗi đau được chuyển từ lòng người sang cảnh vật. Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ. Qua đó người đọc cũng cảm nhận được một cách sâu sắc niềm thương cảm, thấu hiểu của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận.
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Đoạn trích cũng như toàn tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là tiếng kêu thương tâm của người phụ nữ nhớ chồng nơi chinh chiến. Trạng thái tình cảm của người chinh phụ một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận để biết bao chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này. Tác phẩm đã khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn học dân tộc.
Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 2
Nhắc đến Đặng Trần Côn ta thường nhớ đến ông là một nhà thơ sống vào đầu thế kỉ XVIII, mặt khác tên tuổi của ông còn gắn liền với tác phẩm nổi tiếng “Chinh phụ ngâm”. Trong đó 8 câu cuối của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của toàn bộ tác phẩm qua việc thể hiện khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ trong thời chiến loạn.
“Lòng này gửi gió Đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đền non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa với khôn thấu
Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
Nhớ hình bóng của người chồng, người chinh phụ thổn thức hướng cái nhìn nội tâm về miền biên ải xa xôi. Nếu như ở khổ trước người chinh phụ càng cảm thấy cô đơn buồn sầu tới bao nhiêu thì ở 8 câu này nỗi nhớ nhung của người chinh phụ lại càng tăng lên bấy nhiêu cùng với sự thương nhớ ấy là tâm trạng lo lắng cho số phận của người chồng nơi biên ải. Trạng thái lo lắng của người chinh phụ được tác giả thể hiện như một mạch ngầm dù người chinh phụ không nói ra nhưng ta vẫn cảm nhận được, thể hiện sự tinh tế trong miêu tả nội tâm của tác giả.
Đầu tiên tác giả đã nhân hoá gió đông như một người đưa tin đến non Yên nhằm nhấn mạnh nỗi mong nhớ lo lắng của người chinh phụ về người chồng:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Vì quá thương nhớ chồng mà người vợ phải nhún nhường xin hỏi ngọn gió để gửi tin cho chồng mình, phải nói đó là một người đưa tin đặc biệt, đưa một cái tin đặc biệt đó là cái tin về tình cảm yêu thương nhung nhớ của người vợ dành cho người chồng nơi chinh chiến. Ngoài ra cái tin ấy được đưa đến ”non Yên” – một vùng hẻo lánh xa xôi nơi người chồng đang xông pha trận mạc, khốn nguy vô cùng. Qua việc dùng bút pháp nhân hoá, hình ảnh ước lệ “non Yên”, “gió Đông”, câu hỏi tu từ tác giả mở ra không gian mênh mông gợi thêm nỗi trống trải, cô đơn cho cảnh vật từ đó xoáy sâu vào sự nhớ nhung khắc khoải, da diết của người chinh phụ.
Nỗi nhớ đằng đẵng ấy làm nàng mòn mỏi cuối cùng được nâng lên thành nỗi đau, một nỗi đau vô hình đã được tác giả tạo hình hài qua 4 câu:
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong
Cùng với nỗi nhớ thương mong đợi, từ “đằng đẵng” gợi cảm giác triền miên liên tục tưởng kéo dài đến vô tận nên được tác giả hình dung bằng sự so sánh với đường lên trời. Nỗi nhớ của người chinh phụ đằng đẵng, miệt mài, không thể nguôi ngoai và không thể dùng toán học mà cân đếm được. Nhưng trớ trêu thay khoảng cách giữa nàng và người chồng dường như khó chạm tới được, sự xa cách nghìn trùng mây. Bằng việc mở rộng không gian, ”trời thăm thẳm xa vời khôn thấu” như là lời than thở, ai oán thể hiện sự tuyệt vong của người chinh phụ sau nhiều ngày tháng mòn mỏi đợi tin chồng và chính từ đó nỗi đau xuất hiện, từ “đau đáu” biểu lộ sắc thái tăng tiến, sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa đắng cay nối dài bất tận trong lòng người chinh phụ.
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ thấy cảnh vật vô hồn, thê lương như tâm trạng của mình lúc bấy giờ:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Đó là mối quan hệ giữa con người và tâm cảnh, người vui thì tâm trạng vui thấm vào cảnh vật nhìn đâu cũng thấy toàn niềm vui chất chứa sự sống. Còn người buồn thì nỗi buồn thấm vào tâm can nên nhìn cảnh vật thấy sầu não, thê lương. Ở đây hình ảnh “cành cây sương đượm”, “tiếng trùng”, ”mưa phun” là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa sâu lắng của người chinh phụ, sự mòn héo của cảnh vật hay do lòng người mòn héo mà ra.
Tác giả đã sử dụng điêu luyện thể thơ song thất lục bát, phối hợp các hình ảnh ước lệ “non yên”, ”gió Đông”, với hình ảnh ẩn dụ “sương đượm”, ”mưa phun”, đặc biệt là sự thành công trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, tả cảnh ngụ tình tác giả đã đưa người đọc qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ trình một cách tự nhiên nhất và thể hiện ước mơ khát vọng chính đáng của họ về tình yêu và hạnh phúc.
Với cách dùng từ hình ảnh ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Đồng thời thể hiện sự thương cảm sâu sắc của tác giả với ước mơ chính đáng của người phụ nữ cũng là lời tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa là biểu hiện của cảm hứng nhân văn cho toàn đoạn trích.
Xem thêm: Phân tích tâm trạng của người chinh phụ trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 3
Chinh Phụ Ngâm là khúc ngâm não lòng mà cũng thấm đẫm cảm xúc nhất trong văn đàn văn học Việt Nam, đặc biệt 8 câu thơ cuối chính là sự dồn nén của dòng cảm xúc nhớ thương, khắc khoải vò võ ở những câu thơ đầu để càng trở nên da diết.
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Lòng này là sự cụ thể hóa nỗi nhớ và niềm thương mà người chinh phụ đang giam cầm trong lòng mình, nó cứ mãi khắc khoải và trở trăn trong lòng nhân vật trữ tình, nỗi lòng ấy bao trùm thậm chí nhấn chìm cả không gian thời gian, nhưng người chinh phụ tội nghiệp ấy còn biết làm gì khác hơn ngoài nhớ thương. Vậy nên, trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Nàng mong gió sẽ mang nỗi nhớ, mang những đợi chờ và tin yêu của nàng gửi đến người chồng ở phương xa, đang phải đối mặt với nguy hiểm muôn vàn. Nhưng tiếc thay, nơi tấm chân tình ấy gửi đến lại quá đỗi xa xôi, nên người chinh phụ tự hỏi liệu nó có thể tới được nơi, liệu nó có thể chạm thấu đến nỗi lòng người chinh phụ, các cụm từ chỉ thời gian thăm thẳm xa xăm, cùng các cảm thán từ van xin khẩn thiết càng gợi sự chua xót hơn bao giờ hết:
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Từ láy thăm thẳm như làm đầy, làm sâu, làm trầm hơn cung bậc nỗi nhớ, và càng nhấn mạnh rằng, nỗi nhớ của người chinh phụ da diết, khắc khoải thậm chí giằng xé nhường nào được so sánh cả với đường lên tới trời. Vừa là cảm xúc, vừa gợi sự mơ hồ, vô định của xúc cảm bởi tâm tưởng đang bao quanh, đang chập chờn trong cơn mê và nỗi nhớ thương. Sau khi hỏi gió đông để bày tỏ phần nào niềm mong mỏi và nỗi tủi hờn, người chinh phụ đành ngậm ngùi chốt lại trong câu độc thoại với bản thân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
Niềm thương, nỗi nhớ bao trùm, lấn chiếm cả không gian thời gian, và nhuốm màu tâm trạng vào cảnh vật. Tiếng mưa ướt lạnh, và sự vận động cô quạnh của cảnh vật một lần nữa được dịch giả Đoàn Thị Điểm khắc họa trọn vẹn, chân thực, sống động. Các từ láy đau đáu, thăm thẳm, thiết tha như những lớp sóng ngôn từ, lớp sóng lòng làm dày thêm, đậm thêm, sầu muộn thêm nỗi nhớ và tình cảnh người chinh phụ.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ ấn tượng, không chỉ mang linh hồn của cảnh vật, mà còn mang trong nó tâm trạng của nhân vật người chinh phụ, đã diễn tả xuất sắc những khoảnh khắc tâm lý buồn thương da diết khôn thấu của người chinh phụ, từ đó mở ra những dư ba trong tâm hồn người cảm nhận.
Xem thêm: Cảm nhận đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 4
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm này ra đời nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch đã xuất hiện, trong đó bản dịch chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được cho rằng hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ phong kiến thối nát. Đặc biệt, Phân tích 8 câu cuối tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy tác giả đã đi sâu vào miêu tả tình cảnh éo le của người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về. 8 câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ và khát khao lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng người chinh phụ và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết.
Bài thơ được ra đời trong đầu đời vua Lê Hiển Tông. Đó là thời đại loạn lạc, triều đình ăn chơi trác táng, tham nhũng, cuộc sống người dân vô cùng lầm than, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Triều đình phải tuyển binh lính dẹp yên quân khởi nghĩa, nên đã gây ra nhiều cảnh chia ly gia đình. Chứng kiến những điều đau đớn ấy, Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ, bày tỏ sự đồng cảm cho than phận người phụ nữ khi phải tiễn chồng ra trận, mong ngóng tin tức sống chết của chồng trong vô vọng. Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán gồm 476 câu thơ. Tác phẩm là lời độc thoại của người chinh phụ khi đối diện với sự cô đơn quạnh quẽ khi chồng đi chinh chiến ngoài biên ải xa xôi. Nếu 16 câu đầu miêu tả tâm trạng lẻ loi, cô đơn, trống trải của người chinh phụ, thì 8 câu thơ cuối lại lột tả nỗi nhớ, khát khao được biết tin chồng mình của chinh phụ.
Lòng này gửi gió Đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Hai câu thơ đầu, tác giả đã nhân hóa gió Đông như một người đưa tin đến non Yên nhằm nhấn mạnh nỗi mong nhớ lo lắng của người chinh phụ về người chồng. Vì quá nhớ nhung nên người vợ xin ngọn gió gửi nỗi lòng của mình đến non Yên – vùng hẻo lánh xa xôi, nơi người chồng đang xông pha trận mạc, nguy hiểm vô cùng. Tác giả dung bút pháp nhân hóa, hình ảnh ước lệ “gió Đông”, “non Yên” và câu hỏi tu từ “Lòng này gửi gió Đông có tiện?” đã mở ra không gian mênh mông, hiu quạnh, diễn ra sự trống trải, cô đơn của cảnh vật, càng khiến người đọc ám ảnh hơn về sự khắc khoải, da diết của người chinh phụ.
“Gió Đông” còn thể hiện sự ấm áp, sự sống, báo tin vui của sự đoàn viên, sum họp.Phải chăng, người chinh phụ đang ao ước về sự đoàn tụ, khát khao được biết tin về chồng mình nơi biên cương. Ở đây, tác giả dung từ “nghìn vàng” là hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ. Buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hy vọng rồi lại thất vọng khi trông ngóng tin tức của chồng. Hai câu thơ đầu còn bày tỏ tình cảm, tình yêu thương, lòng thủy chung son sắt của người vợ nơi quê nhà đối với chồng mình.
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong
Dù gửi tấm lòng, nhớ nhung cho gió Đông, nhưng thực tế thật phũ phàng, đau xót khi “Non Yên chẳng tới miền” nên thành nỗi đau vô hình “thăm thẳm đường lên bằng trời”. Nỗi nhớ của người chinh phụ triền miên, kéo dài đến vô tận, được so sánh với đường lên trời. Nỗi nhớ ấy không thể nguôi nguôi và không thể đo đếm được. Khoảng cách giữa người chinh phụ với người chồng “thăm thẳm xa vời khôn thấu”, chẳng thể chạm tới được, nghìn trùng mây, chẳng ai thấu, chẳng thể giãi bày cùng ai, cũng không thể chuyển đến người chồng của mình nơi phương xa. Nỗi nhớ của người chinh phụ trở thành “đau đáu”, như bị dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa cay đắng bất tận trong lòng. Cách miêu tả của tác giả khiến người đọc cảm nhận được không gian mênh mông, da diết, giống như lời than thở, ai oán, trách cứ thể hiện sự tuyệt vọng của người chinh phụ ngày ngày mòn mỏi đợi tin chồng.
Những từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” được sử dụng đắt giá để miêu tả cung bậc của nỗi nhớ người chinh phụ càng tăng dần đến vô tận, xót xa, đau đớn đến bi kịch đáng thương. “Đau đáu” còn hàm ý về sự lo lắng. Người chinh phụ lo lắng cho chồng, cho tương lai của hai vợ chồng và cả cuộc đời của mình khi chồng đi biền biệt chẳng biết tin tức gì.
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Ở đây, câu thơ được tách thành hai vế “cảnh buồn” và “người thiết tha lòng” mà không có liên từ, nhấn mạnh hai nghĩa: cảnh buồn khiến cho long người da diết hay nỗi buồn của lòng người thấm vào cảnh vật? Hay cảnh vật và con người cùng hòa vào, cộng hưởng để tạo nên một bản hòa ca của nỗi buồn khó thấu? Giống như trong câu thơ của Nguyễn Du: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau.
Cảnh vốn vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật. “Cành cây sương đượm” gợi lên sự buốt giá, lạnh lẽo; “tiếng trùng mưa phun” gợi đến sự ảo não,hoang vắng đến nỗi nghe thấy cả tiếng côn trùng kêu rả rích trong đêm. Tâm trạng của người chinh phụ cô đơn, thổn thức, xen lẫn nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng. Người chinh phụ hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến cảnh vật cũng trở nên não nề. Hình ảnh ẩn dụ “cành cây sương đượm”, “tiếng trùng”, “mưa phun” cho nỗi buồn chất chứa, sự cô đơn, héo mòn của người chinh phụ.
Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ song thất lục bát, hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, và thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật, tả cảnh ngụ tình. Điều này đã đưa người đọc trải qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình một cách tự nhiên nhất. Với cách dùng những từ ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ, đồng thời thể hiện niềm thương cảm của tác giả đối với người phụ nữ thời phong kiến nói chung. Đoạn trích cũng bày tỏ sự phản đối, tố cáo chiến tranh phong kiến khiến cho vợ chồng phải chia ly.
Qua tám câu cuối trong bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dù ngắn nhưng đã chất chứa bao cảm xúc dồn nén của người chinh phụ. Mỗi câu thơ đều khiến người đọc cảm thấy đang lắng nghe người chinh phụ giãi bày tâm trạng cô đơn, đau đớn, và bày tỏ nỗi nhớ chồng nơi biên cương xa xôi. Thông qua 8 câu thơ, tác giả còn nói hộ những khao khát, mơ ước giản dị, nhỏ nhoi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến – ước mong một hạnh phúc gia đình, được đoàn tụ, được yêu thương. Đồng thời, ông cũng lên tiếng phản đối chiến tranh phong kiến, cuộc chiến phi nghĩa khiến xã hội loạn lạc, gia đình chia cắt.