Văn mẫu lớp 11: Phân tích cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng (Dàn ý + 4 mẫu), Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích cái tôi ngất ngưỡng trong bài thơ Bài
Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm hát nói xuất sắc nhất của Nguyễn Công Trứ thể hiện cá tính tài tử của bản thân. Qua tác phẩm ta thấy được cái tôi “ngất ngưởng”, cái tôi ngông muốn vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến khi đã hiểu rõ về thời đại, ý thức được giá trị của bản thân mình.
Sau đây để giúp các bạn lớp 11 hiểu rõ hơn về cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, Tài Liệu Học Thi giới thiệu bài văn mẫu Phân tích cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu được chúng tôi tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Ngoài ra bạn đọc tham khảo thêm một số dạng bài văn mẫu khác tại chuyên mục Văn 11.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích cái tôi ngất ngưởng
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Nguyễn Công Trứ và Bài ca ngất ngưởng: Tác giả là một con người có bản ngã độc đáo, đầy tài năng và tâm huyết với chí làm trai hào hùng. Bài ca ngất ngưởng là một tác phẩm tiêu biểu trong số những sáng tác của ông
– Trong bài hát nói, tác giả đã bộc lộ cái tôi ngất ngưởng một cách rõ nét
II. Thân bài
1. Thế nào là cái “tôi” ngất ngưởng?
– Cái “tôi” : Cá tính, dấu ấn cá nhân của nhà văn trong tác phẩm
– “ngất ngưởng”: thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngã.⇒ tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.
⇒ Cái tôi ngất ngưởng: Cá tính của tác giả bộc lộ trong tác phẩm: ý thức rất rõ về tài năng và bản lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ hưu.
2. Cái tôi ngất ngưởng chốn quan trường
– Sự xuất hiện của con người với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khoáng
+ “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.
+ “Ông Hi Văn…vào lồng”: Cõi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng
– Cái tôi ngất ngưởng được thể hiện tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) ⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
⇒ khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng
3. Cái tôi ngất ngưởng trong phong cách, lối sống
– Cái tôi ngất ngưởng thể hiện ở cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân
+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
⇒ Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng
+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng
– Cái tôi ngất ngưởng thể hiện trong triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại
+ “ Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian
+ “Khi ca… khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .
+ “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình
⇒ Con người ngất ngưởng ở đây là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ
4. Tuyên ngôn khẳng định bản lĩnh, cá tính, cái tôi ngất ngưởng
– Khái quát về cái tôi ngất ngưởng được thể hiện trong con người với hai đặc điểm: đạo lí trung quân và cá tính vượt ra ngoài khuôn khổ:
+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.
+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
⇒ Lời tuyên ngôn của một cái tôi ngất ngưởng không chịu bó mình theo khuôn khổ,đi theo quan niệm, triết lí của mình và tự tin, ngạo nghễ trước điều đó
III. Kết bài
– Tổng kết một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
– Suy nghĩ bản thân về cái tôi ngất ngưởng của tác giả
Phân tích cái tôi ngất ngưởng – Mẫu 1
Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
Ông nguyện làm cây thông để đứng giữa đất trời mà đón gió bốn phương, để cất lên tiếng hát ung dung, tự tại, thể hiện lối sống “ngất ngưởng”. Lối sống ấy đã thấm nhuần trong sáng tác của ông và đặc biệt trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng cái tôi ngất ngưởng được bộ lộ rõ nét hơn bao giờ hết.
Trước hết về từ “ngất ngưởng” có nghĩa là tư thế đứng cao chênh vênh, không vững chãi đối với sự vật. Còn đối với con người thể hiện một cách sống, thái độ sống ngang tàng, vượt lên trên những luân lí thông thường. Đối với Nguyễn Công Trứ, ngất ngưởng là phong cách sống nhất quán của ông nó được biểu hiện nhất quán từ khi ông ra làm quan cho đến khi ông lui về quê nhà nghỉ ngơi.
Trong tác phẩm, cái tôi ngất ngưởng trước hết thể hiện trong việc ông tự nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình đối với cuộc đời: Vũ trụ nội mạc phi phận sự/ Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Có mấy ai được như Nguyễn Công Trứ dám khẳng định phận sự của bản thân trong trời đất. Nếu như các nhà thơ khác thường thể hiện chí làm trai: “Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời” (Phan Bội Châu) còn đối với Nguyễn Công chứ ông lập tức khẳng định vai trò trách nhiệm của bản thân đối với trời đất, với dân với nước. Đây cũng chính là tuyên ngôn của nhà thơ về chí làm trai, nó trở thành quan niệm sống nhất quán trong sự nghiệp sáng tác của ông: “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” hay “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” “Khắp trời đất dọc ngang, ngang dọc/ Nợ tang bồng vay trả, trả vay”. Đây đồng thời cũng thể hiện cái tôi “ngất ngưởng” nhất quán trong sáng tác của ông. Đối với ông đã làm trai ở trong trời đất thì phải “đầu đội trời chân đạp đất”, phải làm những việc có ích cho nước, cho đời.
Để minh chứng cho tài năng của mình, đồng thời cũng là thể hiện cái tôi ngông ngạo hơn đời, Nguyễn Công Trứ đã liệt kê những chức danh mình đã từng làm khi ở chốn quan trường:
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Ông mang tài học hành của bản thân để thi thố với thiên hạ: “Cái nợ cầm thư phải trả xong”, đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán đại thần đi dẹp loạn ở Cao Bằng; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên – Quảng Ninh). Câu thơ với nhịp nhanh, giọng thơ đầy vui sướng, hào sảng bộc lộ niềm tự hào khẳng định bản thân là một người có tài năng lỗi lạc.
Bằng lời tự thuật hết sức chân thành đồng thời cũng đầy tự hào Nguyễn Công Trứ đã khẳng định tài năng lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất cũng như năng lực của chính mình. Dù trong chốn quan trường nhiều o bế nhưng lối sống tài tử, phóng khoáng, cái tôi ngạo nghễ, ngất ngưởng, khác đời vẫn được thể hiện một cách trọn vẹn. Đó là thái độ sống của người quân tử đầy lí tưởng, bản lĩnh, tự tin và kiên cường.
Sau nhiều năm cống hiến cho nước, cho đời, Nguyễn Công Trứ cáo quan về ở ẩn, lúc này cái tôi ngất ngưởng của ông có cơ hội bộ lộ, thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Lối sống theo ý thích, sở nguyện của cá nhân: cười bò đeo đạc ngựa; đi chùa nhưng lại có gót tiên theo sau; khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng. Cuộc sống phiêu diêu, vui hưởng những thú vui trần tục. Ông không màng đến chuyện khen chê, được mất của thế gian: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong” ông tự sánh minh với bậc danh tướng và tự khẳng định lòng trung với vua:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông
Bản ngã ngất ngưởng một lần nữa được bộc lộ qua ba câu thơ cuối bài. Ông tự khẳng định mình là người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này đúng với thực tế làm quan của ông, ông cống hiến hết mình cho đến năm 70 tuổi mới cáo quan về ở ẩn. Điều này đồng thời cũng thống nhất với quan niệm về chí làm trai “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” đã được ông nêu ở phần đầu tác phẩm. Với lối so sánh bản thân ngang hàng với bậc anh hùng như: Nhạc Phi, Hàn Kì,… của Trung Quốc ông đã một lần nữa khẳng định tài năng cũng như công lao của mình một cách đĩnh đạc, hào hùng. Và cũng từ những chiến công đó ông có thể mạnh mẽ, dõng dạc tuyên bố với toàn thiên hạ: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Cái ngất ngưởng của lối sống tự do của bậc tài tử, ông không ngần ngại tự khẳng định tài năng, nhân cách của mình. Thái độ sống ngất ngưởng đầy thách thức ấy cũng chính là sự thách thức với những tôn ti, trật tự với xã hội phong kiến đương thời.
Cái tôi ngất ngưởng, ngông ngạo của Nguyễn Công Trứ đã được thể hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ nhất qua thể hát nói đầy tự do, phóng túng, chính thể loại đã góp phần làm bật lên cái tôi vượt ra ngoài khuôn khổ của tác giả. Cái tôi ngông ngạo, của tác giả là cái tôi hơn đời, dám khẳng định tài năng và nhân cách của bản thân, đó là còn là cái tôi cống hiến hết sức mình cho đời, cho nước.
Phân tích cái tôi ngất ngưởng – Mẫu 2
Đặc trưng của con người trong thơ văn trung đại đó là cái ta chung, bản ngã riêng biệt và cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn. Tuy nhiên đến với thơ ca của Nguyễn Công Trứ ông lại có những cách tân mới mẻ. Đặc biệt là tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi “ngất ngưởng”, cái tôi ngông muốn vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến khi đã hiểu rõ về thời đại, ý thức được giá trị của bản thân mình.
Để hiểu được cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ trước tiên ta phải hiểu được ý nghĩa của từ ngất ngưởng. Theo từ điển Tiếng Việt ngất ngưởng ở thế không vững, lắc lư nghiêng ngả như chực ngã. Nhưng đặt trong ngữ cảnh bài thơ ta nên hiểu theo cách của Nguyễn Đình Chú đó là “nhằm để diễn tả một tư thế, một thái độ, một tinh thần, một con người vươn lên trên thế tục, sống giữa mọi người mà dường như không nhìn thấy ai, đi giữa cuộc đời mà dường như chỉ biết có mình, một con người khác đời và bất chấp mọi người”. Lối sống khẳng định con người cá nhân riêng biệt của ông điều đó được thể hiện dưới những nội dung sau.
Thứ nhất ông sống “ngất ngưởng” nhưng không phải là kẻ bất tài vô dụng mà đã từng là một con người tài hoa, lỗi lạc lập nhiều công trạng, từng giữ chức vị cao trong triều. Một con người dám tuyên bố về chí làm trai, thể hiện triết lí sống mà mình đã theo đuổi “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” (Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không là phận sự của ta). Tinh thần nhập thế tích cực, tinh thần gánh vác việc đời, có trách nhiệm với đời tư tưởng đó đã được kế thừa từ các tiền nhân đời trước như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Phan Bội Châu. Tiếp đó ông tự khẳng định tài năng của mình bằng cách tự xưng “Ông Hi Văn tài bộ” – một con người tài hoa, và lần lượt liệt kê các công trạng, chức vụ mà mình đã nắm giữ “Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông”, “Lúc Bình Tây, cờ đại tướng” rồi khi “về phủ doãn Thừa Thiên” tác giả một mặt rất tự hào về bản thân mình song ông lại coi đó là lúc mình “đã vào lồng” cho thấy sự gò bó, eo hẹp ở chốn quan trường đối với một tâm hồn tự do, phóng khoáng.
Thứ hai cái tôi “ngất ngưởng” được bộc lộ rõ nét nhất vào thời gian khi tác giả đã “đô môn giải tố”, cởi trả mũ ấn trở về sống cuộc sống bình yên để thể hiện cái chí của mình. Phong cách sống khác người được tái hiện qua các hình ảnh:
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Người ta cưỡi ngựa còn ông cưỡi bò, đạc ngựa lại đeo cho bò vàng. Tương truyền rằng ông còn đeo mo cau buộc chỗ đuôi bò và nói là để che miệng thế gian, cả người và bò đều ngất ngưởng như để thách thức miệng đời. Thật chỉ có Nguyễn Công Trứ mới dám làm như vậy một cái tôi ngông khác lạ, hiếm có. Nhắc đến kiếm cung con người ta nghĩ ngay đến việc chém giết binh đao nhưng với ông lại “nên dạng từ bi” mới lạ. Vào chùa vãng cảnh, ngắm “núi nọ phau phau mây trắng” tìm sự thoát tục mà “Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì”và những nàng hầu xinh đẹp theo sau. Hình ảnh ông bụt xuất hiện làm cho tứ thơ càng trở nên đặc sắc thực thực, ảo ảo giữa đường đời. Ấy là bụt cười hay người đời cười hay là chính tác giả đang tự cười mình? Nghệ thuật đối ý tương phản gay gắt trong các câu thơ cho thấy nhân cách khác người của “Ông ngất ngưởng”.
Thứ ba Nguyễn Công Trứ lựa chọn cách sống “ngất ngưởng” cho mình khi đã lập nhiều công trạng và có những đóng góp to lớn cho đất nước. Sau khi đã trả xong “nợ tang bồng”, “vẹn đạo sơ chung” ông cho phép mình được sống với thú vui tiêu dao của bản thân. Ông quan niệm “Cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy” cho nên ông mặc kệ tiếng khen chê của người đời, ông cho rằng chuyện được mất trong nhân gian là lẽ tất yếu nên cứ “dương dương người thái thượng”, “phơi phới ngọn đông phong”. Đó là một lối sống thanh nhàn, ung dung, tự tại mang ý niệm riêng với cái ngông ngạo nghễ trước đời của tác giả.
Thứ tư tác giả liệt kê những thú vui “ngất ngưởng” của mình là
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục”.
Nhịp thơ 2/2/2/2, 2/2/3 làm cho ngữ điệu nói bộc lộ rõ, làm cho tính chủ thể của lời văn được nhất quán và xuất hiện giọng điệu khẳng khái, ngang tàn. Ba từ “không” lặp lại liên tục thể hiện sự tự do không bị ràng buộc, con người tài tử ấy đã “thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại”.
Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho được tôi luyện, mài giũa nơi cửa Khổng sân Trình với sự ý thức về tài năng, đức độ của mình ông tự tin xếp mình ngang hàng với “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”. Ông còn tự nhận thấy mình là kẻ mà:
“Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.
Kết thúc bài hát tác giả tự xưng bằng một tiếng “ông” hào hùng. Cái tôi cá nhân được phô diễn cực độ, tự tin khẳng định trong triều chẳng có ai được như mình. Câu thơ vừa khẳng định vừa thể hiện sự ca ngợi đầy tự hào của tác giả.
Với những cách tân mới mẻ về nghệ thuật câu thơ dài ngắn linh hoạt khác nhau, nghệ thuật đối ý tương phản, sử dụng điệp từ, điệp cấu trúc đã khắc họa thành công hình ảnh một Nguyễn Công Trứ với cái tôi ngất ngưởng, cái tôi ngông trên đường đời tự tin khẳng định cá tính cá nhân của mình.
Phân tích cái tôi ngất ngưởng – Mẫu 3
Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ người đọc còn thấy rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói: Văn là người. Điều đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. Ở họ văn với người là một, con người trong văn chương và con người ngoài đời tuy không hẳn đồng nhất, nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà văn như thế. Cho nên, qua Bài ca ngất ngưởng ta có thể hình dung rất rõ chân dung một Nguyễn Công Trứ tự họa.
Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người “ngất ngưởng”. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự hợm mình và hợm đời, mà là cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải nhận sự của ông “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm của chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ văn Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tới “Chí nam nhi”, “Chí làm trai”, “Chí tang bồng”, “Phận sự làm trai”, “Nợ nam nhi”, “Nợ tang bồng”… Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà nho chân chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng một giọng điệu “ngất ngưởng”, “ngang tàng”. Cứ xem cách xưng hô ở câu thơ thứ hai, Nguyễn Công Trứ tự gọi mình là “Ông Hi Văn”, tự giới thiệu chính mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như “đã vào lồng”, ta cũng đủ thấy rõ thái độ người viết vừa như trang nghiêm lại vừa như “u mua”, hài hước.
Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm quan đương chức “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông”. Hoặc: “Lúc Bình Tây, cờ Đại tướng; có khi về Phủ doãn Thừa Thiên” mà sau khi về hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách “ngất ngưởng” càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan trường, khi đã “tháo cũi, sổ lồng”, không chịu một sự ràng buộc nào nên ông càng trở nên “ngất ngưởng”. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống có vẻ khác người, ngược đời: Người đời thường cưỡi ngựa, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung trong tư thế:
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”
Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc đời:
“Được mất dương dương người Thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.
Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã), Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay sướng khổ đều như nhau, vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn đông phong; hãy “quẳng gánh lo đi mà vui sống” (Lâm Ngữ Đường).
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.
Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và nhiều luật lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất ngưởng, “ngông nghênh” của Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự thách thức, một sự “chòng ghẹo” cuộc đời. Thực ra thái độ và cách sống ấy của ông được bắt nguồn từ một bản lĩnh và một ý thức muốn khẳng định cái cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính bản thân mình. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao danh tướng từ đời Hán đến đời Tống của Trung Hoa: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”. Chẳng thế mà ông đau đáu một tấm lòng trước sau thủy chung như nhất: “Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn sơ chung”. Câu thơ rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh ra và lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào thời kỳ mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng cố quân quyền và phục hưng nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tinh thần cho cả một tầng lớp nho sĩ đang hăm hở bước vào một triều đại mới với một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong một vận hội mới để khẳng định mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:
“Đã sinh ra ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Ông tâm niệm và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in đậm trong mỗi trang thơ của chính ông.
Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”. Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa như khẳng định; vừa như tự hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thía; vừa như là lời tự bạch của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời. Đúng như câu thơ và cả bài thơ cũng “ngất ngưởng” như ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu hình in đậm trong hàng loạt nhà nho tài tử sau này. Ta như còn gặp lại hình bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân ngày nay.
Phân tích cái tôi ngất ngưởng – Mẫu 4
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1859) là một ông quan lớn văn võ toàn tài dưới triều Nguyễn. Nhắc đến ông người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất hoang, lấn biển, lập nên hai xã Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Người ta cũng không quên một nhà thơ với những vần thơ đầy khẩu khí của một bậc chính nhân quân tử về chí nam nhi phụng sự đất nước, về cái tôi ngất ngưởng của một con người hiểu rõ về mình, về xã hội mà mình đang sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí phách của người tuổi trẻ, thì Bài ca ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài thơ tổng kết về cuộc đời và khẳng định cái tôi (bản ngã) của cụ Thượng Trứ.
Để làm rõ được cái tôi ngất ngưởng của mình, nhà thơ đã chọn thể hát nói bằng chữ Nôm – một thể thơ tài tử của dân tộc tương đối tự do, viết ra không phải để đọc mà để ngâm nga, hát xướng. Người thể hiện có thể theo đà cảm xúc mà luyến láy cho phù hợp. Bài thơ vì vậy mà đầy âm sắc, nhạc điệu.
Nếu tính cả nhan đề, bài thơ có đến năm lần dùng từ “ngất ngưởng”, được đặt ở cuối mỗi đoạn như nốt nhấn của bài ca. Đây là cái dáng vẻ của một tinh thần ngạo nghễ, tự coi mình, hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là tư thế chung của toàn bài.
Mở bài ta bắt gặp sự khác đời trong cách tự giới thiệu về mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
Câu thơ chữ Hán tạm dịch là: Phàm những việc trong trời đất này không có việc gì không phải là phận sự của ta. Tiếp theo tác giả dùng một loạt từ Hán – Việt cùng thủ pháp liệt kê, kể cụ thể những chức tước danh phận của mình: Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…/ Lúc bình Tây, cờ đại tướng/ Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên… Nhịp thơ trầm bổng nhấn nhá của lối ca trù nghe thật êm đềm nhẹ nhàng như mặt sông mùa xuân. Một sự khẳng định tài năng kiệt xuất của mình thật khéo mà cũng thật kiêu ngạo khác đời. Nguyễn Công Trứ dám nói thẳng không hề né tránh. Ngay cả cách đưa biệt hiệu “ông Hi Văn” vào bài cũng chẳng giống ai. Hi Văn – chữ Hán có nghĩa là nhà văn hiếm. Tự gọi mình một cách trang trọng là ông và nhận mình như vậy thì chỉ có ông. Nguyễn Công Trứ đã phá vỡ tính phi ngã của thi pháp trung đại, không chịu ép mình vào cái ta chung của cộng đồng, xã hội. (Ở câu cuối ta thấy ông còn tự tách mình ra, đối lập mình với cả tầng lớp phong kiến). Tất nhiên ông có cái thế của một bậc đại nhân quân tử để viết như vậy. Nhưng nói được như ông ở thơ văn trung đại không nhiều. Nếu có chăng, trước đó có Nguyễn Trãi với một tình yêu lãng mạn ở Cây chuối, Phạm Thái đau đớn xót xa đến tuyệt vọng trước cái chết của người yêu trong Văn tế Trương Quỳnh Như. Gần nhất có cách xưng danh khẳng định mình của Hồ Xuân Hương (Này của Xuân Hương mới quệt rồi – Mời trầu), hay Nguyễn Du (Thiên hạ ai người khóc Tố Như – Độc Tiểu Thanh kí). Các nhà văn ấy vẫn còn nhún nhường, khép nép hoặc còn bóng gió, chung chung.
Cái ngất ngưởng còn ở lối sống, cách sống khác đời. Nguyễn Công Trứ là người biết sống. Khi trai trẻ, hoạt động hăng hái hết mình theo quan niệm nhập thế hành đạo tích cực của nho gia, trở về già thì sống nhàn hạ hưởng lạc. Một trong những thú vui của ông là nghe hát ả đào (còn gọi là ca trù). Người ta lên xe xuống ngựa xênh xang thì cụ Thượng Trứ ngao du sơn thủy, thưởng lãm chùa chiền cùng các cô đầu bằng xe bò. Mà là bò cái vàng với cái mo cau che sau đuôi. Cụ giải thích: Để che miệng thế gian:
Điển viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn chiếc mo che miệng thế gian
Sự ngông ngạo này chính ông đã nhận xét: Bụt cũng nực cười. Nguyễn Công Trứ đã vượt ra khỏi lẽ sống được tầm thường ở đời:
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi cơ, khi tửu, khi cắc khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục
Như trên đã nói, Nguyễn Công Trứ tự tách mình ra khỏi cái trật tự xã hội nhố nhăng, ô uế, bẩn thỉu, nhiều kẻ vỗ ngực là quân tử nhưng thực chất chỉ là hạng cây vông: Tuổi tác càng già càng xốp xáp/ Ruột gan không có, có gai chông (Vịnh cây vông).
Ngông ngạo nhưng ở hai bài này Nguyễn Công Trứ không rơi vào tình thế bi quan bế tắc hay phá phách bất cần đời như một số nhà văn lãng mạn sau này. Mục đích sống của ông rất rõ ràng: Phò vua giúp nước:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Hay như có lần đối lại ý của một nhà sư ông hóm hỉnh nêu:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ
Không quân thần phụ tử đếch nên người.
Nói khác đi, sự ngất ngưởng của ông ta là để nhằm lật tung cái trật tự xã hội phong kiến đương thời tưởng như yên ả bằng phẳng nhưng thực chất thối nát, mục ruỗng đến cùng cực. Ông không muốn mình bị “đồng hóa” cùng hội cùng thuyền với lũ tham quan vô lại.
Vì vậy tiếng cười tự trào của Nguyễn Công Trứ có ngạo nghễ nhưng không ngoa ngôn, lộng ngữ, vừa cụ thể lại vừa có tính biểu tượng, vừa có chút trào phúng lại vừa mang tính triết lý, thể hiện quan niệm sống của nhà thơ.
Thơ văn Nguyễn Công Trứ vốn phóng khoáng ngang tàng như bản chất con người ông. Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài thơ hay được nhiều người nhắc đến với sự tán thưởng thích thú. Một phần bởi bài thơ giàu tính nhạc, nhưng phần lớn bởi bản lĩnh vững vàng cứng cỏi của con người tài năng xuất chúng này. Nguyễn Công Trứ đã thổi một luồng sinh khí mới lạ cho văn chương đương đại, đưa yếu tố cá nhân, cái tôi cần được giãi bày vào trực tiếp trong văn chương. Đó cũng là một trong những bước đệm quan trọng để văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX có những bước chuyển mình vượt bậc, bước qua cái ta, giải phóng yếu tố cá nhân, cho văn chương Việt Nam tiến kịp nền thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật hiện đại thế giới nói chung.