Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo, Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo gồm dàn ý, cùng 10 bài
Văn mẫu lớp 11: Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo gồm dàn ý, cùng 10 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 11 tham khảo, tích lũy vốn từ để hoàn thiện bài phân tích Thị Nở của mình.
Trong truyện ngắn Chí Phèo thì nhân vật Thị Nở tuy xấu “ma chê quỷ hờn” nhưng lại có một tình yêu trong sáng, khơi dậy khát khao về một mái ấm gia đình có sự chăm sóc, yêu thương. Vậy mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây:
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích nhân vật Thị Nở
- 2 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 1
- 3 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 2
- 4 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 3
- 5 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 4
- 6 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 5
- 7 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 6
- 8 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 7
- 9 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 8
- 10 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 9
- 11 Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 10
Dàn ý phân tích nhân vật Thị Nở
I. Mở bài
– Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo
– Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị trí quan trọng, ít nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở
II. Thân bài
1. Ngoại hình
– Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”
+ Ngẩn ngơ: hành động theo bản năng
+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người
+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:
⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi
2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người
– Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở
+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:
+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”
+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại
+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính
⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí
3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình
– Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng
– Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí
– Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”
– Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối
4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo
– Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo
+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác
+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí
+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát
⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo
III. Kết bài
– Khẳng định những nét nghệ thuật làm nên hình tượng nhân vật Thị Nở
– Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 1
Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Bên cạnh nhân vật chính Chí Phèo để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, thì ta cũng không thể quên được một Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn, nhưng lại có tấm lòng thương người sâu sắc. Nhân vật là một nét mới, làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Thị Nở được miêu tả bằng biện pháp cực tả, được Nam Cao nhận xét là xấu ma chê quỷ hờn: Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế Thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.
Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Cái xấu của Thị Nở đã đạt điển hình, có thể coi như một mẫu mực về cái xấu, trong cuộc sống này có lẽ ít ai lại có thể xấu đến như vậy. Chính bởi vẻ ngoài quá xấu xí, tính tình lại dở hơi, sống trong gia đình là mả hủi nên Thị Nở không có cơ hội để tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.
Bản thân Thị Nở cũng là một số phận bất hạnh. Vẻ đẹp của Thị Nở có thể không được phô bày ra bên ngoài, dễ dàng, rõ thấy mà nó là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp bên trong, đó là vẻ đẹp của nhân cách, của lòng yêu thương con người.
Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau ở bờ sông, khi thị Nở nằm cạnh gốc chuối ngủ, còn Chí uống rượu say ở nhà Tự Lãng trở về ra bờ sông tắm. Sự gặp gỡ của họ thật tình cờ. Nhưng sự gặp gỡ đó mở ra cơ hội hạnh phúc cho cả hai người, đặc biệt là với Thị Nở. Sau đêm đó, Thị Nở dìu Chí Phèo về lều do hắn bị cảm, trước khi về Thị Nở không quên đắp manh chiếu cho Chí khỏi lạnh.
Cử chỉ nhỏ bé nhưng cho thấy tình yêu thương, sự quan tâm của Thị với Chí. Thị trở về nhà vẫn luôn quan tâm lo lắng và có trách nhiệm với Chí : “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”.
Ý thức được trách nhiệm của bản thân với Chí, sáng hôm sau Thị Nở nấu cháo và mang sang tận nơi, cử chỉ của Thị nở thấm đẫm tình yêu thương, Thị giục Chí ăn nhanh, trong giọng nói không chỉ là sự quan tâm, lo lắng mà còn đầy tình tứ. Nụ cười của Thị với những người xung quanh thật xấu xí và vô duyên, nhưng với Chí thì Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Dưới con mắt tình nhân mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ hơn, và cũng nhờ sự quan tâm của Thị Nở trong Chí dần dần phần người, phần nhân tính đã trở lại.
Với nhân vật Thị Nở ta không thể quên chi tiết bát cháo hành. Đó không chỉ đơn thuần là bát cháo giúp Chí giải cảm mà đó còn là bát cháo của tình thương, trách nhiệm và bát cháo của sự hồi sinh nhân tính. Bát cháo đã làm Chí vô cùng ngạc nhiên, hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình ươn ướt, vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm từ một người đàn bà, và đây cũng là lần đầu hắn biết cháo hành ngon đến vậy. Bởi có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”.
Không chỉ vậy, Thị Nở còn là người biết khao khát hạnh phúc. Sau đêm ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ lâu. Trước lời đề nghị về sống chung với Chí, Thị Nở đã sẵn sàng vượt qua định kiến, sang ở với Chí năm ngày. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của Thị.
Sau năm ngày chẵn, Thị chợt nhớ ra mình còn có bà cô và Thị trở về nhà hỏi ý kiến của bà cô để hợp thức hóa quan hệ với Chí Phèo, để cũng được hưởng hạnh phúc bình dị như biết bao người phụ nữ khác. Nhưng trước lời đay nghiến, chỉ trích của bà cô: Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hắn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo. Mọi cơ hội hạnh phúc bị dập tắt, tính Thị lại dở hơi nên đem bao nhiêu bực dọc sang đổ lên đầu Chí Phèo và quay trở về không mảy may nghĩ ngợi.
Thị là người đã khơi dậy niềm tin vào tương lai, hi vọng cho Chí, nhưng cũng chính là người đã dập tắt, đã ngăn con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Chi tiết cuối tác phẩm, khi Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát, sau đó Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng thấy cái lò gạch cũ, như một dự báo về một Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ảnh, nó cũng như ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị Nở.
Nhân vật Thị Nở chỉ là nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng với nhân vật này Nam Cao cũng bộc lộ niềm thương yêu và cảm thông sâu sắc đến số phận bất hạnh của họ. Nhân vật có ý nghĩa quan trọng đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thúc đẩy câu chuyện phát triển.
Bằng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở, cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp nhân cách sáng ngời đằng sau lớp vỏ xù xì, xấu xí. Nhân vật đã góp phần hoàn chỉnh chủ đề và thúc đẩy truyện phát triển hợp lí.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 2
Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.
Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn “Chí Phèo” bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.
Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.
Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phác thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: “trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị…Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả”. Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và “nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã” thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.
Tuy chỉ là nhân vật rất phũ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn “Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo” đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành “mới thơm làm sao” chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.
Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian “giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng” (Còn có dị bản “giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng”). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của “con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời” “sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt…Nhục nhã ơi là nhục nhã”. Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, “xỉa xói vào mặt con cháu gái” đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn “chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến”. Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ “không ăn được thì đạp đổ”, “trâu buộc ghét trâu ăn”. Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : “Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm…” Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.
Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng “người” ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao”, tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện “vợ chồng” với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí “Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo” đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.
Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật này đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 3
Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?
Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, Thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đáng nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).
Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình Thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình đô thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!
Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 4
Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.
Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.
Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là “xấu ma chê quỷ hờn”. Với diện mạo được tác giả miêu tả “Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu”. Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.
Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví ” xấu như Thị Nở”, chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.
Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.
Ngay trong đêm trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.
Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.
Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xây dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 5
Được biết đến là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao dường như không hề tô vẽ những cuộc đời, hay tô hồng những số phận của người nông dân. Có lẽ những nhân vật của Nam Cao luôn luôn là những con người bình dị, chân quê và rất đỗi chất phác nhưng thật dễ dàng có thể nhận ra rằng các nhân vật của ông thường có tướng mạo xấu xí và thô kệch. Và có thể nói rằng nhân vật Thị Nở là một nhân vật cũng đã thể hiện được những đặc tính này của nhà văn Nam Cao.
Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở thật xấu xí, và phải khẳng định rằng Nam Cao không phải nhà văn muốn bôi nhọ người phụ nữ Việt Nam, mà dường như là ngược lại, tác giả như đã muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tận sâu tâm hồn của họ.Cho dù là hình hài của họ có phần xấu xí đến nỗi “ma chê quỷ hờn”. Mà ở nhân vật Thị Nở thì xấu thật. Ta có thể thấy Nam Cao miêu tả Thị Nở “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công, nó dường như đã ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”. Chỉ với những dòng miêu tả thật đầy chân thực như thế này, ó lẽ người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì dường như không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. Hay thêm một câu văn nữa “đã thế thị lại dở hơi… Và thị lại nghèo… Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”. Thế nên, nhân vật Thị Nở không có chồng và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”.
Vậy mà nhân vật Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo. Chí Phèo được ví như một con quỷ của làng Vũ Đại mà bất cứ ai cũng phải xa lánh. Dường như ta thấy đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi đã để cho một kẻ có diện mạo, hình hài dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đã được đến với nhau và yêu nhau. Có lẽ chính câu chuyện tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người. Và cho hai con người này đến với nhau như là một dụng ý nghệ thuật, chẳng phải ngẫu nhiên mà có thời kỳ tác phẩm “Chí Phèo” lại có tên là “Đôi lứa xứng đôi”.
Thị Nở từ một người đàn bà xấu xí đến cùng cực lại còn dở hơi đã trở thành một người phụ nữ đã thật biết quan tâm và lo lắng cho người khác đó là câu “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng…. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”. Nhà văn Nam Cao thật tinh tế khi đã phát hiện ra nhiều điều hay ở con người xấu xí này. Và khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị Nở dường như cũng đã coi đó là người đàn ông của đời mình, và cũng vì vậy mà Thị đã hết sức lo lắng và thương yêu. Thật dễ có thể cảm nhận được ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị lúc đó tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên biết bao nhiêu.
Người đọc không thể nào quên chi tiết bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những sự quan tâm tận tình mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn lúc này đây thực sự xúc động. Và lúc đó hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn có lẽ đã ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì tình yêu thương, quan tâm chăm sóc của người đàn bà này mà Chí Phèo như đã muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời thật bình dị và có biết bao hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói rằng trong tình yêu của người đàn bà dù xấu xí như Thị nhưng dường như vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không một ai, ngay cả làng Vũ Đại ngoài thị Nở ra thì không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo. Vậy mà thật ngạc nhiên chỉ một người phụ nữ xấu xí lại còn dở hơi bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi của mình lại có thể làm được.
Quả thật nhà văn Nam Cao đã rất thành công khi ông đã xây dựng hình ảnh con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng điều đó còn thật đáng nể khi thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí đến nỗi ma phải chê, quỷ phải hờn. Dường như chính con người phụ nữ đầy tình thương yêu cũng như tấm lòng bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Ta có thể thấy chính tình yêu của người đàn bà xấu xí đó chính là một tình yêu chân thành, và thứ tình cảm đó xuất phát từ trái tim, và chính từ lòng cảm thông sâu sắc điều đó thật rất đáng trân trọng biết bao nhiêu. Với nhân vật Thị Nở thì đó chính là tia sáng, là niềm hy vọng, còn là một cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, và giúp cho Chí Phèo sống với cộng đồng. Cho dù sau này như thế nào đi chăng nữa, cho dù Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì đối với nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành dường như vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, đối với một số phận. Có lẽ điều đó để cho ngay cả những kẻ cùng đường, hay lạc lối thì dường như ở họ vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, họ như vẫn khao khát được sống và được yêu.
Với tác phẩm đặc sắc “Chí Phèo” thì dường như người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Ta có thể thấy những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng ở họ dường như lại có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như nhân vật Thị Nở cũng đã khiến cho không ít người đọc nhớ mãi. Và cho dù xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm kia người đã như làm cảm hóa được một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Ở người phụ nữ đó như đã thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Và đó dường như là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.
Chí Phèo – nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thực dân, bị chúng đẩy vào bước đường cùng, trở nên lưu manh hóa mất hết nhân dạng, nhân tính, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, chỉ đến khi gặp được Thị Nở – một con người bất hạnh không kém đã khơi dậy bản tính lương thiện vốn đã ẩn khuất trong con người Chí từ lâu, cùng phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để cảm nhận rõ hơn giây phút thức tỉnh, niềm khát khao làm người mãnh liệt của Chí Phèo.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 6
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam, có lẽ vì vậy mà Nam Cao không khoác lên mình của những nhân vật của mình màu sắc lãng mạn, lí tưởng mà lại nhìn nhận họ ở những khía cạnh rất con người, ở chiều sâu bản chất và tính cách.
Trong các sáng tác của Nam Cao, độc giả có thể bắt gặp rất nhiều những nhân vật có ngoại hình xấu xí, dở hơi nhưng bên trong cái diện mạo xù xì, xấu xí ấy lại là những giá trị tốt đẹp, đáng trân trọng. Nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo là một trong những nhân vật như vậy.
Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ xấu xí, dở hơi, nhà lại có mả hủi nên giống như Chí Phèo, Thị Nở bị cả làng Vũ Đại xa lánh, sống cô độc, lủi thủi vô cùng đáng thương. Miêu tả về Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã viết “ cái mặt của Thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, …cái mặt hao hao như mặt lợn, cái mũi ngắn to, đỏ vừa sần sùi như quả cam sành”.
Không những thế, Thị Nở lại dở hơi, nghèo khó và nhà có mả hủi, tất cả người dân trong làng Vũ Đại đều ghê sợ và tránh Thị như tránh một con vật “rất tởm”. Đã có không ít những đánh giá cho rằng Nam Cao đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi miệt thị con người. Tuy nhiên, đó lại là dụng ý nghệ thuật đặc biệt của Nam Cao, tác giả đã miêu tả Thị với những nét xấu xí, thô kệch “ma chê quỷ hờn” như vậy nhằm làm nổi bật lên những giá trị đáng trân trọng bên trong.
Một con người xấu xí, dở hơi như Thị Nở nhưng lại là con người giàu tình thương, thấy Chí Phèo ốm đau mà không có người chăm sóc, Thị đã động lòng thương vì biết nếu mình mà bỏ hắn thì không có ai chịu giúp hắn: “ Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc….Phải cho hắn ăn gì cũng được”. Đến đây, ai có thể ngờ được một con người bị cả làng xa lánh, ghê tởm như Thị lại là người ấm áp, biết quan tâm đến đồng loại như vậy. Hành động của Thị cao cả biết mấy, liệu mấy người tự xưng lương thiện, cho mình quyền kì thị, xa lánh người khác kia có thể làm được.
và sự quan tâm người đàn bà xấu xí ấy đã cảm hóa, làm thức tỉnh phần nhân tính bên trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo. Tình thương của Thị Nở đã đưa Chí về với con đường lương thiện, trở về với giấc mơ bình dị khi còn trẻ “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”.
Nếu Thị Nở là người đã mở ra con đường lương thiện, khát khao hạnh phúc cho Chí Phèo thì cũng Chí cũng chính là người trân trọng Thị nhất, nhờ có Chí, Thị Nở lần đầu trải nghiệm hạnh phúc như bao nhiêu người đàn bà khác. Bát cháo hành của Thị có ý nghĩa thật lớn lao, đó không chỉ là biểu hiện của sự yêu thương, giúp đỡ của Thị đối với Chí mà hơi ấm từ bát cháo hành đã lay động đến phần lương thiện sâu thẳm bên trong con người Chí.
Nó khiến Chí nhớ đến những giấc mơ thời trai trẻ và bắt đầu nhận thức được những sai lầm, tội ác mà mình đã làm. Hơn hết Chí muốn quay trở lại làm người lương thiện, Chí muốn làm hòa với mọi người và Thị sẽ là cầu nối để Chí trở về với con đường lương thiện.
Thị cũng muốn cùng Chí xây dựng lên hạnh phúc nhỏ nhưng định kiến xã hội mãi mãi vẫn không thể buông tha cho hai người. Trước những lời mắng chửi cay nghiệt của bà cô, Thị Nở đã về nhà và trút hết những bực dọc và những ganh ghét ích kỉ mà bà cô nói với mình cho Chí Phèo. Tuyệt vọng vì con đường trở về với lương thiện bị chặn đứng, Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến và tự tử.
Hình ảnh Thị Nở chạm tay vào bụng mang đến cho người đọc liên tưởng về một Chí Phèo còn có thể đã định hình trong bụng thị, là dấu hiệu của sự nối tiếp bi kịch.Cuộc đời Thị tiếp theo như thế nào không ai biết vì tác giả cố tình bỏ ngỏ nhưng ta có thể cảm nhận được con đường Thị tiếp tục đi vẫn sẽ còn lắm những khổ đau, cô độc.
Thị Nở là một trong những thành công của Nam Cao khi xây dựng hệ thống nhân vật cho truyện ngắn Chí Phèo. Thị tuy là con người xấu xí, dở hơi bị cả làng ghét bỏ nhưng bên trong con người ấy lại có những vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 7
“Chí Phèo” là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao phản ánh nỗi thống khổ của người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật Chí Phèo nhưng bên cạnh đó nhân vật phụ thị Nở cũng có vai trò quan trọng trong truyện. Bởi thị tuy xấu xí về ngoại hình nhưng đẹp về nhân cách, là người thức tỉnh lương tri bị ngủ quên trong Chí, thị Nở trở thành kiểu nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học.
Nhân vật thị Nở xuất hiện trong hoàn cảnh một đêm trăng thanh ả đi gánh nước rồi ngủ quên bên bụi chuối cạnh nhà Chí. Anh Chí vừa uống rượu say bên nhà tự Lãng vô tình gặp “một người đàn bà ngồi tênh hênh” với bản năng của người đàn ông cùng bát cháo hành tình yêu của thị Nở là cầu nối vô hình để Chí hoàn lương.
Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo không còn ai thân thích ngoài bà cô già cũng không chồng như thị. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre, thị sống bằng nghề lặt vặt ở làng, chủ yếu là gánh nước thuê kiếm ăn. Đã nghèo lại còn xấu và ngẩn ngơ. Có lẽ thị là nhân vật nữ xấu nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà nhà văn miêu tả.
“Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy” nghèo, xấu, ngẩn ngơ tạo thành ba đỉnh tam giác không nhân vật nào có được như thị. Ngòi bút của ông thật tài tình khi miêu tả gương mặt: “Một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” chỉ bốn từ “Ma chê quỷ hờn” ta có thể hình dung ra cái mặt của thị là một sự mỉa mai của hóa công khiến cho người ta sợ hãi và lảng tránh bởi dòng giống con nhà mả hủi.
Không phải Nam Cao bôi nhọ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt, phải chăng đây cũng là một dụng ý nghệ thuật tác giả để thị như vậy mới “sánh” được với Chí Phèo-một thằng lưu manh chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ. Khác với cách miêu tả nhân vật truyền thống là ngoại hình bên ngoài phải ăn nhập với nhân phẩm bên trong nhưng thị đi ngược lại hoàn toàn với điều đó.
Thị Nở – người đàn bà xấu về ngoại hình nhưng lại có nhân cách tốt đẹp, đáng trân trọng. Thị đã dành tình yêu thương chân thành, mộc mạc cho Chí khi đã ngủ cùng hắn trong đêm trăng thanh dưới bụi chuối hai linh hồn cô độc đã tìm về để sưởi ấm cho nhau. Thị đã dìu Chí vào trong túp lều xộc xệch sau trận nôn mửa lúc nửa đêm, tình yêu bắt đầu chớm nở từ bát cháo hành.
Chí ngạc nhiên và cảm động vô cùng bởi đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Chính thị đã khiến Chí tỉnh lại sau bao cơn say triền miên vô tận. Ăn bát cháo bát cháo hành từ tay thị Nở hắn bỗng nhận ra rằng: “cháo hành rất ngon, bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây thù?” bát cháo ấy là hương vị của hạnh phúc của tình thương chân chất những con người nghèo khổ dành cho nhau.
Trong mắt của kẻ say tình lúc này thị Nở bỗng trở nên có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Phải chăng ấy là cái duyên ngầm bấy lâu đã bị xã hội vùi dập nay mới có cơ hội thể hiện ra bên ngoài. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra điều đó qua cái nhìn của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Thị còn là người cho Chí hy vọng được hoàn lương, mong muốn làm người lương thiện, khao khát trở lại với cuộc đời bình thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không được” thị chính là cầu nối giữa hắn với mọi người, thị là người cứu rỗi linh hồn tội lỗi đưa nó trở về với bản chất lương thiện.
Lúc này Chí mong muốn có được hạnh phúc gia đình bình dị như mơ ước khi còn là một anh canh điền hiền lành“Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thị Nở đã đánh thức lương tri làm người bị ngủ quên, bị khuất lấp trong con người Chí để giờ đây trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.
Nhưng thị lại không phải người tỉnh táo bình thường mà lại là đứa ngẩn ngơ, kẻ dở hơi nên hạnh phúc ngắn ngủi trôi qua, tình yêu bị tắt ngấm khi cô ả dở chứng về hỏi ý kiến bà cô. Bà cô già – đại diện cho định kiến xã hội phản đối kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại”. Chí bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội bất công bất lương đẩy đến mức đường cùng phải tự sát sau khi giết Bá Kiến.
Tuy nhân vật thị Nở chỉ xuất hiện ở đoạn cuối tác phẩm nhưng đã cho Chí những phút giây hạnh phúc, những ngày được sống đúng với bản chất lương thiện. Thị Nở là hiện thân của tình người. Và chỉ có tình người, tình yêu mới có thể cảm hóa được con quỷ dữ trong người Chí Phèo. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng thật mong manh dễ vỡ khi con người ta không biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ.
Qua nhân vật thị Nở nhà văn để lại cho độc giả giá trị nhân đạo sâu sắc chỉ có tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim mới có sức mạnh kì diệu cảm hóa được con người tội lỗi. Qua đây ta cũng có được bài học nhận thức đúng đắn đừng “Nhìn mặt mà bắt hình dong” ngoại hình bên ngoài tuy xấu xí nhưng chỉ cần bên trong con người có tình thương yêu, nhân hậu và biết quan tâm đến người khác thì họ cũng rất đẹp, rất đáng được trân trọng và được yêu thương. Ở ngoài kia có biết bao người nhan sắc xinh đẹp nhưng chưa chắc họ đã có được tấm lòng tràn ngập tình thương như thị Nở.
Thị Nở tuy chỉ là nhân vật phụ xuất hiện trong chốc lát nhưng thị là ngọn lửa sưởi ấm và thắp lên ánh sáng lương tri làm người trong Chí, nhân vật mang lại giá trị nhân văn cho tác phẩm “Chí Phèo”. Dù thị xấu xí, nghèo khổ nhưng tràn ngập tình thương đó là phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Gập lại trang sách bấy lâu nhưng hình tượng nhân vật thị Nở cùng mối tình bất hạnh với Chí Phèo vẫn ám ảnh trong suy nghĩ và tâm hồn của độc giả.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 8
Người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn, nhà thơ của nền văn học Việt Nam, cũng như của thế giới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hiếm có hình tượng người phụ nữ nào lại độc đáo như nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.
Chính bằng sự sắc sảo trong ngòi bút miêu tả về ngoại hình, tính cách cũng như những ý nghĩa nhân văn đằng sau cách xây dựng nhân vật của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành hình tượng độc nhất, để lại ấn tượng hết sức sâu đậm trong lòng độc giả.
Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán những năm 1930-1945. Bởi vậy, ngòi bút xuất sắc này đã lột tả những gì “trần truồng” nhất của xã hội hiện tại, dành những chi tiết sống động, độc đáo nhất cho nhân vật của mình – những người nông dân điển hình thời bấy giờ.
Nếu Chí Phèo có “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”, thì Thị Nở lại xuất hiện với cái mặt “ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài”, “cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh”, “hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách”, “cái răng rất to lại chìa ra”….
Đoạn miêu tả ngoại hình của Thị Nở trong truyện ngắn này của Nam Cao quả thật rất xuất sắc. Ông sử dụng những tính từ mạnh, miêu tả chi tiết từ “cái mặt”, “cái mũi”, “cái môi”, “cái răng”, lột tả được ngoại hình “xấu ma chê quỷ hờn”, “sự mỉa mai của hóa công” của Thị Nở.
Không chỉ sở hữu một ngoại hình khiến cho “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm” mà Thị Nở lại còn nghèo, dở hơi và “thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi” và thị không có chồng. Nam Cao đã xây dựng một nhân vật vừa đáng cười, vừa đáng thương, đáng tội nghiệp, đại diện cho số phận của người phụ nữ nông dân của tầng đáy xã hội.
Quả thật, hình tượng Thị Nở trong truyện ngắn này là độc nhất và cách miêu tả, xây dựng nhân vật của Nam Cao cũng độc đáo không kém. Thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”, dở hơi ấy lại tình cờ gặp được Chí Phèo – “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, để rồi hai con người ấy đem lòng yêu nhau, cái tình yêu không kém phần lãng mạn, bi kịch và cũng đầy ắp những ý nghĩa nhân văn.
Có lẽ qua ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở không có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” như Thúy Kiều của Nguyễn Du, hay “vẫn mơn mởn như gái mười tám” như Chị Dậu của Ngô Tất Tố (trong Tắt đèn) nhưng cô lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng, vẻ đẹp đã cứu rỗi, thức tỉnh phần người, thức tỉnh khao khát được hoàn lương trong Chí Phèo.
Thị Nở nghèo, ngớ ngẩn, dở hơi, nhưng thị vẫn là một người phụ nữ chăm chỉ. Thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng, “luật quật đập đất từ trưa tới giờ” để rồi ngủ quên ngay gốc chuối. Thị dở hơi, “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất”.
Nhưng có lẽ, chính vì dở hơi mà Thị ngày nào cũng qua vườn nhà Chí hai ba lần để rồi thành thói quen, thậm chí “vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa” hay “ xin của hắn một ít rượu về để bóp chân” và “lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế”.
Có lẽ cả cái làng Vũ Đại, chỉ mình Thị Nở không sợ Chí Phèo, chỉ thị mới chăm sóc cho hắn khi hắn ốm, chỉ thị mới nấu cháo hành và “làm thành một cặp rất xứng đôi” với Chí mà thôi. Và có lẽ cũng chỉ có Thị mới khiến cho một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ phải sợ già, sợ đói rét, ốm đau và sợ cô độc. Dường như bên trong cái vẻ bề ngoài xấu xí, ngớ ngẩn ấy, người phụ nữ này còn chứa đựng những nét đẹp không nói thành lời.
Vào buổi sáng sau khi gặp Chí ở bờ sông, Thị cắp một cái rổ, trong có một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Các nhà phê bình văn học từ trước đến này vẫn khẳng định rằng chi tiết nồi cháo hành là một chi tiết hết sức đắt giá, đó không chỉ là nồi cháo ăn lúc bị ốm, mà còn là tình thương, tình yêu của người phụ nữ xấu xí nhưng thật thà, chất phác. Chính tình thương, tình yêu ấy đã khiến cho một Chí Phèo cũng biết ước mơ về gia đình, khiến cho kẻ rạch mặt ăn vạ cũng “cười nghe thật hiền” và một Thị Nở “xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”.
Quả thật tình yêu của Chí và Thị Nở không chỉ đơn thuần là tình yêu của hai con người mà nó còn thể hiện cho ước mơ được hạnh phúc, ai cũng xứng đáng yêu và được yêu, kể cả những con người bần cùng nhất trong xã hội. Có lẽ không có Thị Nở, Chí Phèo vẫn mãi ở trong đống bùn lầy của xã hội, không một tia hi vọng, không ánh sáng. Và chỉ khi có được sự chăm sóc, tình yêu của Thị Nở, khát khao được hoàn lương trong Chí mới dữ dội đến như vậy.
Thế nhưng có lẽ trong cái xã hội thời bấy giờ, tình yêu, ước mơ được hạnh phúc ấy vẫn không thể chiến thắng được những định kiến, những bất công. Chỉ vì những định kiến mà Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt bởi “ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, Chí vì bị Thị Nở từ chối mà uống rượu rồi vác dao sang nhà Bá Kiến ăn vạ đòi lương thiện, đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Màu sắc hiện thực phê phán thể hiện rất rõ ở chi tiết này. Người nông dân lương thiện bị bần cùng hóa, tha hóa, mong muốn được hoàn lương nhưng lại không có lối thoát bởi xã hội quá bất công. Nam Cao quả thật đã rất thành công khi tái hiện xã hội lúc bấy giờ.
Có lẽ Thị Nở không phải là người phụ nữ xinh đẹp, thậm chí xấu ma chê quỷ hờn nhưng đã để lại ấn tượng hết sức sâu sắc cho người đọc. Thị là người phụ nữ hiền lành, chất phác nhưng cũng rất giàu tình thương, với khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt.
Chính cái nét duyên thầm và tình yêu của người phụ nữ này đã cảm hóa, thức tỉnh khao khát hoàn lương mãnh liệt của Chí Phèo. Quả thật, Nam Cao xứng đáng là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học nước nhà khi khắc họa hình tượng Thị Nở sống động và đầy tính nhân văn như vậy.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 9
Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn “Chí Phèo” là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.
Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật “cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn…Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…” Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. “Đã thế thị lại dở hơi…Và thị lại nghèo…Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”. Thế nên, Thị Nở không có chồng và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”.
Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.
Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng…Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”. Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.
Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.
Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dữ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.
Với tác phẩm “Chí Phèo”, người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một “con quỷ dữ”, thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.
Phân tích nhân vật Thị Nở trong truyện Chí Phèo – Mẫu 10
Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.
Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.
Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.
Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả”.
Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”
“Đã thế Thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.
Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.
Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.
Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.
Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.
Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.
Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.
Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).
Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát cháo hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.
Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng minh cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.
Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.
Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…
Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.
Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.
Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.
Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.
Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrang Xoa Cope).