Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước, Mời các thầy cô và các bạn cùng tham khảo bài văn mẫu lớp 12: Phân tích phong cách
Để giúp cho các bạn học sinh có thêm hành trang để bước vào kỳ thi THPT tốt nghiệp Quốc gia sắp tới, thì sau đây chúng tôi xin giới thiệu dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu lớp 12: Phân tích phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất nước.
Hy vọng rằng với tài liệu này sẽ giúp cho các bạn học sinh sẽ củng cố lại kiến thức Ngữ văn lớp 12 của mình. Sau đây, xin mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo tài liệu.
Dàn ý phân tích phong cách triết luận trữ tình trong Đất nước
I. Mở bài:
– Tổng quan về đề tài đất nước trong thi ca.
– Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.
II. Thân bài:
* Phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm:
– Phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta.
– Có sức liên tưởng mạnh mẽ, dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian.
* Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù văn hóa truyền thống.
– Lòng tự hào về cội nguồn dân tộc:
– Dùng truyền thuyết Lạc Long Quân- u Cơ, kết hợp với hình tượng Chim đại diện cho phương Nam, Rồng đại diện cho phương Đông tạo thành khối lý luận sự tương ứng giữa hai chính thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt.
=> Suy luận chặt chẽ làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông.
– Suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta.
– Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam.
– Từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam, mà theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước.
– Cũng từ nền văn hóa lúa nước Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng đến mối liên quan giữa Đất Nước và nền văn hóa sông nước, một yếu tố điển hình của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
=> Lý giải một cách tinh tế, sâu sắc, cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.
– Phong cách triết luận nằm ở cái cách thi nhân đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình.
– Trong ca dao “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt
– Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
– Đất Nước hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt: Là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc.
– Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước
– Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”.
– Cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa.
=> Những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền
* Tư tưởng triết luận Đất Nước trong phạm trù lịch sử dân tộc:
– Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.
– Đất Nước của những con người với phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
* Tư tưởng triết luận Đất Nước của nhân dân:
– Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời
– Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước.
* Yếu tố trữ tình:
– Thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc.
– Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân.
– Tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.
III. Kết bài:
– Tổng kết và cảm nhận về phong cách trữ tình triết luận của Nguyễn Khoa Điềm trong Đất Nước.
Phân tích phong cách triết luận trữ tình trong Đất nước – Mẫu 1
Giai đoạn những năm 1945-1975 là giai đoạn có sự ra đời của nhiều tác phẩm xuất sắc viết về đề tài đất nước, trong đó nổi bật có Nguyễn Đình Thi với một đất nước đau thương mà anh dũng trong bài thơ cùng tên, có một Tạ Hữu Yên với hình tượng đất nước buồn xót xa “thon thả giọt đàn bầu… đau nỗi đau người mẹ 3 lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ” trong Đất nước tôi, một Chế Lan Viên với hình tượng đất nước trầm ngâm, lắng đọng thấm đượm hơi thở dân tộc trong Thời sự hè 72 – Bình luận. Và ấn tượng ta lại có một Nguyễn Khoa Điềm với hình tượng đất nước mang âm hưởng sử thi, bắt nguồn từ những huyền thoại, một đất nước có quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại, một đất nước của nhân dân và bắt nguồn từ nhân dân. Có thể nói Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ mang đậm phong cách triết luận trữ tình mà ở đó người ta thấy yếu tố trữ tình và triết luận hòa hợp với nhau một cách chặt chẽ và xuyên suốt, xuất phát từ vốn kiến thức sâu rộng của nhà thơ về bề dày văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm tức là nhắc đến một nhà thơ có phong cách viết thơ triết luận đậm đà, ông luôn có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tư tưởng triết lý sắc sảo cùng với những giá trị truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc Việt Nam ta. Đọc thơ ông ta phát hiện ra rằng, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ có sức liên tưởng mạnh mẽ, ông hết đưa người đọc đi từ quá khứ đến hiện tại, rồi lại dẫn từ những đau thương vất vả đến hạnh phúc, vui vầy, đưa nhận thức của con người từ sách vở khô khan bước ra đến với thực tiễn, lái từ tình cảm gần gũi, thân thuộc sang đến cảm xúc hào hùng, bi tráng. Đặc biệt trong Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chính cái chất trữ tình để thể hiện tính triết luận sâu sắc với chất liệu văn hóa dân gian mà có người đã nhận xét rất đúng rằng “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ”.
Trước hết tính triết luận trữ tình trong Đất Nước thể hiện ở lòng tự hào về cội nguồn dân tộc.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Xuất phát từ tư tưởng triết lý hài hòa âm, dương, vạn vật đều có đôi có cặp của người Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã dẫn ta về với truyền thuyết Lạc Long Quân và u Cơ, với chiếc bọc trăm trứng nở ra trăm người con. Tuy nhiên nhà thơ sẽ không chỉ đơn giản dừng lại ở việc gợi nhắc lại truyền thuyết mà ở đoạn thơ trên còn có một sự liên tưởng sâu xa. Trong văn hóa cổ xưa hình ảnh Chim vẫn luôn tượng trưng cho bầu trời phương Nam, điều này xuất phát từ những truyền thuyết về việc chim Lạc bay về phương Nam mở đất, thêm vào đó hình tượng Rồng lại là thần thú của đại diện cho các quốc gia phương Đông. Như vậy sự tương ứng giữa hai chính thể Nước – Chim và Đất – Rồng cùng với sự tích Lạc Long Quân – u Cơ giải thích về dòng giống Tiên, Rồng của người Việt đã trở thành một sự suy luận hợp lý làm tiền đề khơi mào cho khái niệm hoàn chỉnh của về Đất Nước, một nước Nam ở phương Đông. Quả thật là một tư tưởng triết luận sâu sắc.
Nguyễn Khoa Điềm cũng suy luận về cơ sở Đất Nước dựa vào chính nền nông nghiệp lúa nước đã có từ lâu đời ở nước ta trong câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/ Đất nước có từ ngày đó”. Chính nền văn hóa lúa nước đã dựng xây và hình thành nên Đất Nước, chi phối và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt của người Việt Nam. Từ chính những hạt thóc, hạt lúa nhỏ bé ấy đã làm nên Đất Nước, đã dựng xây nên một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, và ngày hôm nay nó đã mạnh mẽ trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới.
Không chỉ thế từ nền văn hóa lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với văn hóa làng, xã truyền thống rất đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”.
Mà theo như Nguyễn Khoa Điềm, theo phong cách triết luận của ông thì chính những con người dung dị, tầm thường, không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm nên Đất Nước, chính họ đã sống bình tâm, an lành, miệt mài lao động, xây xóm, dựng làng trên khắp mọi miền đất nước và rất nhiều xóm làng với những sinh hoạt đậm nét truyền thống như vậy đã làm nên một Việt Nam thuần nông chất phác.
Cũng từ nền văn hóa lúa nước Nguyễn Khoa Điềm lại liên tưởng đến mối liên quan giữa Đất Nước và nền văn hóa sông nước, một yếu tố điển hình của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Một lần nữa ta tách biệt Đất Nước thành hai yếu tố Đất và Nước, hai yếu tố tối cần trong nông nghiệp và trở nên rất gần gũi quen thuộc đối với mỗi người dân Việt, từ đó khái niệm Đất Nước trong tâm tưởng của mỗi người nông dân đã không còn trở nên quá xa lạ mà đã được Nguyễn Khoa Điềm lý giải một cách tinh tế, sâu sắc. Cuộc sống của người trồng lúa đã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước, và sinh sống dựa vào môi trường sông nước, nên đôi khi trong tiềm thức Tổ quốc hay quốc gia cũng chỉ gọi ngắn gọn bằng một chữ Nước mà vẫn đầy đủ ý nghĩa.
Phong cách triết luận của Nguyễn Khoa Điềm còn nằm ở cái cách ông đưa các chất liệu văn học dân gian vào thơ của mình, mà ở đó Đất Nước được phô bày với tất cả những vẻ đẹp vừa đậm đà bản sắc vừa có chất lung linh huyền ảo từ những câu chuyện xa xưa vận vào. Đó là một Đất Nước bước ra từ màn sương khói xa xăm của truyền thuyết, thần thoại và ca dao cổ.
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Và cả trong “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để gợi nhắc về những nét tính cách thủy chung, son sắt của người Việt, một chất liệu đã từng nằm trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, nét tính cách đẹp ấy góp vào truyền thống của dân tộc để dựng xây nên Đất Nước. Và rồi Đất Nước cũng bước ra từ những câu chuyện cổ tích từ những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” rất thân thương và gần gũi với mỗi con người ngay từ thuở còn nằm ngửa trong nôi, nghe mẹ ru hời.
Đất Nước cũng hình thành từ những phong tục tập quán lâu đời của người Việt, đó là một thành tố quan trọng để hình thành nên một quốc gia, là nét đặc trưng để phân biệt với các dân tộc khác, là lòng tự tôn của dân tộc. Mà trong Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đã đề cập đến bằng những câu thơ rất hay có sự liên kết, gắn bó với nhau thành một chỉnh thể về phong tục tập quán của dân ta. Từ miếng trầu trong “Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà ăn”, khiến người ta liên tưởng đến tục ăn trầu nhuộm răng có từ thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng hướng về một câu chuyện cổ tích nổi tiếng Tấm Cám, như vậy chính ra Đất Nước gắn với miếng trầu vừa đủ cả hai yếu tố cổ tích và yếu tố hiện thực trong phong tục tập quán của dân tộc. Rồi từ tục ăn trầu nhuộm răng với quan niệm “Cái răng cái tóc là góc con người” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục mở rộng suy tưởng của mình sang đến tục búi tóc thấp của đàn bà, con gái Việt trong “Tóc mẹ thì thì búi sau đầu”. Không chỉ dừng lại ở đó, từ mái tóc của người mẹ nhà thơ tiếp tục liên kết đến cách đặt tên cho đứa con trong câu “Cái kèo, cái cột thành tên”, trong ý thức tâm linh của người Việt xưa việc đặt tên con càng xấu thì đứa trẻ càng không thu hút sự chú ý của quỷ thần, ma mãnh để mà bình yên lớn lên, tình cảm yêu thương gắn bó trong gia đình cũng được hiện lên một cách nổi bật như vậy. Có thể nói rằng những nét phong tục tập quán độc đáo mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào triết luận thơ đã làm cho chỉnh thể Đất Nước càng thêm vững chắc, sâu đậm, thêm linh thiêng, xứng danh một đất nước hơn 4000 năm văn hiến với những vẻ đẹp căng tràn chất hiện thực lẫn chất huyền thoại.
Bên cạnh tư tưởng triết luận Đất Nước được hình thành và tạo dựng trong các phạm trù văn hóa truyền thống, thì Nguyễn Khoa Điềm còn mở ra một hình tượng Đất Nước được gây dựng từ những truyền thống lịch sử xuyên suốt từ thuở dựng nước cho đến tận ngày hôm nay và nó được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong Đất Nước. Thứ nhất Đất Nước của một dân tộc có truyền thống đánh giặc giữ nước, truyền thống nổi bật và kiêu hùng làm nên phẩm giá quý báu của cả một dân tộc “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc”.
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Và phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ, chiến đấu không ngừng nghỉ, căm ghét giặc cỏ, thói mọi vô cùng, quyết tâm đánh đuổi đến cùng:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Không kể là đàn bà hay đàn ông, họ đều sẵn sàng chiến đấu sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đất Nước mà không nao núng. Truyền thống ấy đã có từ thời Phù Đổng Thiên Vương thuở vua Hùng thứ 6 chiến thắng giặc n xâm lược, rồi cưỡi ngựa sắt trở về trời để lại những dấu tích huy hoàng, oanh liệt.
Và cuối cùng tổng kết lại, tất cả những quan điểm triết luận của Nguyễn Khoa Điềm đều hướng về một quan niệm dân chủ truyền thống: Đất nước của nhân dân, do nhân dân gây dựng mà có. Chính bản thân ông khi nói về Trường ca Mặt đường khát vọng ông cũng thể hiện rất rõ ràng tư tưởng triết luận, chính luận xuyên suốt được ông dùng phong thái trữ tình diễn đạt, rằng: “Ý tưởng xuyên suốt của tôi trong chương này là thể hiện một Đất nước của nhân dân, do đó, từ ngữ, hình ảnh, chất liệu thơ được sử dụng đều nhằm làm rõ ý tưởng này”. Ở đó hình ảnh nhân dân đã hiện lên thật mạnh mẽ, kiêu hùng và thẳng thắn, chân thật “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại/Để Đất Nước này là Đất nước của Nhân dân”. Chính nhân dân đã làm nên Đất Nước, gây dựng đất nước bằng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, bằng những chất liệu văn học dân gian, bằng phong tục tập quán lâu đời. Từ hình tượng Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm làm nổi bật hình tượng nhân dân một cách vừa cụ thể vừa khái quát hóa, đặt nhân dân vào trung tâm của Đất Nước, điều ấy thể hiện trong một đoạn thơ khá dài:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Về yếu tố trữ tình, chủ yếu thể hiện trong giọng điệu thơ tha thiết, thấm đẫm phong vị của nền văn hóa truyền thống dân tộc. Lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn đã trở thành cảm hứng chính chi phối toàn bộ nhịp thơ, là cơ sở để Nguyễn Khoa Điềm tìm về tận cội nguồn, dốc hết sức liên tưởng, triết luận để phác họa ra một Đất Nước hòa chỉnh từ văn hóa đến lịch sử và cả nhân dân. Từ lòng yêu nước thiết tha nồng đượm ấy đã mở ra những tình cảm khác ấy là lòng yêu và trân trọng những giá trị văn hóa có bề dày lịch sử, tấm lòng tự hào trước những phẩm chất tốt đẹp của người Việt, trước thiên nhiên, trước những thành tựu do nhân dân gây dựng nên từ hạt gạo nhỏ bé cho đến Đất Nước lớn lao. Cuối cùng chính là tấm lòng biết ơn sâu sắc, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng và gìn giữ của Nguyễn Khoa Điềm trong từng câu thơ.
Bằng phong cách triết luận, trữ tình sâu sắc Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một Đất Nước với dáng hình mới mẻ, khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, một Đất Nước nồng đượm phong vị của chất liệu văn hóa dân tộc, của hơi thở lịch sử kiêu hùng. Một Đất Nước gần gũi và chân thực, các yếu tố cấu thành có sự liên kết chặt chẽ, văn hóa và lịch sử vừa tách rời vừa thống nhất cùng với nhân dân làm nên Đất Nước – hai tiếng yêu thương.
Phân tích phong cách triết luận trữ tình trong Đất nước – Mẫu 2
Nếu như bắt rễ được vào trí nhớ trong hình thái toàn vẹn là lẽ sống còn của thơ, thì các bản trường ca quả đã gặp nhiều khó khăn. Dân mình trong một quy mô lớn mà đi tới toàn bích, thật thiên nan vạn nan. Đọc một trường ca nào đó, thường người ta hay nắm cái Tứ lớn, cái Cốt chung, rồi nhớ vài mảng, vài đoạn lẻ hay nhất đây đó, chứ khó nạp vào bộ nhớ tất tật. Nói khác đi, trường ca thường sống bằng cách xé lẻ bàn thân mình. Việc người đọc dường như quên đi phần lớn các chương khác của “Mặt đường khát vọng”để chỉ nhớ mỗi chương “Đất nước”, phải chăng là thuộc vào cái quy luật nghiệt ngã đó? Nhưng một bản trường ca dài rộng mà ghim vào trí nhớ người đọc được cả một chương lớn chẳng phải đã là thành công sao! Nghĩ thật vui: cùng viết về một đề tài, cũng là thành công tiêu biểu cho thi ca của hai cuộc kháng chiến, nhưng, nếu “Đất nước’ của Nguyễn Đình Thi được hình thành từ hai “tiền thân” nhỏ hơn, thì “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm lại vỡ ra từ một chỉnh thể lớn hơn. Vì điều đó, chúng đã cùng sống bước vào kí ức của người yêu thơ? không hẳn. Còn bời một tương phản khác đáng kể hơn: Nguyễn Đình Thi chừng như đã hoà tan suy tư của mình vào cảm xúc Trong khi ở Nguyễn Khoa Điềm cảm xúc muốn kết tinh lại trong suy tư Người ta có thể nói đến hiện tượng đốt cháy trái tim lên thành trí tuệ và đốt cháy trí tuệ lên thành tình cảm. Phải chăng hai tác giả kia với hai thi phẩm của mình đã phần nào ứng với hai suy cảm đó? Sự chuyển hóa trong tư duy thơ ở thi phẩm Nguyễn Khoa Điềm có thể gọi là trữ tình triết luận.
Ai đã đọc “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đểu thấy nể độc đáo trước nhất thuộc về chất liệu của nó: chất liệu văn hoá dân gian
Nhưng tìm đến chất liệu này cũng là hướng đi của không ít cây bút. Trước đó ở nhưng mức đậm nhạt khác nhau, có thể thây chất liệu này có mặt trong “Bài thơ quê hương” của Nguyễn Bính, hay “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ những thi phẩm gần gũi về đề tài Cho nên, tính độc đáo thực sự phải nằm ở việc xử lí chất liệu ấy Nguyễn Khoa Điềm đã xử lý bằng lối suy cảm triết luận trữ tình vậy.
Trước tiên, cả chương thơ được tổ chức thành một cuộc tâm tình của một đôi trai gái. Họ hẹn hò với nhau, tâm sự, tự tình. Những khi riêng tư nhất, cần phải nói những chuyện sâu kín nhất, họ lại nói về Đất nước. Đất nước trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả dân tộc. của từng con người, của mỗi lứa đôi. Qua đó Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều này: biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tâm tình, chuyển hoá ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, đời tư hoá một chủ đề sử thi. Là cuộc tâm tình, nên lối biểu hiện nghiêng về suy ngẫm, mỗi lời thơ kết tinh bao suy tư chiêm nghiệm của thi sĩ. Lời tâm sự lứa đôi đấy luyến ái (ở đây chủ yếu là lời người con trai bỗng trở lên thiêng liêng trang trọng, như là một tâm nguyện của một thế hệ. Đọc theo chương thơ, giọng tâm tình sâu đậm luôn cất lên mặn mà đằm thắm : “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, “Em ơi em hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước”, “Nhưng em có biết có những người con gái con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”, “Em ơi em đất nước là máu xương của mình”. Có thể nói đây là môi trường trữ tình dành cho cả chương thơ, môi trường ấy quyết định giọng điệu cảm xúc của toàn thi phẩm: giọng trầm lắng trang trọng. Tuy nhiên đây chưa phải là điều thật quan hệ đến chất liệu văn hoá dân gian
Điểm mấu chốt khiến tác giả mài sắc lối suy cảm triết luận và huy động vốn văn hoá dân gian hết sức bề bộn của mình chính là một cảm hứng riêng về cái đề tài chung ấy. “Đất nước là gì? Đất nước của ai dường như đó là những câu hỏi xoáy sâu vào trong niềm trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm. Nó đòi được trả lời. Để tìm kiếm câu trả lời, thi sĩ đã dùng trí tuệ đốt cháy những cảm xúc của mình thành những ngẫm ngợi, những đúc kết, có tầm khái quát cao sâu, đã dùng một suy cảm vừa giàu triết lí vừa thơ mộng để nhào nặn tái tạo lại toàn bộ vốn văn hoá nhân gian của mình đặng lắng nghe từ cao biểu tượng dân gian quá ư quen thuộc những tiếng nói hết sức bất ngờ, những nghĩa lý như chưa từng nghe thấy. Và tiếng nói tập trung nhất của mọi biểu tượng văn hoá dân gian mà thi sĩ nghe thấu chính là: Đất nước ở trong ta. Đất nước ở quanh ta và Đất nước của nhân dân – “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất nước/ Khi hai đứa cầm tay Đất nước hài hoà nồng thắm/ Khi chúng ta cầm tay mọi người/Đất nước vẹn tròn to lớn”, “Đất nước của nhân dân/Đất nước của ca dao thần thoại”… Vì thế, dù muốn dù không, sự sắc sảo của một tư duy đã giúp thi sĩ đột phá vào chiều sâu của vấn để triển khai sự trả lời của mình trên những bình diện cơ bản nhất cấu thành một Đất nước. Toàn bài là một dòng tâm sự tuôn chảy khá tự nhiên phóng túng. Nhưng đúng là nhìn sâu vào cái dòng chảy luôn có xu hướng tràn lan ấy vẫn thấy suy tư của người làm thơ xoáy vào ba bình diện chính là: bề rộng không gian lãnh thổ, chiều dài thời gian lịch sử và bề dày văn hoá. Ba bình diện ấy đan xen chuyển hoa sang nhau trong cùng một dòng chảy tràn trề trào ra từ một bầu tâm huyết bỏng cháy đối với đất nước mình. Chính điều này cho thấy rõ lối suy cảm triết luận trữ tình ở Nguyễn Khoa Điềm ở đây đã đạt đến độ nhuần nhuyễn thế nào.
Nét chủ đạo trong tư duy triết luận trữ tình là đào sâu cái bản chất của các sự vật dưới dạng những biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy chuyển động dựa trên mạch logic biện chứng với những mối liên hệ thật bất ngờ kỳ thú. Câu thơ định nghĩa ở đây thật lợi hại, nó vừa là những mệnh đề triết học vừa là những hình tượng thơ truyền cảm. Hình dung về sự sinh thành của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm thấy nó là sự sinh trưởng của Đất và Nước, cùng sự sinh sôi của các địa danh. Tìm kiếm văn hoá, thi sĩ tìm thấy những giá trị văn hoá lớn lao ẩn ngay trong những vật phẩm nhỏ nhoi tầm thường… Ở đâu cũng loé sáng những phát hiện, những khám phá bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào, thì hai thành phần khởi đầu, hai “nguyên tố”, hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đểu phải là Đất và Nước. Hai nguyên tố này kết hợp với nhau để rồi từ có mà sinh thành cái cơ thể đất đai, nước non, xứ sở. Nguyễn Khoa Điềm đã suy cảm về lãnh thổ bắt đầu từ hai ” nguyên tố” ấy .
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Chỉ bằng trực cảm cũng có thể thấy đoạn thơ trên là một loạt những định nghĩa bằng thơ, chúng là sản phẩm của một tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca. vừa mang tính huyền thoại, vừa thấm đượm phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm. Một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất và Nước cũng đứng tách riêng thành hai chữ, nhưng đến khi Anh với Em hò hẹn, để hợp lại thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy chẳng phải Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con người hay sao ? Từ đó bắt đầu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cả Đất Nước dường như cũng sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp, trong đó tình yêu đôi lứa đã hoà hợp làm một với tình yêu non sông đất nước. (Xin mở một ngoặc đơn để ghé nhìn sang Nguyễn Đình Thi. Khác với ở Nguyễn Khoa Điềm, hai biểu tượng làm công cụ chính để cho tác giả suy cảm về “Đất nước” lại là Mặt đất và Bầu trời). Cứ thế Đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả tình yêu của phạm vi đôi lứa. cả tình yêu trong phạm vi cộng đồng. Tư duy triết luận cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành, trưởng thành, mở mang của toàn thể Đất Nước:
Đất là nơi con chim Phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá Ngư Ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lọc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Song song với quá trình hình thành Đất và Nước để tạo ra địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đặt, tên làng, tên núi, tên sông là những cuộc đời; mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sống đích thực của con người. Vì thế, khi địa danh lan đi đến đâu thì đất đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Lan theo những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đã dựng lại được cả diện mạo của non sông đất nước. Mỗi địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi Bút non Nghiên. Hòn Vọng Phu Hòn Trống Mái, Vịnh Hạ Long, Sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen. Bà Điểm… Mỗi địa danh là một cuộc đời, mỗi cuộc đời hóa thân thành sông núi:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Điều đó cũng có nghĩa: chính Nhân Dân đã gây dựng, mở mang, truyền giữ đất nước này.
Lối suy cảm triết luận trữ tình trước khi tác động vào trái tim người đọc, thường khi phải vòng qua trí tuệ của họ. Hay như Chế Lan Viên nói: Tư duy phải đi trước một bước. Cách tác động phổ biến nhất (hữu hiệu nhất?) của nó phải chăng là tạo ra các nghịch lý? Các chân lý thi ca thường đi vào sự tiếp nhận của người yếu thơ triết luận trong y phục nghịch lý. Người ta không khỏi ngỡ rằng. Nghĩa là câu thơ kia có một phút ngập ngừng. Nhưng sau phút ngập ngừng bên ngưỡng cửa của sự tiếp nhận, nó bước thẳng vào ký ức người ta rồi ờ lì, bám rễ vào tâm khảm. Cho nên, nghịch lý (hay hình thức có tính phi lý) là sự hiện hình phổ biến cho những suy cảm ở thi phẩm này. Tôi muốn nói đến những câu thơ khi Nguyễn Khoa Điềm trầm tư triết luận về Văn hoá.
Thống nhất với lối viết về các bình diện bề rộng không gian, chiều dài thời gian – ghi công cho những người vô danh, nghiền ngẫm về bề dày văn hoá, thi sĩ này cũng không nhắc đến các công trình nổi danh thuộc nền văn hoá bác học. Không kế những công trình kiến trúc như Chùa Một Cột, Chùa Bút Tháp …, không kể những công trình điêu khắc như Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, Mười tám vị La Hán Chùa Tây Phương… cũng không điểm đến những tác phẩm văn chương bất hủ như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên v.v.„ Đó cũng là những công trình hết sức tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đó là thứ Văn hoá dễ thấy, nó cũng giống những người anh hùng hữu danh lưu trong sử sách, ở đây, Nguyễn Khoa Điềm quan tâm nhiều hơn đến thứ văn hoá khác: những sản phẩm văn hóa nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, quen thuộc đến quen nhàm trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường dửng dưng quên lãng Đất nước đã được phát hiện từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở chốn thôn quê được phát hiện từ cái kèo. cái cột nôm na. từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách làm ra hạt gao dãi dầu một nắng hai sương, từ cách bới tóc sau đầu của những người mẹ Việt. Tất cả khiến cho người đọc sững sờ: hoá ra chẳng phải nhọc công tìm kiếm Đất nước ở đâu xa. Trái lại, đất nước ở quanh ta. Đất nước ở trong ta, và ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất.
Song, có lẽ bất ngờ hơn cả vẫn là phát hiện này:
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ là một nghịch lý, phi lý. Đất nước là một khái niệm lớn lao, thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng nhỏ nhoi, tầm thường, không có gì quan trong? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là phái ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bắt đầu với miếng trầu của “bây giờ”? Câu thơ xem ra thật phi logic nhưng ngẫm nghĩ ta sẽ thấy rằng cái phi logic kia chỉ là hình thức của câu thơ. Tác giả đã mượn một hình thức phi lý để chứa đựng một chân lý. Đóp là: một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi, vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói cách khác không có những cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu ngỡ như vô nghĩa kia đều gánh trong nó một phần Đất nước. Mỗi miếng trẩu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi ! Mỗi cái hiện diện trong hôm nay, của bây giờ, phía đằng sau có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử vẫn đang hiện diện đến hôm nay.
Những câu thơ như thế thật là một sự phát kiến bất ngờ, khiến người đọc phải giật mình. Nó không chỉ là một sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng Nếu không có sự trân trọng với tất cả những gì mà tổ tiên chắt chiu, chi chút, gìn giữ trong mấy nghìn năm qua, thì mọi thứ triết luận dù sắc sảo đến đâu cũng không thể có được những câu thơ có thể đánh động vào tầng sâu của tâm linh người đọc đến thế được. Mối giao kết giữa yếu tố trữ tình và yếu tố triết luận trong mọi suy cảm thi ca chân chính chẳng phải là tuân theo cái cơ chế đó sao?