Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ (Dàn ý + 6 mẫu), Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ là tài liệu vô cùng bổ ích
Tài Liệu Học Thi xin giới thiệu đến quý thầy cô giáo và các em học sinh cùng tham khảo dàn ý chi tiế và bài văn mẫu lớp 12: Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ của nhà văn Tô Hoài được chúng tôi tổng hợp chi tiết, chính xác và hay nhất.
Hy vọng đây là tài liêu bổ ích giúp mang lại cho các em học sinh tài liệu học tập tốt nhất, giúp các bạn cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm, thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo và tải mẫu tại đây.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ
- 2 Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 1
- 3 Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 2
- 4 Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 3
- 5 Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 4
- 6 Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 5
- 7 Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 6
Dàn ý phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ
I. Mở bài:
– Sơ lược về tác giả Tô Hoài.
– Giới thiệu Vợ chồng A Phủ và tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ.
II. Thân bài:
* Cuộc đời Mị:
– Số kiếp con dâu gán nợ, sống cuộc đời của một nô lệ, trơ lì về cảm xúc.
– Làm lụng quanh năm suốt tháng, không ngơi nghỉ, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, tủi nhục và đắng cay.
* Tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã thức tỉnh tâm hồn ham sống, ham tự do của Mị:
– Tiếng sáo gọi bạn đã làm sống dậy trong tâm hồn Mị những ký ức về một thời con gái tươi đẹp, hạnh phúc bên người yêu, được nhiều trải làng để ý theo đuổi,…
=> Sự thức tỉnh của tâm hồn vốn chai lì vì cái khổ.
– Mị thấy đớn đau, xót xa và tức tưởi cho thân phận con dâu gán nợ khốn khổ của mình => Phản kháng: Uống rượu, thổi kèn lá, mặc đồ đẹp để đi chơi, phát hiện ra mình còn trẻ,…
– Bị A Sử trói, sợ hãi khi nghĩ về cái chết, thấy đau đớn thể xác => Khao khát được sống mãnh liệt.
* Trong đêm cứu A Phủ và giải thoát cho cuộc đời mình:
– Thờ ơ, tỏ vẻ không quan tâm đến sống chết của A Phủ.
– Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
– Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A Phủ, Mị càng nghĩ lại càng thấy không cam lòng, thấy đau đớn thay cho một kiếp người.
– Giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị.
=> Mị không còn sợ nữa, không sợ cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống. Cứu A Phủ cũng là cứu chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị.
– Mị đã thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ.
=> Biểu hiện rõ nét nhất về khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
III. Kết bài:
– Nêu cảm nhận.
Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 1
Tô Hoài là một nhà văn lớn, một tác giả lớn của nền văn học Việt Nam với gia tài các tác phẩm đồ sộ bao gồm nhiều thể loại khác nhau từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dài, hồi ký, tiểu luận, kịch bản phim,… Trong hơn 60 năm cầm bút và miệt mài lao động, chiến đấu Tô Hoài xứng đáng được vinh danh là một trong số những tác giả tiêu biểu có đóng góp to lớn trong sự đột phá, phát triển của nền văn học hiện đại. Đối với Tô Hoài “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói lên sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”, thế nên ông là một người kính nghiệp lắm viết cái gì cũng ưng tìm tòi, khám phá, thích viết những cái có thật trong thực tế, những gì ông đã từng trải nghiệm, biết đến. Chính bởi cái phong cách sáng tác tỉ mỉ, chuyên cần ấy mà việc thích nghi với điều kiện của từng vùng đất khác nhau cũng trở nên dễ dàng hơn với Tô Hoài, đồng thời cũng hình thành nên trong tâm hồn tác giả những xu hướng sáng tác mới. Tiêu biểu như đề tài về Tây Bắc và những con người nơi đây, phải nói rằng thật không dễ dàng gì để một tác giả miền xuôi có thể viết ra những câu chữ mang đậm phong vị miền núi như vậy. Nhưng với Tô Hoài thì khác, ngoài Hà Nội mảnh đất thân thương đã đi sâu vào máu thịt thì có lẽ vùng Tây Bắc là mảnh đất mà ông tha thiết hơn cả, nói như Chế Lan Viên là “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, đặc biệt là trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, phải nói Tô Hoài đã dành một tình cảm rất đặc biệt cho các dân tộc miền núi phía Bắc, trân trọng, yêu thương và cảm thông sâu sắc. Có lẽ vì những tình cảm ấm nồng ấy mà cái cách Tô Hoài miêu tả nội tâm của nhân vật Mị trong đêm giải cứu A Phủ và giải cứu cuộc đời mình cũng trở nên sâu sắc và ấn tượng vô cùng.
Nền văn học Việt Nam trước cách mạng và sau cách mạng của Việt Nam ta từ trước tới nay, có thể nói một trong những đề tài phổ biến nhất chính là đề tài người nông dân cùng khổ dưới chế độ thực dân phong kiến. Ví như Nam Cao với Lão Hạc, Chí Phèo, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, Kim Lân với Làng, Vợ nhặt, Ngô Tất Tố với Tắt đèn,… Thế nhưng đến với Tô Hoài người ta lại nhìn ra một màu sắc khác ở đề tài vốn xưa cũ này, ấy là số phận của những con người trên rẻo cao Tây Bắc dưới sự thống trị của thần quyền và cường quyền, mà cụ thể đó là hình tượng người phụ nữ. Mị là một cô gái con nhà nông dân có món nợ truyền kiếp với nhà thống lý Pá Tra từ đời cha mẹ Mị, rồi cuối cùng cô phải chịu làm vợ lẽ cho con trai của nhà đó là A Sử. Mang tiếng làm vợ cho nhà giàu có nhất vùng thế nhưng cuộc đời của cô lại là một chuỗi ngày bi kịch và khổ đau. Mị không có hạnh phúc, Mị phải sống những tháng ngày như địa ngục, Mị muốn ăn lá ngón rồi chết quách đi, thế nhưng Mị lại không thể chết, bởi cô chết rồi món nợ của cha ai sẽ trả. Đến khi cha Mị đã mất thì Mị lại không còn thiết tha đến việc chết nữa bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị sống dưới danh phận con dâu gán nợ nhưng thực tế là làm nô lệ suốt kiếp cho nhà thống lý Pá Tra, phải làm lụng quanh năm suốt tháng quần quật không ngày nghỉ ngơi. Đến độ Mị cảm thấy mình không còn là con người nữa bởi “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”, đắng cay đến cùng cực. Cuộc đời của Mị lầm lũi giống như con rùa trong xó cửa, im lặng và tù túng, trơ lì trong lớp mái dày vô tri vô giác, không thiết tha đếm xỉa gì cuộc đời này nữa.
Cứ ngỡ rằng cái tâm hồn vốn chai sạn vì cái khổ ấy đã chết hẳn, thế nhưng cuộc đời của Mị lại lần nữa được sống lại, sống lại những cảm xúc của một người con gái đang độ xuân sắc, xinh đẹp và có tài thổi sáo. Đêm tình mùa xuân ấy, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi của ai đang gọi bạn, đã làm sống dậy trong lòng Mị những ký ức xa xăm thuở Mị còn là con gái, với tiếng sáo say lòng người “có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác”. Tiếng sáo lảnh lót mùi mẫn văng vẳng trong đêm tối, khiến Mị thấy thổn thức, rồi Mị khóc, nước mắt Mị ứa ra từng hàng, chẳng biết đã từ bao lâu rồi Mị không khóc như vậy. Mị xót xa, Mị ấm ức, tức tưởi cho cái cuộc đời đầy rẫy bất hạnh của mình, Mị thấy đắng cay, thấy tức giận, Mị muốn vùng lên phản kháng, Mị không muốn sống cái kiếp người như cỗ máy làm lụng biết nói này thêm ngày nào nữa. Mị muốn được sống như một con người, biết đớn đau, biết mệt mỏi, cũng được yêu thương, được có niềm vui như bao con người ngoài kia. Điều ấy chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ rằng tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã sống lại, nồng nàn, mãnh liệt bởi tiếng sáo – âm thanh sự sống, đã thức tỉnh tâm hồn và trái tim vốn còn tươi đẹp và khao khát cuộc đời của Mị sau những tháng năm bị chôn vùi, chai sạn bởi cái khổ, cái đắng cay. Mị bắt đầu vùng lên, Mị làm việc mà từ khi về làm dâu Mị không dám làm, không được làm, Mị uống rượu “ừng ực từng bát”, uống như chưa từng được uống bao giờ, uống đến say khướt, rồi lấy lá làm kèn để thổi, để quay về những tháng ngày xa xăm, những ngày tháng hạnh phúc nhất cuộc đời Mị. Thế rồi, vài chum rượu, với tiếng kèn lá làm sao có thể bù đắp được cái thiếu hụt trong lòng Mị bao năm qua, cái nỗi khao khát sự sống mãnh liệt trong lòng của Mị. Mị muốn đi chơi, Mị muốn mặc quần áo đẹp, muốn thổi sáo, nhảy múa, bởi Mị nhận thức được một cách rất rõ ràng rằng “Mị vẫn còn trẻ”, Mị không muốn chôn vùi thanh xuân của Mình trong căn buồng chỉ có một ô cửa sổ bé bằng bàn tay như nhà tù ấy. Mị muốn sống như một con người đàng hoàng, thế nhưng thật xót xa, thật đắng cay tủi nhục, giữa lúc niềm khao khát sống mãnh liệt, lòng yêu cuộc đời của Mị đang phơi phới. Thì A Sử như một kẻ sát nhân, hắn muốn giết chết tâm hồn Mị một lần nữa, nó không muốn Mị được làm người, được vui sống, nó trói Mị vào cột nhà bằng cả rổ dây gai, rồi bỏ đi chơi, để lại Mị với nỗi tủi hờn, đớn đau cùng cực. Rồi Mị nhớ đến việc nhà này đã từng có một người đàn bà bị trói đến chết, Mị bàng hoàng, sợ hãi, chưa lúc nào Mị lại khao khát sự sống như lúc này “Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt”. Cái nỗi sợ, cái đau đớn xác thịt ấy chứng minh rằng Mị vẫn còn sống, cả tâm hồn lẫn thể xác, cái ý chí sống còn trong lòng Mị đã mạnh mẽ trở lại, không còn chai lì, lầm lũi nữa. Nó đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Mị, từ việc muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đến việc sợ hãi cái chết và khao khát được sống sót một cách mãnh liệt. Là tiền đề để Mị giải cứu A Phủ và chính cuộc đời mình ra khỏi đống bế tắc và áp bức của cường quyền và thần quyền.
Khi đối diện với A Phủ một chàng trai bị đánh, bị trói đứng giữa sân ngay gần đống lửa Mị vẫn thường hay sưởi ấm, nhưng Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy, cũng thế thôi”. Nhưng có lẽ ít ai biết được bên ngoài cái vẻ thờ ơ, mặc kệ sống chết ấy, trong lòng Mị đã có những thay đổi lớn, Mị đã không còn là người đàn bà lầm lũi, trơ lì với cái khổ, cái đớn đau thể xác tinh thần bắt đầu từ đêm tình mùa xuân ấy, từ khi Mị nghe thấy tiếng sáo cất lên, khi Mị thấy đau đớn, thấy sợ cái chết. Mị đồng cảm và xót thương cho số phận của A Phủ như chính cuộc đời mình, những con người không có quyền quyết định số phận cuộc đời, để biết mặc cho người ta chà đạp áp bức, rồi chết đi trong tay của bè lũ thống trị tàn ác. Đặc biệt khi mị trông thấy giọt nước mắt của người đàn ông ấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”, Mị lại nhớ đến cuộc đời đầy vết sẹo của mình, Mị phẫn nộ, Mị căm tức nhà thống lý Pá Tra, những kẻ độc ác, chúng nó bắt “người ta chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị thấy xót xa, Mị thấy thương cảm cho A Phủ, bởi Mị đã là dâu con, chết ở đây cũng dành, còn A Phủ có tội gì mà phải chịu cảnh như Mị. Mị càng nghĩ lại càng thấy không cam lòng, thấy đau đớn thay cho một kiếp người. Và có lẽ rằng giọt nước mắt của A Phủ, giọt nước mắt của một con người vô tội, một con người khao khát sự sống, tựa như giọt nước tràn ly đã thôi thúc sự phản kháng, lòng trắc ẩn trong tâm hồn Mị. Mị đâu phải lũ người độc ác kia, Mị không chai lì và tàn nhẫn như thế, Mị phải cứu người đàn ông này, A Phủ xứng đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp chứ không phải là chết ở đây vì làm mất một con bò. Lúc này đây Mị không còn sợ nữa, không sợ cường quyền, thần quyền gì nữa, Mị trở nên mạnh mẽ, như một người hùng cắt dây trói cho A Phủ, Mị bất chấp tính mạng mình để anh được sống, bởi Mị nhìn thấy ở chàng trai ấy chính là cuộc đời bất hạnh của Mị. Cứu A Phủ cũng là cứu chính tâm hồn, cứu cuộc đời của Mị. Cảnh cuối có lẽ Mị đã thông suốt, Mị đã thật sự phản kháng, Mị vùng dậy chống lại số phận, Mị muốn làm chủ số phận của mình, Mị quyết định bỏ trốn theo A Phủ, bởi Mị biết rằng ở lại nếu không chết về thể xác, thì cũng là cái chết về tâm hồn, đều đớn đau và tủi nhục vô cùng. Chỉ có cách thoát khỏi nơi quỷ quái ấy thì Mị mới có thể được sống sống thật sự, được làm một con người thật sự. Đây chính là biểu hiện rõ nét nhất về khao khát được sống, niềm ham sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị, một con người vốn tưởng tâm hồn đã trơ lì như gỗ đá. Đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, dẫu có bị cái khổ, cái tuyệt vọng, sự tàn ác của tầng lớp thống trị chà đạp đến gần như chỉ còn một tàn than đỏ, thì chỉ còn một ngọn gió xuân, một tiếng sáo, một niềm thương cảm cho kiếp người đồng cảnh ngộ nó cũng có thể bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Vợ chồng A Phủ là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tô Hoài, cũng như nền văn học Việt Nam khi viết về các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc. Với tấm lòng yêu thương, trân trọng tha thiết, Tô Hoài đã khai thác một cách triệt để cuộc đời, số phận của những con người phải chịu sự thống trị tàn ác của thần quyền và cường quyền dưới chế độ thực dân phong kiến, thông qua biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật một cách tỉ mỉ và tinh tế. Đồng thời ông cũng bộc lộ được những vẻ đẹp đáng quý trong tâm hồn của nhân vật ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, khao khát tự do cháy bỏng, sức phản kháng, sự vùng dậy mạnh mẽ trong những con người nhỏ bé, tưởng như cam chịu số phận.
Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 2
Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp cho buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm người lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khoẻ mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lý do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lý trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lý ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lý muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hoá tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.
Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 3
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… và “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn đặc sắc nhất trích từ tập Truyện Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa thành công bức tranh hiện thực của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ bất đắc dĩ – Mị và A Phủ. Trong đó, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.
Trước tiên, chúng ta cần khái quát lại nội dung của truyện. “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính – Mị và A Phủ. Đó là hai con người trẻ trung, giàu sức sống, yêu đời và tài năng nhưng chẳng may lại trở thành nô lệ, mang lấy kiếp trâu ngựa, bị áp bức bởi bọn thực dân phong kiến mà điển hình ở đây là gia đình thống lý Pá Tra. Mị trước khi làm dâu là cô gái xinh đẹp, những ngày Tết “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, hiếu thảo “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”, tài năng “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Còn A Phủ tuy chịu mất mát từ nhỏ “Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Còn sót lại một mình A Phủ” nhưng lại có bản lĩnh hơn người “không chịu ở dưới cánh đồng thấp”. Bên cạnh đó, A Phủ còn là chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi “đã biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”, “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”…. Mị vì món nợ gia đình mà trở thành con dâu gạt nợ. A Phủ vì tội đánh A Sử mà trở thành nô lệ. Hai con người lương thiện phải chôn vùi cuộc đời tươi trẻ của mình dưới gầm trời nhà thống lý. Trong đêm tình mùa xuân, Mị đã tỉnh lại quá khứ tươi đẹp khi xưa nhờ men rượu và tiếng sáo. A Phủ vì để mất một con bò mà bị bắt trói đứng nhiều đêm liền. Trước tình cảnh đó, ban đầu Mị dửng dưng, vô cảm. Dần dần, lòng thương người trỗi dậy, Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả một cách sinh động, tài hoa.
Trước đêm cởi trói cho A Phủ, Mị là cô gái vô cảm. Như chúng ta đã biết, sau khi về làm dâu gạt nợ, thực chất là con ở không công nhà thống lí, Mị bị đày đọa về thể xác và tước đoạt về linh hồn. Tô Hoài đã nhiều lần so sánh hình ảnh Mị với loài vật không hơn không kém “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”… Sự chai lì cảm xúc đã in hằng lên gương mặt xinh tươi ngày trước đến mức Mị chẳng còn màng đến cái chết nữa bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Phải chi Mị còn muốn tự tử, phải chi Mị còn đau đớn bởi sự bất công, đày đọa của cuộc đời này thì ít ra, ta còn thấy Mị còn sót lại chút lí tưởng sống. Đằng này, Mị gần như từ bỏ, gần như buông xuôi, gần như chấp nhận sự phi lý, bất nhân của cuộc đời như một lẽ thường hằng. Đến đêm tình mùa xuân đến, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy nhưng lại nhanh chóng bị dập tắt bởi sự bạo tàn của A Sử “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị”. Bị trói đứng cả đêm nhưng Mị vẫn nghe hơi rượu, nghe tiếng sáo, vẫn giật mình cựa quậy khi nhớ câu chuyện rùng rợn ngày trước “ở nhà thống lý Pá Tra có một người trói vợ trong nhà rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Ý thức về sự sống trỗi dậy nhưng có vẻ còn quá yếu ớt để đòi hỏi một sự giải thoát, một cuộc cách mạng.
Gặp A Phủ bị gia đình thống lý Pá Tra trừng phạt tàn nhẫn – trói đứng ngoài sân nhiều đêm liền nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Than ôi! Còn sự nhẫn tâm nào hơn! Mị từ cô gái vui vẻ, yêu đời nay trở thành kẻ lạnh lùng, vô cảm. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.
Trong lúc cởi trói cho A Phủ, tâm trạng Mị chuyển hóa từ vô cảm đến đồng cảm. Mị mơ hồ thấy tội, thấy thương cho A Phủ. Mị đặt ra nghi vấn cho kiếp nô lệ mà chàng trai bất hạnh kia phải gánh lấy. Mị nhớ đến đời mình như một điều tất yếu, một sự liên hệ giữa những người cùng gánh lấy cuộc đời bi kịch, cùng là những con người thấp cổ bé họng. Họ đã cam chịu bấy lâu nay, đã bị giày xéo thể xác lẫn linh hồn.
Chi tiết đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của Mị là giọt nước mắt của A Phủ “Ngọn lửa bập bùng sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Lòng nhân đạo trong Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra tội ác của kẻ thù, xót thương cho tình cảnh của người vô tội “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta cho đến chết, nó bắt mình cũng chết thôi”, “chúng nó thật độc ác”, “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, “người kia việc gì mà phải chết thế”…. Cô Mị vô cảm ngày trước giờ nhận ra sự phi lý trong kiếp đọa đày.
Từ đó, lòng thương người trong đã âm thầm mạnh mẽ lớn lên trong Mị, đưa Mị đến một quyết định táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự sống và cái chết gần trong tấc gang, buộc Mị phải thực sự đối đầu với sự lựa chọn. Hoặc là trở thành cái xác thay thế cho A Phủ, hoặc là mạo hiểm làm một cuộc giải thoát “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và khao khát tự do đã chiến thắng “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Bước chân của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi “Ở đây thì chết mất”. Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, thể hiện tiếng nói cứu lấy con người từ trong tận cùng đày ải, đau thương “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”.
Thông qua ba quá trình diễn biến tâm lí cơ bản: trước, trong và sau khi cắt dây cởi trói, Tô Hoài đã thể hiện được tài năng của bản thân thông qua ngòi bút khắc họa nhân vật. Từ ngoại hình đến tính cách, chân dung Mị và A Phủ hiện lên sinh động và mang đậm màu sắc của người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, người đọc còn được thấy rõ sự phản kháng, tranh đấu, vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối để tìm đến tự do, hạnh phúc trong chặng đời về sau.
Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Qua đó, ta thấy được con đường giải thoát, niềm tin và lý tưởng của các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau cách mạng nói chung.
Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 4
Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng từ trước cách mạng tháng Tám. Ông là một người có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. “Vợ chồng A Phủ” là một trong ba tác phẩm được in trong tập truyện Tây Bắc – tác phẩm được giải Nhất giải thưởng hội Văn nghệ Việt Nam từ 1954 – 1955. Đó là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào Tây Bắc năm 1952. Trong truyện ngắn, Tô Hoài không chỉ thành công trong việc xây dựng cốt truyện mà còn thành công trong việc khắc họa diễn biến tâm trạng nhân vật Mị. Điều này được thể hiện rõ nét qua cảnh cởi trói.
Mị vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác và tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà Thống Lí. Mị đành chấp nhận quay trở lại nhà Thống Lí để làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh.
Tưởng như những nỗi đau đớn, đày đọa về thể xác và tâm hồn đã khiến cho Mị trở nên thờ ơ và vô cảm nhưng Mị đã khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng khi cô cởi trói cho A Phủ. Hành động cởi trói ấy thực sự là hành động đầy bất ngờ và đột ngột. Nó bất ngờ và đột ngột là khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã có một thái độ dửng dưng, không chút động lòng. Đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết, Mị vẫn thản nhiên “thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lý là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần. Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến người khác. Thậm chí Mị còn đặt ra giả thiết nếu A Phủ trốn được thì Mị sẽ phải chịu trói thay cho A Phủ. Mị đã tự suy xét cho tình cảnh của mình nếu cha con nhà thống lí biết được A Phủ đã trốn thoát. Mị sẽ phải thế chỗ cho A Phủ và Mị sẽ “phải chết trên cái cọc ấy”. Có ai có thể dũng cảm đối mặt với cái chết. Khi tính mạng bị đe dọa, mấy ai có thể nghĩ cho người khác hay họ sẽ chỉ lo lắng cho chính bản thân mình làm sao để có thể sống sót, làm sao để không bị liên lụy. Đây là phản ứng hết sức bình thường của con người.Và ngay cả sau khi đã cởi trói cho A Phủ, Mị vẫn “đứng lặng trong bóng tối”. Không ai ngờ Mị sẽ cắt dây cởi trói cho A Phủ và chính bản thân Mị cũng vậy. Nó chỉ là một hành động nhất thời bộc phát mà chẳng có chút suy tính, nghĩ ngợi. Chính vì vậy mà nó mang đầy yếu tố bất ngờ và đột ngột.
Đột ngột và bất ngờ là vậy, nhưng hành động cởi trói cho A Phủ của Mị cũng là một hành động đầy tất yếu, logic. Nó tất yếu là bởi nó phù hợp với diễn biến tâm lí nhân vật cùng kết cấu truyện. Trong ánh lửa bếp bập bùng, Mị đã thấy được “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Đó là giọt nước mắt của một người đàn ông mạnh mẽ, gan góc, trượng nghĩa nhưng lại đang cận kề với cái chết – giọt nước mắt của sự bế tắc và bất lực. Đồng thời nó thể hiện rõ được khát vọng tự do, khát vọng sống, mãnh liệt của kẻ nô lệ đang cách cái chết rất gần. Chính giọt nước mắt ấy đã chạm đến sâu thẳm trong tâm hồn Mị, làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng – Mị thay đổi, Mị đã trỗi dậy tình thương để biết thương mình. Tô Hoài và các nhà văn nhân đạo luôn quan niệm nước mắt luôn có sức mạnh cảm hóa thanh lọc tâm hồn con người, nó giúp con người hướng thiện và sống trong tình yêu thương. Đây không chỉ là quan niệm mà đã trở thành một triết lý mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài. Có tình thương, Mị sẽ có những chuyển biến to lớn về tình cảm và hành động.
Mị nhớ lại đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị thấy thương chính bản thân mình. Thương cho mình đã phải chịu bao đắng cay, tủi nhục, thương cho cái số phận, cho cái kiếp sống của mình. Để rồi khi đã biết thương mình thì Mị lại thương đến những con người có cùng cảnh ngộ, số phận. Đây có thể nói là một quy luật tình cảm rất phù hợp với tâm lý, tính cách của con người bởi chỉ khi ta biết thương mình thì ta mới biết thương người. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp trước kia và Mị thấy thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ: “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Những người đàn bà ấy có số phận và cuộc đời bất hạnh, tủi nhục như Mị. Vậy nên Mị thương xót và đồng cảm cho những người đàn bà nhà thống lí Pá Tra cũng là điều dễ hiểu. Tô Hoài thực sự chứng tỏ là một nhà văn tài hoa khi hiểu rõ quá trình vận động của tâm lý, tính cách, tình cảm của nhân vật. Chính tình thương ấy đã giúp Mị nhận ra “chúng nó thật độc ác”. Sau bao tháng ngày câm lặng, chịu đựng những đày đọa, đắng cay Mị đã nhận ra bản chất độc ác vô nhân của nhà thống lí Pá Tra. Trước kia, Mị sống trong đau khổ, cơ cực nhưng chưa lần nào Mị lên tiếng phản kháng, đấu tranh vậy mà giờ đây cái tiếng nói tố cáo đã được cất lên. Một lời kết tội, tố cáo đanh thép đầy căm phẫn của người trong cuộc. Một lời kết tội ngắn gọn nhưng đã chứa đựng bao nỗi niềm và cả những tội ác của cha con thống lí đã gây ra. Đây có thể nói là kết quả tất yếu sao bao năm tháng đọa đày.
Tất cả những điều này đã dẫn đến hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Mị “rút dao” cởi trói, Mị thì thào một tiếng “đi ngay”. Một chuỗi hành động diễn ra một cách gấp gáp, quyết liệt, liều lĩnh, vừa đầy hồi hộp, vừa đầy lo sợ. Nhưng hành động cởi trói ấy không chỉ đơn thuần là hành động giải phóng cho A Phủ mà nó còn là hành động Mị tự cởi trói cho chính cuộc đời mình. Mị đã giải phóng chính mình khỏi tư tưởng thần quyền và cường quyền – điều mà đã giam hãm cuộc đời Mị. Mị giải thoát cho A Phủ cũng là giải thoát cho chính mình. Hành động cởi trói chính là kết quả của sự dồn tụ bao năm căm phẫn những đau đớn mà Mị đã phải chịu đựng ở nhà thống lí. Đây là hành động tất yếu, là đỉnh điểm cho một sức sống tiềm tàng, một khát vọng tự do mãnh liệt cao đẹp. Đồng thời nó còn phản ánh rõ một quy luật muôn thuở: có áp bức thì có đấu tranh. Có thể nói, hành động cởi trói phù hợp với tính cách, phẩm chất của nhân vật Mị. Trong Mị đã có sẵn một sức sống tiềm tàng, một lòng thương người, một sự phản kháng đối với cha con nhà thống lí. Tất cả đang chờ thời cơ để được gợi mở, bộc phát.
Cảm ơn nhà văn Tô Hoài đã đưa đến cho người đọc một áng văn hay đến tuyệt diệu như thế này!
Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 5
“Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi… Người kia việc gì phải chết” Đất là những dòng suy nghĩ xuất phát từ lòng đồng cảm yêu thương người cùng cảnh ngộ của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ. Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài, đoạn trích này đã khắc họa thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị, đồng thời thể hiện được một chân lí “Tình thương là một thứ năng lượng kỳ diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ. Đây cũng là một trong những thông điệp mà nhà văn Nam Cao đã gửi gắm trong tác phẩm “Chí Phèo” qua chi tiết Thị Nở nấu bát cháo hành cho Chí . Bát cháo của tình thương ấy đã làm thức tỉnh lương tri bị vùi dập trong góc cùng của trái tim Chí Phèo.
Nhà văn Tô Hoài có sự nghiệp trải dài gần bảy thập kỷ với hơn một trăm tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau. Bằng vốn hiểu biết sâu rộng, lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng giàu có, tác phẩm của ông có sức lôi cuốn mạnh với người đọc. Trong số đó có truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” . Tác phẩm được in trong tập “Truyện Tây Bắc” năm 1952, là kết quả chuyến đi thực tế khi ông theo bộ đội chủ lực tiến quân vào giải phóng Tây Bắc.
Truyện kể về số phận của những người dân bị áp bức bóc lột dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến miền núi . Nhà văn đã xây dựng thành công hai nhân vật tiêu biểu cho cuộc đời nô lệ, đó là Mị và A Phủ. Hai cuộc đời, hai tính cách nhưng chung số phận ấy đã vùng lên phản kháng để tự giải phóng cho mình. Qua số phận của Mị và A Phủ, Tô Hoài đã gửi đến đọc giả những nội dung tư tưởng mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Trong tác phẩm, Mị được Tô Hoài ưu ái xây dựng cho một hình ảnh hoàn hảo của cô gái Mèo. Mị quyến rũ, tài năng và hiếu thảo, nhưng nhà văn cũng khéo khoác lên đười Mị tấm áo choàng đầy bi kịch để có thể tạo ra một nhân vật đại diện cho số phận của những phụ nữ miền núi đầy đau khổ trong kiếp nô lệ cho bọn nhà giàu.
Nhà Mị nghèo, vì món nợ của cha. Mị phải chấp nhận kiếp làm dâu gạt nợ. Sau khi bị A Sử lừa bắt về cúng “trình ma”. Tuổi thanh xuân của Mị bị chôn vùi từ đó. Mị trở thành kiếp trâu ngựa, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” ở nhà thống lí Pá Tra. Ngày xuân năm ấy, Mị muốn đi chơi, Mị khao khát được sống đúng với tuổi thanh xuân của mình. Nhưng một lần nữa, Mị bị chính chống mình – A Xử trí vào cột một cách tàn nhẫn. Thế lực cường quyền, thần quyền giam hãm, trói buộc cuộc đời nàng trong những vòng dây áp bức bất công.
Từ đó, Mị không còn thiết tha gì đến cuộc sống. Mị trở nên vô cảm với mọi việc xung quanh. Mị hành động như một cỗ máy được lập trình sẵn với nét mặt không hề thay đổi. “Có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Những đêm mùa đông, “cái máy ấy” lại có những hành động lặp đi lặp lại, “dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng”. Nói như thế để chúng ta thấy rằng Mị đã bị bóc lột về thể xác, áp bức về tinh thần đến mức không còn sức phản kháng đến nỗi Mị xem những bất công như điều bình thường vì nó diễn ra hằng ngày hằng giờ với từng người nghèo trong nhà này, trong vùng này mà không ai đủ sức làm thay đổi nó. Thế nên, khi chứng kiến cảnh A Phủ – một chàng trai khỏe mạnh, gan dạ, siêng năng trong làng vì đánh A Sử mà bị phạt tiền, không có tiền đóng nên phải làm việc không công cho nhà thống lí, bị đánh, bị trói đứng, bị đói, bị rét vì để hổ ăn mất bò.Mị vẫn chẳng biến sắc và thay đổi thói quen “thường đến khi gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi”. “Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước”.Trái tim rạo rực khát khao của những đêm mùa xuân xưa đã bị đóng băng hoàn toàn trở nên lạnh giá, trơ lì như cái rét của mùa đông năm nay. Nhà văn Tô Hoài đã thật sự rất tinh tế khi chọn đúng ý nghĩa các mùa để miêu tả tâm trạng Mị.
Nhưng bằng lòng thương cảm trước những số phận tăm tối của người dân nghèo miền núi. Tô Hoài đã không để nhân vật mình dần hóa đá. Nhà văn đã bước đầu tạo ra những chi tiết để đánh thức tâm hồn đã bị các thế lực phong kiến vùi dập của Mị. Chính “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” biểu hiện sự bất lực đến chua cay của A Phủ đã làm lòng Mị khẽ lay động. Dòng nước mắt của sự tuyệt vọng. Nhưng hơn hết đó là dòng nước mắt lẻ loi, đơn độc, không người thương yêu, chia sẻ. Dòng nước mắt của người con trai cường tráng, gan lì từng dám dùng con quay ném vào mặt con thống lí đã khiến cho Mị bắt đầu “phảng phất nghĩ”. Mị cũng từng bị trói đứng”Nhiều lần khóc nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được” . Lòng đồng cảm dần xuất hiện trong Mị. Tia sáng của tình thương đã được thắp lại. Mị không nghĩ cho thân mình lúc này “nó bắt mình chết cũng thôi”. Nhưng Mị đã biết lên án “Chúng nó thật độc ác” và bất bình thay cho A Phủ “Người kia việc gì phải chết thế”. Lòng thương người trỗi dậy bắt đầu từ việc Mị biết nhớ đến số phận đau thương của mình. Điều mà bấy lâu nay Mị đã đánh mất.
Tô Hoài rất tài tình trong các miêu tả các trạng thái tâm lí nhân vật khi nhà văn để cho dòng suy nghĩ của Mị cứ đi từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Nó như một mạch ngầm âm thầm chảy trôi trong tâm trí Mị để rồi dần giúp cho trái tim nhân ái nồng hậu tưởng đã khô cằn hồi sinh mạnh mẽ. Lúc này đây, dù trong đầu Mị đang tưởng tượng ra cảnh phải thay A Phủ bị trói, bị chết ‘Mị cũng không thấy sợ” và chắc chắn lần này nó sẽ vô cùng mãnh liệt.
Nối dòng suy nghĩ đã cho thấy được sự hồi sinh trong tâm hồn Mị thì Tô Hoài cũng miêu tả được những hành động bất thường thể hiện sự vực dậy kì lạ của Mị. “Đám than đã vạc hẳn lửa, Mị không thổi, cũng không đứng lên” . Và khi Mị đứng lên thì lại hành động rất táo bạo “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt mít dây mây”. Về chi tiết này, chính Tô Hoài đã tâm sự trong tập “Tác giả nói về tác phẩm, hỏi chuyện của tác giả có tác phẩm giảng dạy trong nhà trường”(Nguyễn Quang Thiều chủ biên, Nxb Trẻ 2000) rằng: “Cắt dây trói cho A Phủ là Mị giải thoát (hay là mong giải thoát cho mình) cho chính tâm hồn mình. Khi cắt dây trói xong, Mị mới hoảng hốt. Ấy là lúc cuộc sống thực tại ập đến. Mị thì thào “Đi ngay…” Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiến quyết đối với tâm hồn mình”. Cắt dây trói cho A Phủ cũng chính là Mị đã tháo bỏ sợi dây vô hình của thần quyền và cường quyền đâng ngày đem buộc chặt đời Mị. Và đến lúc này, khi “A Phủ đã quật sức vùng lên chạy”. Mị đứng trong bóng tối, có lẽ vì giờ mới thấy sợ cho việc làm của mình và thương mình phải nhận hậu quả “ở đây thì chết mất”, Mị đã chạy theo A Phủ để giải thoát thân xác mình. Mị đã băng mình qua cái chết để đi tìm lấy sự sống cho mình mặc dù đây chỉ là hành động tự phát.
Bằng tài năng dẫn dắt truyện lôi cuốn, lối kể chuyện tự nhiên mà tinh tế, ngôn ngữ mang đậm phong vị dân tộc và trái tim nhân đạo chứa chan. Cuối cùng Tô Hoài đã để Mị cởi tấm áo choàng bi kịch của đời mình, dẫm lên nó mà chạy đến Phiềng Sa – nơi có ánh sáng của cách mạng để khoác lên mình bộ trang phục của tự do. Đây chính là tư tưởng bộ của nhà văn, bước tiến mới về tinh thần nhân đạo trong văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám. Tô Hoài đã thể hiện niềm tư tưởng của khả năng vùng lên tự giải phóng khỏi ách áp bức của bọn thực dân và chúa đất thống trị, đồng thời chỉ ra con đường đấu tranh đúng đắn cho họ.
Qua đoạn trích đêm mùa đông, Mị cởi trói cho A Phủ ta thấy rất rõ tình yêu thương con người chính là yếu tố quan trọng quyết định sự chuyển biến trong suy nghĩ và hành động của Mị. giọt nước mắt A Phủ là giọt lệ của người đang đơn độc khi không có sự giúp đỡ của ai trong lúc tuyệt vọng nhất. Nếu không có lòng nhân ái thì Mị chắc vẫn chai sạn, vô cảm trước cái chết sắp đến của A Phủ. Lòng đồng cảm giữa những người đồng cảnh ngộ đã giúp hai kẻ xa lạ kết nối lại với nhau làm nên sức mạnh bất ngờ. Mị bứt khỏi “căn buồng tối” của đời mình còn A Phủ được cởi trói khỏi cây cột nô lệ.
Tóm lại, cả người đẹp như Mị hay xấu như Nở chỉ cần có tình thương họ sẽ mang đến những điều tuyệt vời đầy ý nghĩa cho cuộc sống. Cảm ơn hai nhà văn Nam Cao và Tô Hoài, tuy ở vào hai giai đoạn khác nhau trong dòng chảy văn học Việt Nam nhưng họ đều đã cống hiến hết tài năng của mình để tặng cho độc giả hai tác phẩm mang đậm tính nhân đạo. Thông điệp họ để lại thật sâu sắc.
Phân tích tâm trạng và hành động của Mị trong đêm cứu A Phủ – Mẫu 6
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập “truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật của một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể “trói” được thân xác Mị chứ không thể “trói” được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp cho buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm người lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay “dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị “sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.
Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lý do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò!
Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư?
Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lý trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng…
Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lý ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân – hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài – một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lý muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn – giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 – 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp độc giả cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp chúng ta ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.