Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy gồm dàn ý và 6 bài
Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy gồm dàn ý và 6 bài văn mẫu. Giúp các em học sinh lớp 10 ôn tập, tích lũy thêm vốn từ để viết văn ngày một hay hơn.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một một câu chuyện nhằm giải thích tại sao nước Âu Lạc bị mất và đây cũng là một bài học của việc giữ nước. Dưới đây là dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy, mời các bạn cùng tham khảo.
Xem Tắt
Dàn ý phân tích truyện An Dương Vương
I. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về thể loại truyền thuyết: Truyền thuyết là những câu chuyện kể dân gian, kể lại những câu chuyện trong lịch sử dựng nước, giữ nước của cha ông ta, có sự kết hợp giữa cốt lõi lịch sử với yếu tố tưởng tượng, kì ảo.
– Giới thiệu xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện an Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy: Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy trích từ Truyện Rùa Vàng trong Lĩnh Nam chích quái. Truyện kể về quá trình xây thành, chế nỏ bảo vệ đất nước của An Dương Vương và nguyên nhân mất nước Âu Lạc.
II. Thân bài:
1. An Dương Vương xây thành, chế nỏ, bảo vệ đất nước
– Vua An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường nhưng gặp rất nhiều khó khăn, “hễ đắp tới đâu là lại lở tới đấy”. Vì vậy, vua lập đàn tai giới, cầu đảo bách thần. Sau đó, đón tiếp cụ già từ phương Đông tới và ra tận của đông chờ đợi đón Rùa Vàng.
→ An Dương Vương là người quyết tâm, kiên trì, không ngại khó khăn, dồn hết tâm huyết cho việc xây thành, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của đất nước và biết trọng người hiền tài.
– An Dương Vương cho xây thành “rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc”
→ Tài năng và tầm nhìn xa trông rộng của An Dương Vương.
– Khi Rùa Vàng từ biệt trở về, An Dương Vương lo lắng hỏi: “Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”
→ Ý thức, trách nhiệm của người đứng đầu và tinh thần cảnh giác cao độ.
– Lấy vuốt rùa làm lẫy, nhờ Cao Lỗ chế nỏ đánh thắng mọi kẻ thù, giặc xâm lược.
⇒ Thông qua các chi tiết hư cấu, tưởng tượng (cụ già, Rùa Vàng) truyện đã xây dựng thành công hình tượng vua An Dương Vương – một vị vua anh minh, sáng suốt, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, biết trọng người tài, được sự đồng tâm, giúp đỡ của cả trời đất và nhân dân. Vị vua ấy luôn nhận được sự tôn trọng, ngợi ca của toàn thể nhân dân.
2. Những sai lầm của An Dương Vương, bi kịch tình yêu của Mị Châu, Trọng Thủy và bài học từ bi kịch mất nước.
a. Những sai lầm của An Dương Vương
– Chủ quan, mất cảnh giác: Nhận lời cầu hòa của Triệu Đà, đồng ý gả con gái cho Trọng Thủy và đồng ý cho Trọng Thủy ở rể.
– Ỷ lại vào vũ khí mà không đề phòng, lơ là cảnh giác, xem thường kẻ địch: lúc giặc đến chân thành vẫn mải đánh cờ, cười nhạo kẻ thù.
– Chi tiết An Dương Vương tự tay giết chết con gái thể hiện hành động quyết liệt, dứt khoát đứng về phía công lí và lợi ích chung của cả dân tộc, để cái chung lên trên tình riêng đó cũng là sự thức tỉnh muộn màng của An Dương Vương
– Chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển đã huyền thoại hóa, bất tử hóa hình tượng vua An Dương Vương, qua đó, thể hiện sự trân trọng, cảm mến của nhân dân với nhà vua.
b. Bi kịch tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy
– Nhân vật Mị Châu:
+ Hết lòng yêu thương, tin tưởng chồng: cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần, khiến bảo vật giữ nước bị đánh tráo mà hoàn toàn không biết.
+ Nhẹ dạ cả tin, chỉ nghĩ đến hạnh phúc cá nhân: bị giặc đuổi, đánh dấu đường cho Trọng Thủy lần theo
+ Bị kết tội là giặc, bị vua cha chém chết. Đó cũng là sự trừng trị nghiêm khắc cho sai lầm của Mị Châu
+ Lời thề của Mị Châu trước lúc chết cũng chính là lời thanh minh của nàng cho tấm lòng trong trắng của mình.
+ Mị Châu chết, máu hóa thành ngọc trai, xác hóa thành ngọc thạch. Nàng không hóa thân trọn vẹn trong một hình hài duy nhất mà nàng hóa thân – phân thân: máu chảy xuống biển, trai ăn phải hóa thành ngọc trai, xác hóa thành ngọc thạch. Hình ảnh đó vừa thể hiện sự bao dung, thông cảm với sự trong trắng, ngây thơ, vô tình phạm tội; vừa thể hiện thái độ nghiêm khắc trừng trị cùng bài học lịch sử về giải quyết quan hệ giữa nhà với nước, chung với riêng.
– Nhân vật Trọng Thủy:
+ Thời kì đầu: Trọng Thủy đóng vai trò là một tên gián điệp theo lệnh của vua cha sang làm rể → điều tra bí mật.
+ Thời gian ở Loa Thành: lừa Mị Châu để thực hiện âm mưu, chính sự chủ quan lơ là mất cảnh giác của An Dương Vương, sự ngây thơ cả tin, toàn tâm toàn ý với chồng của Mị Châu đó giúp y hoàn thành kế hoạch đen tối.
+ Khi Mị Châu chết, y ôm xác vợ khóc lóc, thương nhớ rồi tự tử. Đây chính là sự hối hận muộn màng của Trọng Thủy, đồng thời cho thấy Trọng Thủy cũng là một nạn nhân của cha mình.
+ Hình ảnh ngọc trai – giếng nước ở cuối chuyện là cách kết thúc hợp lí nhất cho câu chuyện và cho số phận đôi trai gái. Hình ảnh này chứng tỏ sự trong sáng của Mị Châu, sự hóa giải tình cảm của Mị Châu, Trọng Thủy ở thế giới bên kia và đó cũng chính là tấm lòng bao dung, thông cảm của nhân dân dành cho Mị Châu và Trọng Thủy.
c. Bài học từ bi kịch mất nước
– Đề cao tinh thần cảnh giác với kẻ thù, không chủ quan khinh thường trước bất cứ hoàn cảnh nào.
– Luôn luôn đặt quan hệ riêng, chung cho đúng mực, phải đặt quyền lợi của dân tộc, đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, gia đình.
III. Kết bài:
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản
– Mở rộng: Bài học dựng nước và giữ nước trong bối cảnh hiện nay.
Phân tích truyện An Dương Vương – Mẫu 1
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết nổi bật trong chuỗi truyền thuyết thời Âu Lạc. Tác phẩm với kết thúc bi kịch, nước mất nhà tan đã trở thành bài học sâu sắc về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Tác phẩm xoay quanh ba nhân vật chính: An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy, mỗi nhân vật có một tính cách, hoàn cảnh riêng, qua đó thể hiện được những bi kịch khác nhau.
Trước hết về nhân vật An Dương Vương. Ông là một vị vua anh minh, sáng suốt trong quá trình dựng và giữ nước. Ông có quyết định táo bạo, đúng đắn dời kinh đô từ Nghĩa Lĩnh về Cổ Loa, tạo điều kiện để phát triển đất nước. Không chỉ vậy, để đề phòng quân xâm lược ông còn xây dựng Cổ Loa thành với chín vòng thành chắc chắn, được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, chín vòng thành khiến kẻ thù khó có thể xâm lấn. Không chỉ vậy, khi được Rùa Vàng tặng móng vuốt, ông còn tìm người tài chế tạo nỏ thần. Chính bởi sự mưu lược, nhìn xa trông rộng nên khi Triệu Đà kéo quân sang đã bị quân ta đánh bại. Nhưng ngài cũng là người mất cảnh giác trước kẻ thù.
Trên đà lợi thế với chín vòng thành và vũ khí là nỏ thần, An Dương Vương không phòng bị trước kế sách hiểm độc của Triệu Đà: cầu hôn Mị Châu. Ông chẳng mảy may nghi ngờ mà lập tức gả con gái cho kẻ thù, không có chính sách phòng bị hay đối phó. Ông đã tỏ ra cực kì mất cảnh giác, có lẽ ông đã ngủ quên trên chiến thắng, ỉ thế mình có nỏ thần mà quên đi những âm mưu thâm độc của kẻ thù. Sự mất cảnh giác, chủ quan ấy còn được đẩy lên một mức cao hơn nữa khi quân lính vào báo tin Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, An Dương Vương Vẫn bình tĩnh mà nói: “Đà không sợ nỏ thần của trẫm sao”. Ông vẫn tin tưởng vào sức mạnh của nỏ thần mà không hề có bất kì hành động nào chống trả lại kẻ xâm lược. Trước đây ông anh minh, sáng suốt bao nhiêu thì nay lại chủ quan bấy nhiêu. Chính bởi sự mất cảnh giác ấy nên ông lâm vào hai bi kịch lớn: bi kịch mất nước, thua trận, bị kẻ thù truy đuổi đến đường cùng phải kêu cứu Rùa Vàng. Và đau đớn hơn là bi kịch phải tự tay giết chết người con gái duy nhất của mình. Mặc dù đau đớn song ông không thể làm khác. Ông cầm sừng tê rẽ xuống nước sống cuộc đời bất tử. Đây là hình thức phổ biến trong văn học dân gian, cái chết của An Dương Vương được bất tử hóa, mĩ lệ hóa. An Dương Vương tuy có tội nhưng là vô tình nên được nối dài sự sống như một sự đền bù. Nhưng vẫn là tội nên không được tiếp tục sống trên trần gian, cũng không có cái kết huy hoàng như Thánh Gióng.
Nhân vật thứ hai chính là nàng Mị Châu, nàng là tội nhân của bi kịch mất nước. Lấy Trọng Thủy nàng một lòng một dạ yêu và tin chồng, không hề đề phòng bởi cha nàng vốn cũng không phòng bị nên nàng cũng không mảy may nghi ngờ. Trước lời đề nghị của Trọng Thủy cho xem nỏ thần, nàng ngay lập tức nhận lời, không cần đến sự đồng ý của ai, dù đó là bảo vật quốc gia, liên quan đến vận mệnh đất nước. Đây cũng chính là cơ hội để Trọng Thủy đánh tráo nỏ thần. Sự bất cẩn của nàng đã làm lộ bí mật quốc gia, là nguyên nhân dẫn đến mất nước. Nàng ngây thơ đến nỗi trước lời dặn dò đầy ẩn ý của Trọng Thủy cũng không nghi ngờ mà còn dặn dò chồng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà tắc ở ngã ba đường làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Mị Châu chỉ nghĩ cho hạnh phúc nhỏ của mình mà quên đi vận mệnh lớn của đất nước. Lúc này lí trí của nàng đã bị trái tim chiếm chỗ bởi vậy nàng không suy xét, ngẫm nghĩ mà chỉ nghe theo lời chồng. Nhờ những chiếc lông ngỗng mà quân Triệu Đà đã đuổi theo truy sát An Dương Vương, cuối cùng nàng bị kết tội là giặc – bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. Cái chết của Mị Châu là bài học đau xót cho muôn đời sau.
Trọng Thủy là nhân vật vô cùng phức tạp, mắc kẹt giữa hai tham vọng tình yêu và cướp nước, bởi vậy Trọng Thủy vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân. Trọng Thủy cưới Mị Châu do lệnh của vua cha, chàng không hề có tình yêu với Mị Châu. Bởi vậy, Trọng Thủy sẵn sàng lừa dối Mị Châu để xem và đánh tráo nỏ thần, độc ác hơn Trọng Thủy còn lừa Mị Châu rải lông ngỗng để truy sát hai cha con An Dương Vương đến cùng. Mọi hành động của Trọng Thủy là có chủ ý, được sắp đặt từ trước, bởi vậy, Trọng Thủy không thể được dung tha. Cái chết bi thảm lao đầu xuống giếng tự vẫn chính là dành cho Trọng Thủy – kẻ nham hiểm, lừa dối người vợ của mình. Nhưng xét ở một khía cạnh khác, Trọng Thủy lại là nạn nhân trong bi kịch tình yêu. Đối với Triệu Đà, Trọng Thủy là một bề tôi trung thành đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ. Nhưng cuối cùng lại tự vẫn, theo quan niệm phong kiến tội bất hiếu là tội lớn nhất của con người. Khi sống trọn vẹn với tình yêu Trọng Thủy lại trở thành kẻ bất hiếu. Trong quan hệ với Mị Châu, có lẽ sau quá trình chung sống, Trọng Thủy nảy sinh tình cảm với Mị Châu, lúc này Trọng Thủy bị giằng xé giữa nghĩa vụ và tình yêu. Bởi vậy sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, cướp nước thành công, Trọng Thủy sống trong nỗi đau đớn, tâm can bị giày vò, Trọng Thủy đã tìm đến cái chết để tự giải thoát cho chính mình. Bi kịch đó là lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa: không chỉ phía thua mà cả phía thắng cũng đau đớn như nhau.
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cốt lõi lịch sử và các yếu tố kì ảo, hoang đường tạo nên sự hấp dẫn, li kì; đồng thời thể hiện thái độ, quan niệm, tình cảm của dân gian với các nhân vật lịch sử. Xây dựng các hình tượng nhân vật rất phức tạp. Đây là hiện tượng đặc biệt trong các câu chuyện dân gian của Việt Nam. Ngoài ra tác phẩm sử dụng các chi tiết giàu ý nghĩa biểu tượng: ngọc trai, giếng nước,..
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa sự thật lịch sử và yếu tố kì ảo, tác phẩm là một cách giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Đồng thời, qua tác phẩm cũng gửi gắm bài học lịch sử sâu sắc cho các thế hệ muôn đời: bài học về tinh thần cảnh giác và bài học về cách xử lí đúng đắn giữa việc chung và việc riêng, giữa tình nhà và việc nước, giữa cá nhân và cộng đồng.
Phân tích truyện An Dương Vương – Mẫu 2
Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy là câu chuyện được lưu truyền rộng rãi trong lòng dân tộc ta từ xưa đến nay. Qua câu chuyện giữ nước của An Dương Vương, câu chuyện để lại cho hậu thế nhiều bài học sâu sắc giữa tình thân và đất nước, giữa bạn và thù cùng ý thức cảnh giác trước âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước. Lịch sử ấy không những được lưu giữ cẩn thận trong nhân gian mà còn trở thành nơi để gửi gắm tâm tư tình cảm, lẽ sống ở đời của nhân dân. Lấy cảm hứng từ sự kiện lịch sử, Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy đã được dân gian hóa rất nhiều. Cốt lõi lịch sử chỉ còn là cái bóng để làm câu chuyện thêm chân thực và hấp dẫn.
Chuyện kể về lịch sử của nước ta thời An Dương Vương. An Dương Vương lên ngôi vua, xây thành Cổ Loa để bảo vệ đất nước, nhưng thành cứ xây xong lại đổ. Rùa vàng hiện lên giúp vua trừ yêu quái. Thành xây xong,Rùa Vàng lại giúp vua làm nỏ thần để chống giặc. Triệu Đà nhiều lần tấn công thành thất bại, bèn nghĩ kế cầu hoà, cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ dỗ Mị Châu cho xem bí mật nỏ thần rồi lén làm chiến nỏ giả đem đánh tráo.
Trọng Thuỷ về nước, chia tay Mỵ Châu. Mỵ Châu hẹn lấy lông ngỗng làm dấu để tìm nhau. Triệu Đà lấy được nỏ thần, ra lệnh tấn công. An Dương Vương thua, cùng Mỵ Châu chạy trốn. Đến cùng đường, biết Mỵ Châu là thủ phạm bèn chém chết Mỵ Châu rồi cùng Rùa Vàng rẽ nước xuống biển. Trọng Thủy đuổi theo đến bờ biển, ôm xác Mỵ Châu về táng tại Loa Thành, rồi vì nhớ thương nàng mà nhảy xuống giếng tự vẫn. Trai biển đông ăn được máu của Mị Châu nên hoá ngọc. Đời sau đem ngọc trai biển đông rửa vào nước giếng Trọng Thuỷ thì ngọc sáng hơn.
Tuy là một nhân vật lịch sử, nhưng ở trong truyện này, An Dương Vương được xây dựng khá toàn diện, mang đậm dấu ấn văn học.
Gắn với di tích còn để lại cho đến ngày nay và sự kiện lịch sử xây dựng thành cổ loa, có thể thấy đây chưa hẳn là một câu chuyện cổ do trí tưởng tượng phong phú của con người dệt thành. Giá trị lịch sử của câu chuyện thể hiện ở việc An Dương Vương là người xây thành Cổ Loa.
Việc xây thành Cổ Loa vô cùng gian nan. Do Kê Tinh quấy phá, thành xây đến đâu sập đổ đến đó, tiêu tốn không biết bao nhiêu công sức của nhân dân. Chính An Dương Vương là người hóa giải được tai họa đó. Nhờ có rùa thần mách bảo, Kê Tinh bị tiêu diệt, thành được xây xong. Rùa thần lại còn ban cho móng thần làm nỏ thần bách phát bách trúng. nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đã chiến thắng quân Triệu Đà, giữ vững giang sơn. Có thể khẳng định, dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương, Âu Lạc vô cùng vững mạnh, khiến cho kẻ thù khiếp sợ.
Việc xây thành Cổ Loa của An Dương Vương có sự giúp đỡ của thần linh là một sáng tạo của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân. Do yêu tinh quấy phá mà thành xây mãi vẫn chưa xong. Nhà vua lập đàn khấn vái bách thần, trai giới cầu an. Nhờ cụ già mách bảo lại thêm sứ Thanh Giang giúp sức. Chỉ trong nửa tháng, thành đã xây xong.
Việc xây thành nhanh đến thế chỉ có thần linh mới làm được. Thần linh giúp An Dương Vương bởi vì đã có ý thức đề cao cảnh giác khi giặc chưa đến mà lo phòng bị. Điều đó khẳng định hành động của An Dương Vương là chính nghĩa hợp ý trời và được lòng dân. Đồng thời nở thần là sự kì ảo hóa bí mật vũ khí tinh xảo của người Việt xưa. Hình ảnh thần linh và sức mạnh thần kì chính là ước mơ của nhân dân về một sức mạnh tương trợ để giữ nước trong buổi đầu sơ khai của lịch sử.
Việc An Dương Vương xây dựng thành Cổ Loa thành công phản ánh sự gian nan vất vả của công việc bảo vệ và xây dựng đất nước, ca ngợi công lao to lớn của An Dương Vương, tự hào về chiến công xây thành, chế nỏ, chiến thắng ngoại xâm của dân tộc. Chi tiết ấu cũng khẳng định sức mạnh của chính nghĩa, tinh thần đoàn kết, đề cao tinh thần cảnh giác, phòng chống giặc ngoại xâm.
Tiếp sau công cuộc xây thành là công cuộc giữ nước trước sự xâm lược của kẻ thù. Do mắc phải nhiều sai lầm nên An Dương Vương không mãi đứng trên đỉnh vinh quang của chiến thắng mà đã gặp phải những thất bại cay đắng. Nỏ thần rất linh nghiệm, song bao giờ cũng vậy, thắng lợi mà dựa vào vũ khí, con người sinh ra chủ quan. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến mất cảnh giác, dẫn đến hậu quả khôn lường.
Triệu Đà là kẻ tham lam và đầy mưu mô nhìn thấy đất nước Âu Lạc trù phú, hắn muốn cướp lấy. Lần thứ nhất xuất quân vội vã, Triệu Đà chuốc lấy thất bại nặng nề nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược. Hắn sai con là Trọng Thủy sang cầu hòa và ngỏ ý muốn kết duyên cùng Mị Châu, con gái An Dương Vương. Không lường hết được âm mưu thâm hiểm của kẻ thù, An Dương Vương đã gả Mị Châu cho Trọng Thủy. Sau cuộc hôn nhân, Trọng Thủy với vị trí là phò mã được đi lại tự do và thực hiện mưu đồ tìm hiểu về vũ khí bí mật quốc gia.
Cậy có nỏ thần, khi Triệu Đà kéo quân sang trước cổng thành, An Dương Vương còn chủ quan khinh địch: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Nói rồi vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Hành động điềm nhiên chơi cờ và cười “Đà không sợ nỏ thần sao?” cho thấy An Dương Vương quá tự tin, tự đắc, dựa dẫm hết vào sức mạnh của vũ khí thần kì. Sự chủ quan và mất cảnh giác đó là nguyên nhân dẫn đến nước mất, nhà tan. Cho đến khi quân giặc đã áp cổng thành, An Dương Vương vẫn điềm tĩnh. Có ngờ đâu, nỏ thần đã không còn, thành bị phá trong tích tắt, An Dương Vương phải vội lên ngựa chạy thoát thân.
An Dương Vương chỉ thực sự thức tỉnh khi nghe tiếng thét của Rùa Vàng. Sự thức tỉnh của An Dương Vương tuy muộn màng nhưng rất cần thiết để cứu vãn tình thế.
Chi tiết nhà vua tự tay chém chết con gái yêu quý nhất của mình là hành động vì nghĩa diệt thân, đặt lợi ích quốc gia lên trên tình nhà. Qua đó, nhân dân gửi gắm tấm lòng kính trọng đối với thái độ dũng cảm của vị vua, hành động quyết liệt, dứt khoát đứng về phía công lí và quyền lợi của dân tộc, cũng là sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua, sự phê phán thái độ mất cảnh giác của Mị Châu. Hình ảnh Rùa Vàng là lời giải thích lí do mất nước nhằm xoa dịu nỗi đau mất của nhân dân ta. Chi tiết cũng thể hiện tấm lòng vị tha cao cả của nhân dân đối với những lỗi lầm của lịch sử.
Thức tỉnh, An Dương Vương đã tự tay chém đầu con gái. Đó là hành động quyết liệt, dứt khoát đứng về phía công lí và quyền lợi của dân tộc, cũng là sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua. Chi tiết mang tính bi kịch sâu sắc. Sau cùng, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc rồi theo gót Rùa vàng xuống biển. Nhân dân đã huyền thoại hoá, bất tử hoá người anh hùng, mong muốn người anh hùng bất tử để tiếp tục giữ gìn ý chí đấu tranh lấy lại đất nước của nhân dân.
Motip huyền thoại hóa, bất tử nhân vật anh hùng thể hiện chiều sâu triết lí của nhân dân. Nếu Thánh Gióng sau khi chiến thắng giặc Ân, đã một mình phi ngựa lên núi Sóc, cởi áo giáp sắt để lại rồi từ từ bay về trời. Ý nghĩa câu chuyện chỉ khi ngẩng mặt lên cao vời mới nhìn thấy rõ hết được công đức của bậc thánh quân. Đó là một kết thúc rực rỡ, hoành tráng vì nhân vật không mắc phải sai lầm hay thất bại nào. Còn ở An Dương Vương lại khác. Ông cầm sừng tê, cùng Rùa Vàng rẽ nước đi xuống thủy cung. Ông là sai lầm và thất bại, là nỗi nhục nhã của quốc gia nếu chỉ nhìn đơn giản. Phải cúi đầu nhìn xuống thăm thẳm sâu mới có thể thấy hết tấm lòng của nhà vua đối với nhân dân, đối với với đất nước. Nhà vua đã tận tuyệt tình riêng để gương công lí.
Bên cạnh nhân vật An Dương Vương, mối tình Mị Châu và Trọng Thủy cũng chứa đựng nhiều uẩn khúc khó giải bày. Cuộc hôn nhân giữa Mị Châu và Trọng Thủy mang tính chính trị sâu sắc. Nhân vật Mị Châu vừa đáng thương, lại vừa vừa đáng trách. Đáng thương là bởi nàng chỉ là một vật lợi dụng của cha con Triệu Đà. Ở mặt này, nàng hoàn toàn vô tội. Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ thần chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ quên nghĩa vụ với đất nước. Vì:Nỏ thần thuộc về tài sản quốc gia, là bí mật quân sự.
Vì thế, Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần là việc vi phạm nguyên tắc của bề tôi đối với nhà vua và đất nước, biến nàng thành giặc, đáng bị trừng phạt. Khi cùng cha chạy trốn lại còn rắc lông ngỗng chỉ đường cho Trọng Thủy, chỉ đường cho giặc đuổi theo truy sát. Nàng bị Rùa Vàng kết tội là giặc, là kẻ phản quốc. Sau đó còn bị chính cha của mình giết chết. Trong các nhân vật, Mị Châu là người phải gánh chịu nhiều oan khuất nhất.
Tình yêu, tình cảm vợ chồng (trái tim) không thể đặt lầm chỗ lên trên lí trí, nghĩa vụ với đất nước (đầu). Mất nước dẫn đến nhà tan nên không thể đặt lợi ích cá nhân lên lợi ích cộng đồng. Nàng đa gián tiếp tiếp tay cho kẻ thù nên bị trừng phạt nghiêm khắc.
Kẻ gây ra bi kịch thảm khốc đối với Mị Châu không ai khác chính là Trọng Thủy, chồng của nàng. Trọng Thủy đến với Mị Châu với một âm mưu chính trị thâm hiểm, đê tiện: lợi dụng mối tình để tìm hiểu và chiếm đoạt bí mật quốc gia. Hắn lừa Mị Châu cho xem nỏ thần rồi lén lút đánh tráo nỏ thần mang về nước. Chính trọng Thủy cũng là kẻ cầm quân tấn công nước Âu Lạc và đuổi theo cha con An Dương Vương. trọng Thủy tuy hoàn thành nghĩa vụ với quốc gia nhưng bỏ quên tình cảm vợ chồng.
Qua câu chuyện, ta thấy rõ, Mị Châu là người con gái nhẹ dạ, cả tin, yêu chồng sâu sắc, đặt tình cảm cá nhân lên trên vận mệnh với đất nước. Nàng vừa đáng giận vừa đáng thương. Trọng Thủy vừa là kẻ thù, vừa là nạn nhân của của chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Hành động của Trọng Thủy cũng chỉ là sự nghe lời vua cha mà đánh mất đi hạnh phúc của chính mình mà thôi. Chỉ có Trọng thủy mới minh oan được cho Mị Châu.
Nhân dân trong khi “phê phán Mị Châu bằng bản án tử hình” vì những lỗi lầm gây tổn hại cho đất nước một cách đích đáng. Nhân dân lại cũng thấu hiểu rằng Mị Châu mắc tội không do chủ ý mà chỉ do vô tình, ngây thơ, nhẹ dạ. Bởi thế họ đã cho lời khấn của nàng linh ứng.
Nhân vật Trọng Thuỷ là nhân vật có nhiều tính cách phức tạp. Vì nghe lời cha, đặt nhiệm vụ lợi ích quốc gia lên trên nên trở thành kẻ vô tình bạc nghĩa, đã phụ tình yêu chân thành ngây thơ của Mị Châu. Khi biết tội lỗi của mình thì rất hối hận. Hình ảnh của Mị Châu ám ảnh con người bội bạc ấy đã dẫn đến cái chết thảm thương cho nhân vật. Trọng thủy đã nhảy xuống giếng tự tử.
Hắn bạc tình phụ nghĩa, hành vi bất chính, hèn hạ. Thế nên phải nhận lấy một kết cục đau đớn. Trọng Thủy mất vợ, mất tình yêu, phải sống trong day dứt, ăn năn. mất trí, Trọng Thủy lao đầu xuống giếng tự tử để đền tội. Không những thế, hắn còn bị lên án là kẻ gián điệp, phản bội.
Thế nhưng, nhân dân cũng đã có một cái nhìn bao dung, độ lượng đối với Trọng Thủy. Với Trọng Thủy, nước giếng thể hiện nỗi ân hận vô hạn và chứng nhận muốn giải tội của Trọng Thuỷ.
Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là một sáng tạo độc đáo của nhân dân. Hình ảnh ngọc trai phù hợp với lời ước nguyện của Mị Châu. Ngọc trai chứng minh cho tấm lòng trong sáng của nàng. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước chính là sự hóa giải oan tình của Mỵ Châu. Chi tiết ngọc trai đem rửa nước giếng lại càng sáng đẹp hơn cho thấy Trọng Thuỷ đã tìm được sự hoá giải của Mị Châu ở thế giới bên kia. Với hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” này, nhân dân ta đã có sự phán xét thấu lí đạt tình, vừa nghiêm khắc vừa nhân ái đối với con người lầm lỗi. Nhân dân với tấm lòng bao dung, vị tha luôn rộng lòng tha thứ cho những người vô tình phạm tội như Mị Châu hay những kẻ biết ăn năn hối hận như Trọng Thuỷ.
Câu chuyện An Dương Vương và Mị Châu-trọng Thủy để lại nhiều bài học lịch sử sâu sắc. Nó nhắc nhở về trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng đầu quốc gia phải có ý thức cảnh giác đối với kẻ thù, có tầm nhìn xa rộng, quyết sách đúng đắn đối với vận mệnh của dân tộc. Trong quan hệ tình cảm, phải có cách giải quyết mối quan hệ riêng – chung đúng mực, có sự phân biệt rạch ròi giữa tình nhà và nợ nước.
Nước Âu Lạc có thành cao, hào sâu, vũ khí đủ mạnh để chiến thắng cuộc xâm lược của Triệu Đà nhưng về sau đã bị rơi vào tay kẻ thù. An Dương Vương xây thành, chế nở để bảo vệ đất nước nhưng lại đã để mất nước. Rùa vàng, thần Kim Quy, nỏ thần, ngọc trai – giếng nước, sự hoá thân của Mị Châu là những hư cấu nghệ thuật được dân gian tưởng tượng ra nhằm làm cho câu chuyện li kì, hấp dẫn và tăng thêm mối quan hệ với cốt lõi lịch sử.
Tác phẩm có sự hoà quyện giữa yếu tố lịch sử- yếu tố thần kì. Kết hợp bi- hùng, xây dựng được những hình ảnh giàu chất tư tưởng- thẩm mĩ, có sống lâu bền. Thời gian nghệ thuật xuất phát từ một sự kiện lịch sử có thật. Không những thế, nó còn gắn với các di tích vật chất, di tích lịch sử, lễ hội còn tồn tại cho đến ngày nay. Bởi thế, ý nghĩa lịch sử và sức sống của câu chuyện mãi còn với thời gian dân tộc.
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu là một cách giải thích nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc. Nó còn đem lại những bài học quý: bài học về tinh thần cảnh giác với kẻ thù; cách xử lí đứng đắn mối quan hệ giữa cái riêng- cái chung, giữa nhà- nước, giữa cá nhân- cộng đồng, giữa tình cảm- lí trí.
Phân tích truyện An Dương Vương – Mẫu 3
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ là một truyền thuyết đặc sắc về chủ đề giữ nước của dân tộc ta. Nội dung kể về cha con An Dương Vương vì chủ quan, nhẹ dạ cả tin nên đã bị cha con Triệu Đà, Trọng Thuỷ lấy cắp lẫy thần, dẫn đến cảnh nhà tan, nước mất.
Thông qua thất bại đau đớn của An Dương Vương, sự tan vỡ của tình cha con và kết cục bi thảm của đôi lứa Mị Châu – Trọng Thuỷ, nhân dân ta đã biểu lộ tư tưởng phản kháng chiến tranh xâm lược và rút ra bài học giữ nước sâu sắc: không nên chủ quan, tự mãn, ỷ lại vào vũ khí, phải luôn sáng suốt phân biệt rõ bạn thù, mài sắc cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ địch.
Truyện có thể chia làm hai phần. Phần một (từ đầu đến… không dám đốc chiến bèn xin hòa): An Dương vương xây thành, chế nỏ giữ nước. Phần còn lại: Bi kịch tình yêu của Mị Châu – Trọng Thuỷ gắn liền với thất bại của nước Âu Lạc. Cả hai phần của truyện đều thể hiện rõ nhận thức và thái độ của nhân dân đối với vai trò và trách nhiệm của cha con An Dương Vương trước lịch sử.
An Dương Vương kế tục sự nghiệp dựng nước của mười tám đời Hùng Vương. Thời ấy, Văn Lang đã cố bờ cõi và nền văn hiến riêng. Vì vậy, việc chống giặc giữ nước là vấn để sống còn của dân tộc. An Dương vương đã tiến hành dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh, Phong Châu (Phú Thọ) về vùng đồng bằng Phong Khê (Đông Anh, Hà Nội ngày nay) để phát triển sản xuất và mở rộng lưu thông rồi bắt tay ngay vào việc xây thành. Đó là quyết sách đúng đắn chứng tỏ trí tuệ sáng suốt và bản lĩnh vững vàng của An Dương Vương.
Việc xây thành bằng đất gặp nhiều khó khăn. Chuyện kể rằng thành cứ đắp ban ngày thì ban đêm lại đổ, xây mãi không xong. Người xưa giải thích hiện tượng ấy là do sự phá hoại của ma quỷ. Lược bỏ yếu tố hoang đường, ta có thể thấy những khó khăn trong thực tế mà An Dương vương gặp phải khi tiến hành công việc xây thành. Đó là do ông chưa nắm được đặc điểm của đất đồng bằng, do kĩ thuật còn hạn chế và chưa biết dựa vào sức dân.
Sau này, được sứ Thanh Giang tức Rùa Vàng giúp đỡ, An Dương Vương xây thành chi trong vòng nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,… thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương Vương là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chúng ủng hộ.
An Dương Vương trước hết là một nhà quân sự xuất sắc. Ông đã biết xây thành cao, đào hào sâu để bảo vệ kinh đô. An Dương Vương được Cao Lỗ hỗ trợ trong việc chế tạo ra cung nỏ để chống quân xâm lược. Sức mạnh của thứ vũ khí ấy đã được các tác giả dân gian kì diệu hoá, thần thánh hoá bằng hình tượng nỏ thần.
Hình tượng then chốt của truyện là chiếc lẫy thần. Rùa Vàng giúp vua xây xong Loa Thành và cho nhà vua vũ khí để bảo vệ đất nước. Nỏ thần tượng trưng cho sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, tượng trưng cho trí tuệ, sức mạnh và khát vọng chiến thắng ngoại xâm của tổ tiên ta thuở ấy.
Chiếc nỏ thần có khả năng bắn một phát giết hàng vạn giặc vừa là sản phẩm của trí tưởng tượng bay bổng, vừa phản ánh trình độ chế tạo và sử dụng vũ khí chiến đấu của người Âu Lạc. Quân ta đã chế tạo ra cung nỏ và đúc được mũi tên bằng đồng. Vũ khí ấy tuy thô sơ nhưng không kém phần lợi hại trong các cuộc chiến đấu chống xâm lăng.
Khi Triệu Đà kéo quân sang xâm lược, vì An Dương Vương có nỏ thần trong tay nên quân Triệu Đà thua to, không dám đối đầu, bèn xin hòa. Chiến thắng của An Dương vương chứng tỏ sức mạnh quân sự của nhà nước Âu Lạc lúc bấy giờ, đồng thời khẳng định ý chí, tình thần đoàn kết của nhân dân ta. Đây là bài học tích cực trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Sau chiến thắng, An Dương vương sinh ra chủ quan, quên rằng nguy cơ xâm lược của kẻ thù phương Bắc luôn luôn tồn tại.
Chúng ta đau xót cho cha con An Dương vương vì sai lầm tai hại nên dẫn đến thảm họa mất nước. Nhà vua không phân tích được hành động cầu hòa rồi cầu hôn cho con trai của Triệu Đà thực chất là âm mưu thâm độc, chuẩn bị cho cuộc xâm lược tiếp theo. Thất bại của An Dương vương không phải chờ tới khi quân giặc tiến đến chân thành mới bộc lộ, mà bộc lộ ngay từ Khi nhà vua mất cảnh giác, đồng ý cho Trọng Thuỷ vào thành.
Ông đã bằng lòng gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ, lại còn cho ở rể, việc đó có khác chi “Nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”? Đây là sự hòa hiếu thiếu cảnh giác, tạo cơ hội thuận lợi cho kẻ thù phá từ trong phá ra. Mầm mống mất nước khởi nguồn từ đây.
Sau chiến thắng, An Dương Vương không quan tâm đến việc củng cố lực lượng, không dựa vào sức mạnh đoàn kết toàn dân để chống giặc mà lại ỷ vào vũ khí, vào sự hỗ trợ của thần linh, Những nhược điểm ấy khi kẻ thù nắm được tất dẫn đến thất bại không thể tránh khỏi.
Nghe tin báo Triệu Đà lại cất quân sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương cậy có nỏ thần vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Thái độ chủ quan khinh địch đó đã dẫn An Dương Vương nhanh chóng đến thất bại thảm hại. Tới khi giặc đã tiến sát chân thành, An Dương Vương mới cẩm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy; Trong cơn cùng quẫn, An Dương Vương chỉ còn cách đem theo con gái lên ngựa, bỏ thành mà chạy về phương Nam.
Cha con An Dương Vương đã cùng đường mà quân thù thì cứ theo dấu lông ngỗng của Mị Châu rắc dọc đường truy đuổi sát sau lưng. Quả là cha con An Dương Vương đã mất thế trời che, đất chở.
Khi Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó thì An Dương Vương mới tỉnh ngộ. Đây là lời kết tội đanh thép của công lí, của nhân dân về hành động vô tình phản quốc của Mị châu. Nhà vua tự tay chém chết cô con gái yêu dấu, cũng là tự xử một cách nghiêm khắc, quyết liệt đối với sai lầm của bản thân. Nhưng tất cả đều đã quá muộn màng. Câu chuyện kết thúc thật bi thảm!
Hành động rút gươm chém Mị Châu thể hiện lập trường dứt khoát của An Dương Vương lá đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xử án, đổng thời thể hiện sự tỉnh ngộ muộn màng trước lỗi lầm nghiêm trọng của mình.
Đây là cái giá mà ông phải trả cho sai lầm không thể sửa chữa, liên quan đến vận mệnh đất nước và dân tộc.
Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác nên đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp và đẩy Âu Lạc vào thảm hoạ mất nước. Đó là bài học xương máu về thái độ mất cảnh giác đối với kẻ thù dành cho những người đứng đầu, chịu trách nhiệm về sự tồn vong của quốc gia.
Hình ảnh An Dương Vương cầm sừng tê giác bảy tấc, theo Rùa Vàng xuống thuỷ phủ là yếu tố kì ảo phản ánh thái độ và tìm cảm của nhân dân đối với ông. Nhân dân thương tiếc vị vua tài ba, anh dũng nên không muốn ông chết. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng bất tử thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của người xưa.
Sai lầm của An Dương Vương là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của Mị Châu. Mối tình Mị Châu – Trọng Thuỷ là mối tình éo le, nó không phải là sản phẩm của tình yêu tự nhiên mà là sản phẩm của một âm mưu thâm hiểm trong cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Phân tích truyện An Dương Vương – Mẫu 4
Hẳn là mỗi lần nhắc đến cái nỏ thần chúng ta đều nhớ đến câu chuyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy. Câu chuyện ấy như một câu chuyện lịch sử và cũng có những yếu tố hư cấu thể hiện được những buổi đầu dựng nước của ông cha ta. Không những thế ta còn thấy được tình nước, tình cha con tình vợ chồng sắt son bị cuộc chiến giữa các nước làm cho rơi vào bi kịch.
Năm ấy vua An Dương Vương đánh giặc Triệu Đà thế nhưng quân trong thành không thể đánh lại chúng. Mấy ngày trước khi xảy ra trận chiến này có một ông già đã đến đây và nói với vua là sẽ phải cậy nhờ thần Kim Quy nói xong ông già lại đi. Vua An Dương Vương nửa tin nửa ngờ thì sáng hôm sau quân Triệu Đà kéo đến tấn công thành của nhà vua. Quân của An Dương Vương đã chống cự quyết liệt phần vì bị động phần vì chủ quan trước những lời dặn dò của ông già hôm trước. Vua An Dương Vương chạy trốn đến bờ biển. Trong cuộc chiến ấy thì quân của vua đã thua. Ở ngay trên bãi biển ấy làn nước dưới biển bỗng tẽ làm đôi và hiện lên thần rùa kim quy có lấy một cái vuốt vàng của mình cho nhà vua và dặn nhà vua về chế tác thành nỏ thần thì sẽ lấy lại được thành và không sợ bất cứ một quân xâm lược nào cả. Ở đây ta thấy được đời sống tâm linh của nhân dân người Việt. Thần Kim Quy đã mang đến sự giải cứu cho nhà vua. Không ở câu chuyện lịch sử này mà ngay cả đến thời vua Lê Lợi cũng thế. Nhà vua cũng được thần kim quy cho mượn thanh kiếm vàng để đánh tan quân giặc. Và chính vì thế vua An Dương Vương đã chiếm lại được thành và cứ mỗi lần có quân xâm lược thì vua lại đem nỏ thần ra bắn. Vậy nên không có bất cứ một tên giặc nào có thể lọt vào thành chiếm thành được.
Cuộc sống tưởng chừng bình yên từ đấy nhưng lại không. Đó chỉ là sự khởi đầu tốt đẹp mà thôi. Triệu Đà như đoán được nhà vua có bảo bối gì cho nên hắn có nhiều quân tốt đến đâu cũng không thể nào đánh lại An Dương Vương. Thế rồi hắn bày trò cầu hòa để thám thính. Trọng Thủy con trai của hắn chính là người có nhiệm vụ tìm ra vũ khí bí mật ấy. Trọng Thủy được lấy con gái của An Dương Vương tên là Mị Châu. Tuy họ là người của hai bên vua cha đối đầu với nhau nhưng khi gặp gỡ và trở thành vợ chồng họ đã yêu thương nhau thật lòng. Về phần vua An Dương Vương lại không hề đề phòng gì trước sự cầu hòa của đối phương. Đó cũng chính là một sai lầm dẫn tới bi kịch. Thế rồi cô con gái của ông cũng ngây thơ mà không đề phòng gì người chồng của mình. Hai người sống hạnh phúc và cô đã đem cái chuyện bí mật về nỏ thần kia cho Trọng Thủy nghe. Vậy là bi kịch bắt đầu từ hành động dại dột ấy. Trong Thủy lén lấy chiếc nỏ thần và dặn người vợ của mình là khi nào đi nhớ làm dấu xong chuyện chàng sẽ đuổi theo nàng.
Vậy là Triệu Đà sau khi đoạn được mục đích đã mang quần đến xâm chiếm thành. An Dương Vương vẫn không biết chuyện bèn sai người đi tìm nỏ thần ra nhưng khổ nỗi không thấy đâu cả. Ngay cả nhà vua vẫn không nghĩ rằng Trọng Thủy lấy. Vì thế cũng đành nghênh chiến đánh Triệu Đà. Quân vua không có nỏ thần yểm trợ thì tan tác thua trận. Vua An Dương Vương đã đưa Mị Châu lên ngựa và chạy ra phía biển để cầu cứu Long Hải. Trên đường đi nàng vẫn không hề hay biết Trọng Thủy lừa dối mình vẫn làm theo lời chàng dặn. Nàng dứt những chiếc lông ngỗng để làm dấu cho chàng chạy theo. Có thể nói Mị Châu là một cô gái hết sức ngây thơ không biết đến mưu hại người khác. Đồng thời ta cũng thấy được tình cảm mà hai người dành cho nhau là một tình cảm vợ chồng thật sự.
Đến bên bờ biển, rùa thần hiện ra nói rằng chính người ngồi sau ngựa là kẻ đã làm nên những chuyện này. Người cha An Dương Vương không ngần ngại do dự gì mà rút kiếm chém đầu con gái mình ngay tức khắc. Sau đó cùng với rùa kim quy rẽ nước xuống long cung. Bi kịch ấy cho thấy người con gái ngây thơ kia đã làm mất nước của cha mình. Nhưng cũng thật đáng thương cho cô khi chết đi mà không hiểu tại sao mình bị chết. Một điều khiến cho chúng ta phải suy nghĩ về hành động của người cha. Vua An Dương Vương không phải là không thương con nhưng trước những lời nói của thần kim quy ông như tức giận trước người con gái của mình. Chính vì sự ngây thơ tin người của cô đã làm ông mất nước. Bi kịch tình cha con là như vậy đấy. Chỉ khổ cho người con gái nhu mì nết na kia chết một cách oan ức không biết mình đã làm nên tội tình gì. Cô gái thánh thiện ấy chỉ biết rằng mình nghe lời vua cha và có một tấm lòng vàng son với người chồng của mình mà thôi. Chết đi cô biến thành ngọc trai thể hiện sự ngây thơ trong trắng trong tâm hồn mình.
Về phần trọng Thủy thì sau khi hoàn thành nhiệm vụ chàng đuổi theo nàng nhưng đó lại cũng là dấu hiệu để cho cha chàng đuổi theo để giết vua An Dương Vương. Khi đến nơi Trọng Thủy thấy xác của vợ mình đã vô cùng đau xót. Suy cho cùng Trọng Thủy cũng vì vâng lời cha mình chứ bản thân chàng không hề độc ác. Chàng yêu thương mị Châu thật lòng chứ không phải lừa dối. Chàng chỉ làm theo lời của cha mình mà thôi. Ở đây ta thấy sự trung hiếu của người con trai dành cho cha mình chứ bản thân chàng cũng không ý thức được việc làm của mình sẽ gây ra cái chết thương tâm của nhiều người như vậy. Và Trọng thủy mỗi lần tắm nhìn xuống giếng lại thấy hình bóng của Mị Châu dưới đó. Anh quá đau đớn vì thế cho nên anh quyết định nhảy xuống giếng ấy để tử tự.
Câu chuyện kết thúc với một tấn bi kịch về mất nước, tình cha con, tình nghĩa vợ chồng. Họ đều nhận lấy một kết cục cho việc làm của mình. An Dương Vương vì không đề phòng mà thành ra như thế. Mị Châu quá đỗi ngây thơ tin người, Trọng Thủy vì tình nghĩa cha con không ý thức việc làm của mình. Tất cả những việc làm ấy đã dẫn đến bi kịch nhưng ta vẫn thấy được những vẻ đẹp của họ. An Dương Vương thẳng tay chém con thể hiện lòng yêu nước, Mị Châu yêu thương cha, yêu thương son sắt người chồng. Trong Thủy là một người con có hiếu và yêu thương vợ mình.
Phân tích truyện An Dương Vương – Mẫu 5
Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một truyền thuyết đặc biệt của nước ta nói về vấn đề chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm để lại trong lòng người đọc rất nhiều những ấn tượng sâu sắc về tình cảm cha con tình cảm vợ chồng. Nội dung câu chuyện kể về cha con An Dương Vương vì cả tin vì chủ quan nên đã bị cha con Triệu Đà lợi dụng hãm hại dẫn đến cảnh nước mất nhà tan.
Câu chuyện kể về thần Kim Quy là một con rùa thần sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, trước khi ra về, thần Kim Quy còn tặng cho chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược. Triệu Đà cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy, vua vô tình đồng ý. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc. Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Thần Kim Quy hiện lên kết tội Mị Châu, vua chém chết con rồi đi xuống biển. Mị Châu chết, máu chảy xuống biển thành ngọc trai. Trọng Thủy mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương Mị Châu, Trọng Thủy lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng nước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm.
Đầu tiên nhân vật An Dương Vương trong truyện được thần linh giúp đỡ là do nhà vua sớm đề cao cảnh giác xây dựng loa thành xây thành đắp lũy cho rèn đúc vũ khí để chống giặc ngoại xâm. Ông đã cho dời đô từ Phú Thọ về vùng đồng bằng Đông Anh Hà Nội ngày nay. Điều đó chứng tỏ rằng ông là một ông vua rất thông minh sáng suốt thể hiện bản lĩnh vững vàng của nhà vua. Thế nhưng ông cứ xây thành thì ban ngày xây ban đêm lại đổ, nhân dân giải thích chuyện này là do ma quỷ quấy nhiễu. Thế nhưng thực tế là do ông chưa hiểu được thế đấy ở vùng đồng bằng này. Sau đó nhờ có thần Kim Quy giúp đỡ nên ông xây thành chỉ nửa tháng là xong. Hành động lập đàn trai giới, đón mời cụ già vào điện hỏi kế xây thành, ra cửa Đông đợi sứ Thanh Giang, nghe lời Rùa Vàng diệt trừ yêu quái,… thể hiện thái độ trân trọng hiền tài của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sự giúp đỡ của Rùa Vàng chứng tỏ việc xây Loa Thành của An Dương vương là hợp ý trời, hợp lòng người, cho nên được dân chúng ủng hộ. Tưởng tượng ra sự giúp đỡ này nhân dân ta đã ca ngợi công lao của An Dương Vương trong việc dựng thần chế nỏ cũng như những chiến công trong việc đánh giặc của dân tộc ta. Có chiếc nỏ thần nên An Dương Vương đánh cho quân giặc xâm lược khiếp sợ. Sự thất bại của ông chính là lúc ông coi thường khinh suất kẻ địch khi nhà vua chấp nhận lời làm hòa của kẻ thù thậm chí còn nhận lời cầu hôn của Triệu Đà và còn để cho Trọng Thủy về ở rể. Ở đây sai lầm của ông là đã lơ mơ khinh thường về sự xảo quyệt của kẻ thù đẩy nước nhà đến cảnh nước mất nhà tan. Ông quá khinh địch tự cho mình có nỏ thần có thành quách kiên cố nên không sợ ai. Bên cạnh đó ông còn có tư tưởng muốn yên ổn không muốn chiến tranh có tâm lý muốn an nhàn. Chi tiết Rùa Vàng và hình ảnh ông chém đầu con gái là tưởng tượng của nhân dân ta thể hiện sự biết ơn của nhân dân ta về những chiến công mà ông đã đạt được và thể hiện sự kính trọng của tác giả về một con người kiên trực luôn luôn phục vụ đất nước nhân dân và sẵn sàng giết chết con gái mình khi bán nước. Điều đó cũng nhằm xoa dịu nỗi đau của nhân dân về chuyện mất nước.
Câu chuyện có tính cao trào chính là do hình tượng nhân vật Mị Châu. Nhân vật này là con gái vua nhưng đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng. Đầu tiên sai lầm của Mị Châu là ở chỗ Mị Châu cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần và khi rút chạy nàng cũng không phân được đâu là thù đến khi chiến trận giữa hai nước xảy ra ở chỗ vẫn rắc lông ngỗng cho Trọng Thủy và quân lính đuổi theo. Trước tiên ta thấy rằng Mị Châu với thân phận là công chúa nhưng cũng không phân biệt đâu là bạn đâu là thù chỉ nghĩ đến tình cảm vợ chồng mà không suy nghĩ sâu xa đến cảnh đất nước. Chúng ta cũng cần trách An Dương Vương cũng là một người cha không dậy được con không dạy cho con biết đâu là thù đâu là bạn đẩy con gái đến bờ vực của một kẻ hại nước bán nước. Cuối cùng phần kết chuyện nhân vật Mị Châu bị cho chém chết hành động này là một sự trừng trị thích đáng với Mị Châu. Cuối cùng hình ảnh Mị Châu cũng được hóa thành ngọc trai mà không chết thể hiện tấm lòng nhân đạo và cũng rất bao dung của tác giả dân gian. Bên cạnh việc ta trách móc nhân vật Mị Nương ta cũng thấy rằng Mị Nương cũng là một người vợ mà đã là một người vợ thì phải theo chồng nghe theo ý kiến của chồng. Tuy vậy ta bỏ qua những yếu tố ảnh hưởng đến những hành động sai lầm của nhân vật thì chính bản thân Mị Nương là người đáng trách nhất. Qua hình tượng nhân vật Mị Nương tác giả cũng muốn nhắn nhủ đến thế hệ trẻ trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa cái riêng với cái chung.
Nhân vật Trọng Thủy chính là nhân vật cốt lõi gây ra tình cảnh mất nước của nước Âu Lạc. Trọng Thủy chính là một kẻ thù của nhân dân ta khi nghe theo lời cha để sai khiến vợ ăn trộm nỏ thần khiến chúng ta rơi vào cảnh nước mất nhà tan. Có thể nói hành động của Trọng Thủy là hành động xấu xa của một tên ăn cắp lợi dụng sơ hở của người khác. Bên cạnh đó hình ảnh ngọc trai giếng nước cũng là một hình ảnh khá đẹp kết thúc câu chuyện và cũng là kết thúc mối tình giữa hai người. Chính việc thêm vào truyện các chi tiết thần kì này đã giúp cho câu chuyện thêm hấp dẫn và sinh động. Tình yêu Mị Châu – Trọng Thủy thắm thiết nhưng bi thảm. Nhân dân ta không ca ngợi, mà chỉ dành cho họ một niềm thương xót vì hạnh phúc lứa đôi của họ bị chiến tranh làm cho tan vỡ. Mối oan tình ấy đã được đền bù bằng hình ảnh ngọc trai, giếng nước. Đây là hình ảnh thể hiện thái độ phản kháng chiến tranh xâm lược, là tiếng nói nhân đạo và cũng là cách kết thúc có hậu của truyện cổ. Nó cũng thể hiện một cái nhìn bao dung của nhân dân ta với các nhân vật lịch sử và với tất cả những gì đã xảy ra.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, cho đến tận ngày nay vẫn chiếm được cảm tình của người đọc. Người ta đọc truyện để hiểu về lịch sử, để rút ra những bài học bổ ích cho mình và cho con cháu đời sau. Nhưng không chỉ thế, đọc truyền thuyết này, người ta còn muốn hiểu sâu sắc hơn bi kịch của một mối tình rất đẹp trong lịch sử.
Phân tích truyện An Dương Vương – Mẫu 6
“Em hóa đá ở trong truyền thuyết
Để bao cô gái như em không phải hóa đá trên đời”
-Trần Đăng Khoa-
“Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để lên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
-Tố Hữu-
Những vần thơ trên chính là minh chứng cho sự nổi tiếng của truyền thuyết An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy, một truyền thuyết gắn liền với lịch sử dân tộc và có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn hóa của nước nhà, đi vào các tác phẩm thơ ca, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc biết bao nhiêu thế hệ.
An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy không chỉ đơn thuần là một câu chuyện nói về biến cố cuộc đời của ba nhân vật chính, mà ẩn đằng sau nó là những bài học vô cùng sâu sắc về đạo làm vua, làm con, làm vợ, làm chồng và làm con dân của một quốc gia. Đó là những bài học ứng xử trong cuộc sống, sự lựa chọn đúng đắn giữa tình thân, tình yêu, và an nguy của quốc gia mà cho đến tận ngày hôm nay nó vẫn mang trọn ý nghĩa thuở ban đầu. Dẫu rằng kết cục là bi thương nhưng có lẽ đó chính là cái giá phải trả cho sự lựa chọn, ứng xử sai lầm của các nhân vật chính, để lại trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ trăn trở.
Truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy gắn liền với quần thể di tích tại làng Cổ Loa huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết xuất xứ với tên Truyện Rùa Vàng nằm trong tập Lĩnh Nam chích quái được sưu tầm vào khoảng cuối thế kỷ XV.
Trước hết là nói về nhân vật An Dương Vương là người mở đầu cho cả truyền thuyết với hai giai đoạn cuộc đời, và dường như đâu đó ta cũng cảm nhận được ở hai đoạn đời này An Dương Vương lại hiện lên như hai con người khác nhau. Từ một con người anh minh sáng suốt gắn với công cuộc dựng nước và giữ nước oai hùng, thì ở đoạn đời thứ hai ông lại trở thành một người chủ quan, mất cảnh giác, khinh địch nên dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan, tình thân đứt đoạn. An Dương Vương là người có công lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Với một số sự kiện tiêu biểu như: Dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa, đây được xem là một quyết định sáng suốt, khi đất nước đã trải qua thời giữ nước đầy gian lao, nay đã bước sang giai đoạn phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị, chính vì vậy vùng đồng bằng giao thông thuận lợi như Cổ Loa chính là một lựa chọn đúng đắn cho việc dời đô. Sau khi dời đô về đồng bằng thì với đôi mắt nhìn xa trông rộng của một quân vương, An Dương Vương đã rất kỹ lưỡng trong công việc xây thành Cổ Loa một cách kiên cố theo hình xoắn ốc, để kinh đô được bảo vệ bởi nhiều vòng thành, phòng khi có giặc ngoại xâm.
Không chỉ xây dựng thành trì kiên cố mà An Dương Vương còn chuẩn bị đầy đủ vũ khí để đề phòng giặc ngoại xâm, không còn là các loại vũ khí đánh giáp lá cà mà là loại vũ khí đánh xa, tiêu diệt quân địch khi chúng chưa kịp bước đến đến chân thành trì, nhằm các yếu tố nguy cơ. Tiêu biểu cho loại vũ khí này chính là nỏ thần, cũng là đại diện cho các loại nỏ và cung tên với lực sát thương mạnh mẽ, từ xa, điều này đã thể hiện sự thông minh, tài thao lược của một đấng quân vương. Với tất cả sự anh minh, sáng suốt của mình thì kết quả mà An Dương Vương nhận được ấy là chiến thắng vang dội trong cuộc xâm lược của Triệu Đà lần thứ nhất.
Từ những nhận định trên có thể thấy rằng An Dương Vương trong giai đoạn thứ nhất của cuộc đời là người tài giỏi, mang tầm vóc của một vị đế vương tài ba, lý tưởng, có tinh thần cảnh giác cao độ và ý chí quyết tâm đánh giặc. Bên cạnh đó sự trợ giúp của thần linh (Rùa Vàng) chính là minh chứng cho tính chất chính nghĩa của các công việc mà An Dương Vương thực hiện bao gồm việc dời đô, xây thành, chuẩn bị vũ khí chống giặc ngoại xâm.
Bước sang giai đoạn thứ hai của cuộc đời An Dương Vương, cũng tức là khi đất nước vừa chiến thắng lần xâm lược đầu tiên của Triệu Đà, đất nước bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định để phát triển, thì ở vị vua này bắt đầu có những biểu hiện của sự mất cảnh giác, buông lỏng tinh thần cuối cùng dẫn tới bi kịch mất nước. Nguyên nhân chính đến từ việc An Dương Vương mất cảnh giác, mơ hồ trước âm mưu của kẻ thù. Khi Triệu Đà cầu hòa với mục đích trì hoãn để tìm hiểu tình hình thì An Dương Vương lại không hề nhận ra mưu sâu kế hiểm của giặc mà dễ dàng nhận lời không hề có sự đề phòng chuẩn bị.
Sai lầm thứ hai cũng là sai lầm đặc biệt nghiêm trọng của nhà vua ấy là chấp nhận cả lời cầu thân của Triệu Đà, gả con gái yêu của mình cho con trai của giặc, chẳng khác nào giao trứng cho ác. Kéo theo sai lầm thứ 2, chính là sai lầm tiếp theo của An Dương Vương khi cho Trọng Thủy sang ở rể theo tục lệ của nước Thục ta, chẳng khác nào đang cõng rắn cắn gà nhà cả, để con trai của kẻ thù làm nội gián ở ngay trong nhà mình mà không mảy may suy nghĩ. Bi kịch mất nước không chỉ nằm ở sự mất cảnh giác mà còn nằm ở sự chủ quan của nhà vua, dễ dàng cho Trọng Thủy về nước thăm cha mà không hề nghi ngờ.
Đặc biệt là đến khi Trọng Thủy trở kéo quân sang âm mưu xâm lược lần thứ hai, giặc đã đến gần sát chân thành rồi nhưng An Dương Vương vẫn bình chân như vại, không hề mảy may chuẩn bị chống giặc, cậy cả vào việc mình đã có nỏ thần lợi hại với sức mạnh vạn năng. Từ những dẫn chứng trên ta có thể thấy rõ một điều rằng An Dương Vương đã đánh mất sự anh minh, sáng suốt đáng quý nhất của mình, sở dĩ có điều đó bởi trước đây bên cạnh nhà vua có sự xuất hiện của Rùa Vàng, vị thần đại diện cho trí tuệ, khi Rùa Vàng rời đi cũng là lúc vị thần trí tuệ ấy rời đi, cho nên An Dương Vương mới trở nên chủ quan, mất cảnh giác đến độ vậy.
Một cách lý giải khác cho sự đi xuống của nhà vua ấy là do tâm lý thông thường của con người, khi chiến thắng người ta thường dễ ngủ quên trong chiến thắng ấy, “mãn nguyện” với những gì mình có và không muốn phải suy nghĩ gì thêm, mong mọi chuyện đều trở nên dễ dàng, giống như kẻ được điểm mười, thì thường nghĩ mình đã giỏi vậy. Cuối cùng sau tất cả những sai lầm của mình An Dương Vương đã phải đối mặt với hàng loạt bi kịch đau đớn, trước hết là bi kịch mất nước, bị kẻ thù – con rể của mình truy đuổi đến cùng đường, vô cùng thảm hại.
Bi kịch thứ hai, ấy là bi kịch với tư cách cá nhân, bi kịch của một người cha trong gia đình, bị con gái đâm sau lưng mà không hề hay biết dù rằng Mị Châu không hề cố ý, rồi phải tự tay chém đầu đứa con gái ruột duy nhất của mình, để trả nợ cho nước, trừng phạt kẻ đã gây ra họa diệt quốc. Có thể nói cùng với nỗi đau mất nước, thì nỗi đau tự tay kết liễu người thân cũng đau đớn chẳng kém gì.
Kết thúc cuối cùng là bất tử hóa nhân vật An Dương Vương, thực tế là mỹ lệ hóa cái chết của ông, bởi do ông là người có công trong công cuộc dựng nước và giữ nước, dẫu rằng có sai lầm thế nhưng về phần công trạng là không thể nào phủ nhận. Kết cục ấy cũng coi như là bù đắp cho An Dương Vương, tuy nhiên vì là người có tội với đất nước nên không thể được tiếp tục sống trên trần gian, cũng không thể có một cái kết huy hoàng như Thánh Gióng, mà chỉ có thể tiếp tục cuộc đời một cách im lặng theo ngòi bút của các tác giả dân gian.
Với nhân vật Mị Châu, nàng thuộc kiểu nhân vật phức tạp, là tội nhân của bi kịch mất nước nhưng đồng thời cũng là nạn nhân của bi kịch tình yêu, cuộc đời nàng phải chịu nhiều giằng xé và đau đớn hơn cả. Với tư cách là tội nhân làm mất nước, Mị Châu có hai tội lớn, đầu tiên là sự mất cảnh giác, mà nguyên nhân sâu xa ấy là xuất phát từ cha của nàng, nếu cha nàng không gả nàng cho Trọng Thủy, rồi cho Trọng Thủy ở rể có lẽ sẽ chẳng bao giờ có cớ sự đau thương. Mị Châu là một người con gái yếu đuối, nghe theo sự sắp đặt của cha gả cho Trọng Thủy, dĩ nhiên rằng nàng cũng bị ám thị rằng chồng mình là người có thể tin tưởng, dẫn tới việc mất cảnh giác một cách nghiêm trọng.
Sai lầm này chính là nguyên nhân cho sai lầm tiếp theo của Mị Châu, đó là cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, được coi tội làm lộ bí mật quốc gia, vốn là cốt lõi của sự sống còn đất nước, dân tộc. Thế nhưng chẳng biết Mị Châu là ngây thơ hay mù quáng tin vào tình yêu để nên nỗi quên mất cả bổn phận của một công dân, đặc biệt là tư cách của một công chúa có trách nhiệm bảo vệ quốc gia, dân tộc mình. Sự mất cảnh giác của Mị Châu còn tiếp tục lên một tầm cao mới khi Trọng Thủy về nước thăm cha có để lại lời dặn dò: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ, ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng lấy gì làm dấu?”.
Nếu như là một người bình thường, chỉ cần có chút tỉnh táo thì đã có thể dễ dàng nhận ra những ẩn ý đằng sau câu nói của Trọng Thủy, thế nhưng chính vì sự tin tưởng tuyệt đối, mất cảnh giác của mình mà Mị Châu còn hồn nhiên đáp lại rằng sẽ lấy áo lông ngỗng rải đường cho Trọng Thủy tìm mình. Nàng cư nhiên nghĩ đến cả tình huống xấu nhất, thế nhưng cũng chỉ chăm chăm nghĩ cách bảo vệ hạnh phúc gia đình, chứ không hề mảy may nghĩ đến chuyện nghi ngờ, cân nhắc lợi ích quốc gia.
Tội thứ hai của Mị Châu ấy là đã không xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa việc nước và việc nhà, trong khi bản thân nàng không chỉ là một người vợ mà trên hết nàng là công chúa của một đất nước. Dẫu rằng không phải gánh trọng trách cầm đao đánh giặc nặng nề giống như cha mình, thế nhưng Mị Châu đã ngồi vị trí cao hơn người khác thì cần thiết phải có ý thức bảo vệ cơ đồ tổ tiên đã để lại cùng với cha mình.
Thế nhưng nàng vẫn xử lý theo cảm tính, vẫn chỉ chăm chăm vào tình cảm của mình với Trọng Thủy, ngay cả khi hai nước đã trở mặt thành thù, vẫn rắc áo lông ngỗng để Trọng Thủy đuổi theo tìm giết cha mình. Chính vì sự mê muội, cả tin của mình thế nên Mị Châu đã phải gánh chịu kết cục bi thảm, bị kết tội là giặc, là kẻ phản bội Tổ quốc, phản bội cha mình và cuối cùng là bị chính tay cha mình chém đầu, chịu cái chết tàn khốc và đau đớn vô cùng.
Bên cạnh tư cách là tội nhân của bi kịch mất nước thì Mị Châu còn hiện lên với tư cách là nạn nhân của bi kịch tình yêu. Ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng, Mị Châu là một cô gái trong sáng, ngây thơ, nàng đã dành hết tất cả tình yêu tha thiết của cuộc đời mình dành tặng cho Trọng Thủy thế nhưng kết cục mà nàng nhận lại chỉ là sự lừa dối, phản bội, lợi dụng từ chồng. Nàng bị rơi vào nghịch cảnh trái ngang ấy là khi trao đi tình yêu một cách chân thành thì lại bị lừa dối, lợi dụng, đến khi được nhận tình yêu thực sự từ Trọng Thủy, thì trong trái tim nàng lại chỉ còn biết bao nhiêu hận thù, đắng cay chồng chất.
Có thể nói rằng cả đời Mị Châu chỉ mong ước một tình yêu vẹn toàn, thế nhưng tất cả chỉ là “hoa trong gương, trăng dưới nước”, thấy được mà không sờ được. Tình yêu đặt nhầm chỗ của nàng đã biến nàng trở thành kẻ phản bội tổ quốc, trở thành tội đồ của cả dân tộc, khiến nàng phải gánh chịu tiếng xấu ngàn đời, khiến nàng phải chịu cái chết đau đớn dưới tay người cha thân yêu. Cái chết của Mị Châu chính là một kết cục hóa thân không trọn vẹn, ứng với lời khấn cầu chứng minh sự trong sạch của nàng, máu biến thành ngọc trai, còn xác thì biến thành ngọc thạch.
Điều đó thể hiện quan điểm và thái độ của dân gian đối với nhân vật, trước hết là sự thấu hiểu thông cảm, xót thương cho số phận của Mị Châu, đồng thời là sự bất tử hóa, mỹ lệ hóa cái chết của Mị Châu. mặt khác cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của dân gian trước sai lầm và tội lỗi của nhân vật, phải chấp nhận sự hóa thân không trọn vẹn.
Cuối cùng là nhân vật Trọng Thủy cũng là một nhân vật phức tạp hiếm có trong truyện dân gian, y bị mắc kẹt giữa tham vọng quyền lực và tình yêu, chính vì thế Trọng Thủy cũng xuất hiện với hai tư cách ấy là tội nhân và nạn nhân như Mị Châu. Có thể nói rằng Trọng Thủy chính là tội nhân trong bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu mà Mị Châu phải gánh chịu. Là đàn ông “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” thế nhưng Trọng Thủy không có được cái khí khái anh hùng, làm việc quang minh chính đại, mà lại giở trò khuất tất, cầu hôn Mị Châu, lừa dối hai cha con nàng, để lập mưu ăn cắp bí mật quốc gia.
Đáng lên án nhất ấy là hành động lợi dụng tình cảm chân thành của Mị Châu để thực hiện âm mưu của mình, nhẫn tâm chà đạp lên thứ tình yêu cao đẹp ấy một cách không thương tiếc. Dẫn tới việc đẩy người vợ kết tóc, đã có đến mấy năm chung sống mặn nồng vào cảnh nước mất nhà tan, chịu nỗi oan thiên cổ, cùng với sự tuyệt vọng và cái chết đau đớn. Phải nói rằng tham vọng quyền lực đã khiến Trọng Thủy không từ bất kỳ thủ đoạn hèn hạ nào kể cả việc lợi dụng người phụ nữ chân yếu tay mềm, lại hết lòng tin tưởng mình.
Trước những tội lỗi, trước sự tàn nhẫn của bản thân Trọng Thủy đã phải chịu kết cục tự kết liễu đời mình, hình ảnh nước giếng nơi Trọng Thủy tự tử nếu lấy làm nước rửa ngọc trai, thì ngọc trở nên sáng đẹp hơn, ấy chính là biểu trưng cho cái chết đền tội của Trọng Thủy đã góp phần minh oan cho Mị Châu. Hoặc cũng có lẽ là một ẩn ý nói về việc Mị Châu đã phần nào nguôi ngoai mối hận dưới cửu tuyền, hoặc tượng trưng cho tình yêu đầy ngang trái của họ cuối cùng cũng thoát khỏi những thứ như lợi ích quốc gia, bổn phận nghĩa vụ của một công chúa, hoàng tử,…
Bên cạnh tư cách là một tội nhân thì Trọng Thủy cũng là một nạn nhân của bi kịch tình yêu, khi bị mắc kẹt giữa tham vọng quyền lực và tình yêu. Trọng Thủy không chỉ là con trai của Triệu Đà, mà còn là một bề tôi trung thành, là một hoàng tử có nghĩa vụ duy trì sự hưng thịnh của đất nước, làm trong sứ mệnh được giao mà ở đây lại là sứ mệnh gián điệp. Y yêu Mị Châu là có thật bởi tình nghĩa vợ chồng chung sống bao lâu đâu phải dễ dàng từ bỏ, đặc biệt đứng trước tình cảm chân thành, tha thiết của Mị Châu thì Trọng Thủy lại càng mềm lòng. Thế nhưng việc đại sự thì vẫn phải hoàn thành mà bản thân y cũng không muốn từ bỏ tình yêu của mình, chính vì vậy mới có lời dặn dò nếu như Nam – Bắc phân li.
Trọng Thủy vẫn hy vọng về một mái ấm với Mị Châu, thế nhưng rất tiếc tình yêu của hai người chẳng bao giờ có thể vượt qua được lợi ích của quốc gia, kết cục chỉ có thể là thù hận, là bi kịch. Sau khi kết thúc sứ mệnh của mình, trong mắt Trọng Thủy có lẽ chỉ còn tình yêu, cái chết của Mị Châu đã làm y đau đớn khôn xiết, thế nên cái chết chính là để tạ lỗi với nàng, đồng thời có lẽ cũng là một con đường mà Trọng Thủy nghĩ ra để sum họp với Mị Châu ở dưới cửu tuyền chăng?
Chung quy lại cả Mị Châu và Trọng Thủy đều đáng trách mà cũng đáng thương, sự trẻ trung đã khiến họ có nhiều mong ước về tình yêu, thế nhưng lợi ích quốc gia dân tộc vốn là bổn phận của mỗi con người, ngay từ đầu đã định rằng họ là người của hai chiến tuyến khác biệt, chỉ tại cái duyên ngang trái thế nên cuộc đời họ mới rơi vào bi kịch chồng chéo và phức tạp đến tử biệt sinh ly.
An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc khi đề cập đến các cách ứng xử trong mối quan hệ giữa công dân với Tổ quốc, mối quan hệ cha con, vợ chồng, quân thần,… Từ đó đưa ra những bài học đáng giá dành cho hậu thế về cách xử lý giữa tình cảm cá nhân và lợi ích dân tộc, con người ta cần phải lý trí khi đứng trước an nguy của Tổ quốc, phải đặt cái lợi ích chung của đất nước lên trên tình cảm cá nhân, bằng không nếu cứ sống theo cảm tính thì chính là đại hận thiên thu.
Thêm vào đó truyền thuyết còn răn dạy con người chớ ngủ quên trên chiến thắng, dù là trong việc trị quốc, bình thiên hạ hay trong đời sống thường ngày, bởi đó chính là vực sâu vạn trượng, bước nhầm một bước thì không có ngày mai.