Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện Tam đại con gà (Dàn ý + 8 Mẫu), Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện Tam đại con gà là tài liệu cực kì hưu ích mà hôm nay Tài Liệu Học Thi
Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện Tam đại con gà gồm dàn ý chi tiết, cùng 8 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 10 hiểu sâu sắc hơn về truyện Tam đại con gà trong chương trình Ngữ văn lớp 10.
Thông qua việc phân tích truyện Tam đại con gà, một truyện cười dân gian vô cùng đặc sắc mượn tiếng cười trào phúng để đả kích, phê phán thói ngu dốt của những ông thầy đồ trong xã hội xưa, các em sẽ hiểu hơn về thể loại văn học này và rút ra được những bài học bổ ích cho chính bản thân qua tiếng cười sâu cay đó.
Xem Tắt
- 1 Dàn ý phân tích truyện Tam đại con gà
- 2 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 1
- 3 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 2
- 4 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 3
- 5 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 4
- 6 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 5
- 7 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 6
- 8 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 7
- 9 Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 8
Dàn ý phân tích truyện Tam đại con gà
I. Mở bài
– Giới thiệu về thể loại truyện cười: Là thể loại tự sự dân gian thông qua tiếng cười để đả kích, phê phán
– Giới thiệu khái quát về truyện cười Tam đại con gà: Là truyện cười trào phúng đặc sắc, phê phán sự dốt nát và thói bảo thủ che che đậy sự dốt nát của một ông thầy và cũng là của một bộ phận nhân dân bằng tiếng cười sâu cay.
II. Thân bài
1. Tình huống truyện
– Anh học trò dốt nát nhưng lại hay khoe khoang lên mặt văn hay chữ tốt, có người mời anh ta về dạy học
→ Sự xuất hiện của nhân vật đã gây ra tiếng cười bằng cách tạo ra những mâu thuẫn: Dốt mát – hay khoe khoang, dốt nát, hay khoe khoang – được là thầy.
– Anh ta bị đẩy vào hai tình huống éo le:
+ Đi dạy học trò nhưng không biết mặt chữ vì có nhiều nét rắc rối, lại bị học trò hỏi gấp, cuống quá phải nói liều.
+ Bị người nhà phát hiện giảng sai, thầy phải bao biện, giấu dốt.
→ Thầy đồ dốt nát, đến chữ vỡ lòng còn không biết. Không những thế còn giấu dốt và lừa gạt người.
2. Giải quyết tình huống
– Giải quyết tình huống 1:
+ Thầy nhắm mắt nói liều, sợ sai nên bảo học trò đọc khẽ, trong lòng vẫn thấp thỏm.
→ Thầy đồ dốt nát nhưng lại biết cách che đậy sự dốt nát ấy.
→ Cách nói mỉa mai “thầy cũng khôn” là sự châm biếm của dân gian về sự khôn lỏi của kẻ dốt.
+ Khấn thổ công, xin đài âm dương xem chữ đó có đúng không. Được đài, thầy đắc chí ngồi bệ vệ trên giường bảo học trò đọc to.
→ Thầy đã dốt còn mê tín, huênh hoang, tự đắc. Tiếng cười được mở rộng, cái dốt của thầy càng lộ rõ.
– Giải quyết tình huống 2:
+ Người lật tẩy cái sai của thầy là chủ nhà, một người nông dân vô học.
+ Thầy thầm nghĩ “ mình đã dốt, thổ công nhà nó còn dốt hơn mình”
→ Thầy đồ ý thức được cái dốt của mình nhưng lại bảo thủ, cố tình bao biện, che giấu. Cách nghĩ của thầy khiến cho ta phải bật cười
+ Thầy ngụy biện bằng việc giảng giải tận gốc vấn đề: dạy cháu để biết đến tận tam đại con gà “dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”
→ Thầy là kẻ ma lanh, láu cá, lí sự cùn để che đậy bản chất dốt nát của mình. Tiếng cười bật ra.
3. Ý nghĩa phê phán của câu chuyện
– Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân.
– Phê phán thói giấu dốt, một tật xấu phổ biến trong nhân dân.
– Phê phán hiện thực xã hội: kẻ dốt, kẻ ma lanh, láu cá được trọng dụng.
– Khuyên mọi người phải không ngừng học hỏi, không nên giấu dốt
4. Nghệ thuật
– Kết cấu ngắn gọn, chặt chẽ
– Xây dựng những tình huống mâu thuẫn, trái tự nhiên, gây ra tiếng cười
– Cách giải quyết tình huống bất ngờ, hài hước
– Cách sử dụng từ ngữ tạo ra tiếng cười sâu cay.
III. Kết bài
– Khái quát nội dung và nghệ thuật truyện cười Tam đại con gà
– Mở rộng: Ngoài “Tam đại con gà, truyện cười trào phúng dùng tiếng cười để đả kích phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội rất phong phú như: Nhưng nó phải bằng hai mày, lợn cưới áo mới, đẽo cày giữa đường,…Mỗi truyện lại đem lại những bài học sâu cay đằng sau tiếng cười sảng khoái. Tất cả đã làm nên đặc sắc của thể loại truyện cười.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 1
Những câu truyện ngụ ngôn hẳn không còn xa lạ với bất cứ ai, sau tiếng cười giải trí là những bài học sâu cay nhằm phê phán, lên án những loại người trong xã hội. Nó được kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ với những cử chỉ hành vi tự nhiên của con người. Một trong số đó là truyện cười Tam đại con gà là một câu chuyện khá thú vị mang tính bi hài, nhằm châm biếm thói học dốt còn hay nói chữ của một bộ phận người trong xã hội.
Cái dốt đáng xấu hổ nhưng nếu con người tự nhận thức ra được điều đó thì không đáng cười. Dân gian có câu “Biết thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” nhằm khuyên người đời: biết thì nói, không biết thì im lặng mà nghe, có thế mới học hỏi được người khác. Vậy nên, một khi cái dốt đã được tự nhận thức thì nó sẽ không trở thành đối tượng trong truyện cười dân gian. Trái lại, trong truyện này anh học trò đã dốt nhưng “đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”.
Nhân vật chính bị chấm biếm trong Tam đại con gà là một anh học trò “dài lưng tốn vải”, học hành dốt nát những lúc nào cũng tỏ ra mình học rộng tài cao. Tuy nhiên, chính sự khoe khoang đó lại khiến nhiều người không biết và tin tưởng anh ta văn hay chữ tốt, mời về dạy dỗ con mình. Cũng từ đó, sự kém cỏi của anh ta dần bộc lộ một cách bi hài. Để phê phán một nhân cách thông qua tiếng cười, tác giả dân gian đã tạo cho người nghe tiếng cười liên tục bằng cách tạo nên một cấu trúc tầng bậc gồm nhiều chi tiết mâu thuẫn, đáng cười.
Thứ nhất, Là một thầy đồ đi dạy chữ, nhưng bản thân anh ta lại chưa nhận rõ mặt chữ. Khi học trò hỏi, anh ta luống cuống mà trả lời liều. Rõ là chữ “kê”, nhưng anh ta lại nói bừa “dủ dỉ là con dù dì”, trong khi trên đời vốn chẳng có con nào tên như thế. Có thể thấy, cái sự dốt nát của anh ta không chỉ ở tầm kiến thức hạn hẹp, không có chút tri thức sách vở, mà ngày các những kiến thức cơ bản trong xã hội cùng không nắm được. Thế mà anh ta lại dám ngang nhiên nhận lời đi dạy học cho người ta. Để rồi quá trình dạy học đã khiến bản chất mà anh ta luôn cố giấu kín hoàn toàn lộ rõ.
Nụ cười càng dâng cao khi thầy bảo trò đọc khẽ vì sợ người khác nghe thấy sẽ để lộ ra cái dốt của mình, làm người dạy học mà lại không biết chữ. Mánh khóe giấu dốt đầy láu cá của anh ta tạo nên tiếng cười giòn giã cho người đọc. Thứ hai: dốt sinh ra mê tín (khấn đài âm dương, Thổ công cho cả ba). Sự xuất hiện của nhân vật Thổ Công khiến nghệ thuật trào phúng và ý nghĩa phê phán của truyện càng thêm sâu sắc. Hóa ra, thánh thần cứ tưởng là thiêng liêng, nhưng thực chất cũng là kẻ dốt nát.
Sở dĩ nói như vậy là bởi khi thầy xin đài âm dương hỏi chữ đó có đúng là chữ “dù dì”, Thổ Công đã cho được cả 3 đài. Như vậy, Thổ Công cũng nhất trí với thầy đồ. Thế là cái dốt được bộc lộ hoàn toàn khi anh ta tự tin mình đúng, cho học trò gân cổ lên gào “Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì…”
Chủ nhà cuối cùng cũng phát hiện ra sự dốt nát của thầy đồ không biết mặt chữ. Nhưng anh ta vẫn không chịu thừa nhận cái dốt của mình mà trách Thổ Công “mình đã dốt nó còn dốt hơn”, rồi tìm mọi cách giải “oan”, nhưng mỗi câu chữ đều luẩn quẩn và nực cười.
Rõ ràng, anh “thầy đồ” này là kẻ dốt toàn diện. Khi không biết, dáng ra anh ta phải tra trong sách vở, đằng này lại làm việc ngược đời là hỏi Thổ Công. Đây là một chi tiết rất đắt giá của Truyện, thể hiện sự sáng tạo, nghệ thuật phát triển vấn đề. Những hành động phi lý của anh ta được nâng dần lên theo trình tự. Đây cũng là một thủ pháp đặc trưng trong truyện cười ngụ ngôn dân gian.
Bằng tiếng cười, truyện tập trung phê phán thói giấu dốt phổ biến ở nhiều đối tượng trong cuộc sống. Và thật buồn thay, hiện tượng giấu dốt hiện nay vẫn còn phổ biến nhiều trong giới trẻ. Nhiều người sợ người khác biết mình dốt, mình không hiểu biết. Thế nên, ngại nói, không dám nói. Đặc biệt, nhiều bạn học sinh còn cố tỏ ra mình hiểu biết, trong khi đó, không hiểu gì về bản chất thực sự của vấn đề. Truyện cười Tam đại con gà không chỉ có ý nghĩa đối với thời xưa, mà còn là một bài học cảnh tỉnh, nhắc nhở sâu sắc cho cả ngày hôm nay.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 2
Truyện Tam đại con gà là một câu chuyện hay và mang ý nghĩa phê phán sâu sắc. Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân, một tật xấu phổ biến và rút ra được nhiều bài học cho chính bản thân mình.
Mở đầu truyện, tình huống mâu thuẫn đã được bộc lộ, tức là cái cười đã được mai phục: “Xưa có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”. Ở anh học trò này chứa đựng mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự trống rỗng, dốt nát bên trong và sự khoe mẽ, lên mặt ta đây giỏi bề ngoài. Từ sự giới thiệu khái quát chung đó, câu chuyện đi vào những chi tiết cụ thể: anh được mời dạy trẻ vì người ta tưởng anh vẫn hay chữ tốt thật.
Vì thực chất kém cỏi, dốt nát mà lại nhận đi làm thầy dạy chữ nên tất nhiên anh học trò dốt phải đối mặt với những tình huống khó xử. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự, có chữ “kê” là gà với nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều “dủ dỉ là con dù dì”. Yếu tố hài hước là ở chỗ: thầy đi dạy chữ mà chữ tối thiểu cũng không biết, đã thế lại giấu dốt, dạy sai một cách liều lĩnh.
Do học trò hỏi gấp nên thầy cuống, nói liều chứ thầy cũng biết mình dốt nên bảo học trò đọc khẽ, “trong lòng vẫn thấp thỏm”. Chi tiết thầy khấn thổ công nhà chủ “xem chữ ấy có phải thật là dù dì không” và được thổ công “cho cả ba đài” là chi tiết dẫn dắt hợp lí, tạo cho kịch tính trong truyện tiếp tục phát triển. Trước khi khấn thổ công, thầy còn thấp thỏm, “bảo học trò đọc khẽ”.
Cách xử lí của thầy có phần thận trọng vì thực chất thầy biết được sự kém cỏi của mình nhưng lại muốn che giấu: “thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ”. Như vậy, ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Chú ý cách kể chuyện rất sinh động, chính xác. Khấn thổ công xong, “thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to”.
Tình huống tiếp theo là hệ quả tất yếu của tình huống thứ nhất. Dốt chữ mà đi dạy chữ, dạy chữ sai mà cứ tưởng là đúng, cho học trò đọc to (mâu thuẫn tăng thêm). Chi tiết bố đứa trẻ là người lao động cuốc đất ngoài vườn cũng biết chữ kê nghĩa là gà (thế mà thầy không biết) – tăng tính hài hước. Tác phẩm tự sự dân gian không chú ý miêu tả tâm lí nhân vật nhưng truyện cười này đã dành một câu miêu tả ý nghĩ của thầy.
Thầy nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Ý nghĩ ấy khẳng định rằng không phải thầy nghĩ mình đúng mà thực chất là biết mình sai.
Biết là sai nhưng tiếp tục giấu dốt, tìm cách chống chế cho cái dốt của mình nên càng kích thích cho tiếng cười phát triển. Quả thật là quá liều lĩnh khi ông đồ rởm nói rằng: “Tôi vẫn biết chữ ấy là “kê”, mà ,“kê” nghĩa là gà, nhưng tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia”. “Thế này nhé ! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!”.
Từ lời giới thiệu khái quát đầu truyện đến kết thúc truyện, anh học trò làm thầy dạy trẻ đã tự bộc lộ cái mâu thuẫn trái tự nhiên của mình. Theo lẽ tự nhiên, đi làm nghề thầy đồ là phải hay chữ thì anh ta lại dốt chữ. Nghề gì thì có thể kém chữ chứ chọn nghề thầy mà dốt chữ thì nực cười lắm thay! Truyện cười đã khai thác vào vấn đề bản chất nhất của mỗi đối tượng gây cười. Có thể so sánh với một số truyện cười khác như chuyện thầy lang chữa bệnh bốc thuốc nhầm làm người bệnh chết, thầy cúng không đọc đúng tên người cần cúng vì đọc nhầm sớ của nhà khác,…
Các thầy hành nghề vì miếng cơm manh áo mà không có đạo đức nghề nghiệp. Mâu thuẫn khác ở đây là dốt nhưng lại giấu dốt, luôn khoe mình văn hay chữ tốt. Từ mâu thuẫn đó, anh đồ dốt đã tự đưa mình vào những tình huống bất lợi và phải tự bộc lộ mình. Anh ta càng cố che giấu thì người nghe càng nhận thấy sự dốt nát nhưng liều lĩnh, bất chấp đúng sai của anh ta.
Đây là truyện cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán cái xấu trong nội bộ nhân dân. Ở đời, dốt làm nghề gì cũng khổ, nhưng làm nghề thầy, dạy chữ cho người mà dốt thì vô cùng tai hại. Vả chăng, nếu biết mình dốt thì phải học hỏi cho tiến bộ chứ chỉ lo giấu dốt, che đậy cái dốt của mình thì anh ta luôn lâm vào tình thế bất lợi và chỉ trở thành trò cười cho thiên hạ.
Tuy nhiên tiếng cười ở đây không phải là tiếng cười đả kích nên vẫn làm cho người nghe cười vui vẻ và soi vào tấm gương đó để tự răn mình. Ý nghĩa tích cực của tiếng cười dân gian là ở chỗ đó.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 3
Tam đại con gào là câu chuyện vừa mang tiếng cười trào phúng mà độc giả còn có một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống, về những câu chuyện xưa. Nó một mặt tập trung vào lột tả những hành động ngược đời, là nguyên nhân gây ra tiếng cười nhưng cũng là cao trào của sự châm biếm , phê phán thói hư tật xấu, đặc biệt là cái dốt. Tam đại con gà cũng giống như những câu chuyện khác của thời xa xưa, vốn giản dị, lấy được tiếng cười nhưng còn lấy được cả sự chiêm nghiệm của con người về cuộc sống.
Với óc sáng tạo của nhân dân ta, kết hợp với những hành động những chi tiết đời thường đã tạo nên vô số những câu chuyện châm biếm rất sâu sắc. Hành động và chi tiết không tới nỗi kịch tích như các tác phẩm trào phúng, nhưng lại dễ dàng đi vào lòng người bởi lối ẩn dụ nhẹ nhàng và mang lại tiếng cười trào phúng cho độc giả.
Các tình huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên cũng chính là khi tình huống cuối cùng khép lại. Nó vừa liên tiếp, vừa đẩy tình huống đặc sắc nhất đi tới cao trào. Với tình huống thứ nhất nhằm nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ.
Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì. Những ông thầy đồ thời xưa,biết một tí chữa, đã dám mang sách đi dạy học,tới khi học trò thông minh hỏi tới lại không biết để đáp lại như thế nào. Với một chi tiết nhỏ này thôi, cũng đã cho thấy học vấn và trình độ của thầy như thế nào rồi. Đặc biệt dạy cho con trẻ, trình độ như vậy mà không biết kê là gà thì quả thực đây là điều đáng buồn.
Chưa dừng lại đó, khi học trò hồn nhiên hỏi gấp, cố tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy đồ chẳng giữ được thể diện của mình trước đám học trò nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại.
Tình huống thứ hai là thầy sợ người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Điều này chứng tỏ rằng thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu đi cái dốt của mình. Không những là dốt mà cái đang chú ý ở đây là giấu dốt và lại làm việc đó trước sự ngây thơ của con trẻ. Nhưng tình huống cuối cùng khiến cho chúng ta phải bật ra tiếng cười nhất khi thầy cúng hỏi thổ công xem hình đoán chữ ấy có đúng không.
Đây giống như một tình huống gây cười và trào phúng châm biếm nhất, thầy đồ nhờ tới thần linh xem kiến thức của mình ra sao. Khi đã an tâm, thầy cho học trò đọc lớn lên, càng thấy buồn cười, bởi lẽ học trò thì k biết thầy sai mà thầy cũng k biết mình sai nên dốt lại càng dốt..
Nhưng bất ngờ chạm trán với chủ nhà, biết được cái sai của mình, không những không nhận mà còn tìm cách chối cãi và ngụy biện cho cái dốt của mình: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.
Câu chuyện “Tam đại con gà” là câu chuyện ngắn gọn xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ dốt nát cũng là một phần nhỏ trong thời xưa. Đó là một con người “dốt lòi” nhưng lại hay “chối quanh và tài ngụy biện” và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa. Chi tiết nhẹ nhàng đơn giản nhưng lại khiến cho chúng ta có một cái nhìn sâu sắc không chỉ nhân vật mà cả những nét tính cách và thói hư tật xấu của một bộ phận nhỏ trong thời xưa.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 4
Truyện cười là truyện dân gian mang tác dụng gây cười, nhắc về các sự việc , hành vi trái ngẫu nhiên của con người và phê phán xã hội. có phần lớn tiếu lâm nức danh như: Tứ chứng nan y, Tam đại con gà, Lý do đi ăn mày,…Truyện “Tam đại con gà” là một tác phẩm điển hình, phê phán thói dốt nát và sĩ diện hão của 1 phòng ban ông thầy đồ ngày xưa.
Cốt truyện khá thuần tuý, xoay quanh việc ông thầy đồ dạy trẻ. Ông thầy đồ được mời về để gõ đầu trẻ. với vẻ mẫu mã tưởng chừng văn hay chữ phải chăng, học rộng tài cao nhưng bản chất ông lại rất dốt nát. Vừa dốt nát, ông thầy đồ lại thể diện hão, thích khoe khoang. Chính nghịch lý này tạo ra nhiều cảnh huống, câu chuyện bi hài.
Những tình huống khó xử nhưng lại gây cười liên tiếp xảy ra. Tình huống trước nhất đề cập tới trình độ học thức của thầy đồ. 1 hôm lúc cậu học sinh hỏi từ “kê” trong sách “Tam thiên tự”. Ông thầy đồ không biết chữ gì lại thấy trò hỏi gấp nên cuống nói: “ dủ dỉ là con dù dì”.
Sau đấy ông bảo trò đọc khẽ vì sợ mình sai thì rất hổ hang. Người đọc lúc đọc đến đoạn này đều phải bật cười vì trên đời này làm cho gì với vật nào tên “dù dì”. Qua đấy thấy rõ trình đồ này rất kém nhưng lại giấu dốt, thích khiến cho nghề dạy trẻ- một nghề cao quý, đòi hỏi học vấn sâu rộng.
cảnh huống gây cười tiếp theo là việc ông thầy đồ khấn hỏi thổ thần xem chữ” kê” sở hữu đúng là nghĩa mà ông thầy đồ đề cập mang cậu học sinh không. Xưa có câu:” ko biết thì phải hỏi, muốn nhiều năm kinh nghiệm thì phải học”; “Không biết thì dựa cột mà nghe”. thế mà ông thầy đồ lại chọn phương pháp mê tín, mù quáng tin vào việc khấn ông địa.
Đỉnh điểm nhất trong truyện, khiến cho người đọc cười phá lên là tình huống thầy bảo học trò nhắc lớn câu” Dủ dỉ là con dù dì”. Chi tiết đó càng nhấn mạnh sự dốt nát của ông thầy đồ. Sự tin tưởng vào thần hậu thổ quá mức đã khiến cho chủ nhà vào kháng cự lại. không dừng lại ở đấy, ông thầy đồ lại tiếp diễn ngụy biện về các gì đã dạy học trò bằng lối giảng giải phách lác nhằm giấu dốt. Thầy đồ càng che chắn, càng lý sự thì sự dốt nát lại càng lộ ra.
Truyện phê phán thói giấu dốt một thói hư tật xấu rộng rãi trong nội bộ nhân dân. Từ xưa tới bây giờ, nghề dạy học là 1 nghề rất cao quý, được mọi người tôn trọng. Đổi lại, đã là một người thầy/ cô giáo thì cứ nhất mực kiến thức phải sâu rộng và hiểu đạo lí.
Truyện phê phán thực trạng diễn ra hàng ngày về sự giấu dốt như: học trò giấu dốt vì sợ thầy mắng, cán bộ giấu dốt… Cố giấu dốt để đề cao bản thân, để khoe mình là chuyên nghiệp nhưng việc khiến cho ấy lại tự hại chính mình rồi lại tự mình lật tẩy chính mình. Đây là một bài học mà dân gian để lại làm cho con người phải suy ngẫm.
Truyện “Tam đại con gà” rất ngắn gọn, vừa có thuộc tính giải trí và tính chất phê phán. Chỉ một chữ” kê” nhưng đã vẽ ra 1 bức tranh về nhân vật thầy đồ dốt nát lại thích khoe khoang. Phê duyệt việc phân tích tiếu lâm Tam đại con gà, thánh sư ta đã với lời nhắn nhủ, đề cập nhở đến các kẻ dốt nát lại thể diện hão đừng nên miêu tả. Đồng thời khuyên răn mọi người đừng giấu dốt, phải luôn học hỏi không dừng.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 5
Từ xa xưa, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; cái dốt của học trò thì đáng cười. Thế nhưng, trong cuộc sống lại có rất nhiều con người “ dốt nhưng lại hay nói chữ”. Bởi vậy, cha ông ta đã sáng tác ra những câu truyện cười truyện ngụ ngôn mang tính chất giải trí và đồng thời cũng để phê phán chê bai một số loại người trong xã hội. Trong đó có truyện cười Tam đại con gà muốn phê phán chê bai một tật xấu trong nội bộ nhân dân phê phán những người không chịu học hỏi mà lúc nào cũng tự cho ta là giỏi.
Truyện kể về anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ . Anh ta học hành dốt nát nhưng lại có tính khoe khoang đi đâu cũng ra vẻ cũng lên mặt “văn hay chữ tốt” bản chất đã dốt nát lại muốn càng phơi bày và thầy đã tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Ông cha ta đã có câu: “Đẹp đẽ thì phô ra xấu xa thì đậy lại”. Ấy vậy mà trong câu truyện tình huống đầu tiên khi bác nông dân ngỏ ý anh học trò lại phách lối mình biết nhiều sách. Đã hiểu bản chất mình thiếu hiểu biết lẽ ra người bình thường phải tự ý xấu hổ, cảm thấy mình kém cỏi nhưng anh học trò lại càng lấn tới mà khoe khoang, cho thấy anh là một người vừa ngu dốt vừa khoác lác.
Khi được mời về làm thấy giáo anh vui vẻ nhận. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự mở trang sách ra anh liền thấy mặt chữ dài dòng loằng ngoằn khó hiểu. Yếu tố gây cười cũng được bật ra và dẫn dắt từ đây. Một người không biết gì về chữ nghĩ mà lại đi dậy học không những vậy còn khoác lác ra vẻ ta đây hiểu biết nhiều điều, thật đáng lực cười.
Khi đọc đến “kê” anh không biết là chữ gì lúc đó bọn trẻ lại cứ giục hỏi đây là chữ gì nên anh nói liều :”Rủ rỉ là con rù rì”. Thực chất chữ “kê” có nghĩ là gà. Vì anh không biết ý nghĩa nên nói đại nhưng ngoài cuộc sống làm gì có con vật nào có cách đọc như vậy. Điều này cho thấy không những anh thiếu hiểu biết trên lí thuyết sách vở mà còn thiếu hiểu biết nhiều điều trong kiến thức ngoài cuộc sống. Ban đầu không chắc chắn với ý nghĩa câu chữ anh liền dặn dò học sinh đọc nhỏ vì sợ không đúng người ngoài nghe thấy lại cười mình không biết chữ.
Ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Anh đến bàn thờ thổ công gieo đồng tiền sấp ngửa để xem có đúng “rủ rỉ là con rù rì” không thì Anh đến bàn thờ thổ công gieo đồng tiền sấp ngửa xin cái được ngay anh liền tự tin đắc chí bảo học trò đọc thật lớn. Một người không biết chữ lại khóac lác, đã vậy còn mê tín thật đáng phê phán cũng thật đáng chê cười.
Dốt nhưng lại mê tín, ngày hôm sau bệ vệ ngồi trên giường đắc trí, anh thầy bảo học sinh đọc thật lớn đến khi bố đứa trẻ nghe thấy vậy liền chạy vào nói. Chữ kê là gà mà cách đọc của thầy lại như vậy. Chi tiết này lại là một tình huống gây cười. Bố đứa trẻ là người lao động chân tay, cuốc đất ngoài vườn mà còn biết chữ kê là gà thế mà thầy lại không biết. Thật đáng nực cười. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Thầy đồ nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”.
Đã dốt rồi nhưng khi bị vạch trần cái dốt đó anh không cảm thấy xấu hổ với mọi người lại đi trách ngược thổ công nhà người ta. Thật đáng chê trách. Cách kể chuyện rất sinh động, chính xác làm cho mỗi tình huống gây cười đều thành công và tạo bất ngờ cho người đọc
Thấy bác nông dân nói dạy thầy đồ rởm liền nói rằng: “Tôi vẫn biết chữ ấy là “kê”, mà ,“kê” nghĩa là gà, nhưng tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà kia”. “Thế này nhé ! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà!”. Anh ta càng cố che giấu thì người nghe càng nhận thấy sự dốt nát nhưng liều lĩnh, bất chấp đúng sai của anh ta.
Cách phản ứng tức thời của thầy để nói gở cho mình: “Dạy cho cháu biết đến tâm tam đại con gà” vô hình chung đã tự phơi bày không chỉ bản chất dốt nát mà quan trọng hơn còn cả thói giấu dốt, sĩ diện hão. Tiếng cười phê phán đến đây bật lên thật mạnh mẽ và sâu sắc. Đây là biểu hiện của mâu thuẫn dốt nhưng lại thích khoe chữ. Và cũng chính vì thói thích khoe như vậy nên bao nhiêu cái dốt của thầy không chỉ được phô bày đầy đủ mà còn được khuếch đại.
Truyện Tam đại con gà là một câu chuyện hay và mang ỹ nghĩa phê phán sâu sắc. Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân, một tật xấu phổ biến. Nhắc nhở chúng ta không nên giấu dốt và khuyên mọi người phải không ngừng học hỏi, rèn luyện tri thức cho bản thân mình.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 6
Từ xưa cha ông ta đã sáng tác ra những câu truyện cười truyện ngụ ngôn mang tính chất giải trí và đồng thời cũng để phê phán chê bai một số loại người trong xã hội. Đó thường là những câu truyện dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ kết thúc bất ngờ kể về những sự việc hành vi tự nhiên của con người. Trong số đó truyện cười Tam đại con gà là một câu chuyện khá phổ biến hướng đến sự châm biếm đả kích vào những kẻ “xấu hay làm tốt dốt hay nói chữ”. Cái xấu cái đốt càng che đậy càng dễ lộ ra kệch cỡm và đáng cười hơn rất nhiều lần.
Truyện Tam đại con gà châm biếm một anh học trò loại người “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Anh ta học hành dốt nát nhưng lại có tính khoe khoang đi đâu cũng ra vẻ cũng lên mặt “văn hay chữ tốt”. Nhưng vì không biết được bộ mặt thật của anh ta mà có nhiều người tưởng anh ta là hay chữ là học rộng tài cao mới mời anh ta về làm thầy dạy dỗ bọn trẻ. Và từ đó những câu chuyện bi hài liên tiếp xảy ra thể hiện tài năng kém cỏi của “ông thầy “nhưng lại luôn ra oai phản ánh một lớp người trong xã hội thời bấy giờ.
Mấu chốt của câu chuyện chính là ông thầy được mời về gõ đầu trẻ.Bi kịch đã bắt đầu từ đó và khiến ông thầy không thể xoay xở được.Bắt đầu là việc nhận biết mặt chữ. Thầy đồ đi dạy học trò nhưng “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối quá học trò lại hỏi gấp,thầy cuống nói liều”. Thầy gặp chữ “kê” mà cũng không biết là chữ gì nên nói bừa “dủ dỉ là con dù dì”. Chữ kê là con gà mà thầy lại trả lời học trò là con dù dì.Vốn trên thế giới các loài động vật không hề có con nào như thê cả. Ta thấy thầy đồ ở đây dốt tận cùng của cái dốt không những không hiểu biết gì về kiến thức căn bản trong sách vở mà thầy còn dốt ở cả những kiến thức đơn giản căn bản trong xã hội. Dốt nát là thế mà cũng có thể làm liều nhận lời dạy học. Ta thấy được anh học trò này hiện lên ngay từ những câu đầu tiên là một anh chàng dốt nát đến cực độ nhưng cái dốt trong anh luôn được giấu kín và khi đi dạy trẻ cái dốt ấy lại được thể hiện rõ nét.
Cái dốt của thầy càng được nâng cao khi mà thầy sợ mình dậy sai nên bảo trò đọc khẽ thôi không người khác nghe thấy lại chê bai nói thầy đi dậy mà không biết chữ. Đến đây tiếng cười càng giòn giã hơn khi ta biết được cái giấu dốt của thầy rất đáng cười cười vì cái giấu dốt rất láu cá. Đây là sự giấu dốt mà ta đáng chê trách đáng phê bình. Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khoèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đồ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.
Cái dốt cuối cùng cũng là phần kết thúc của câu chuyện khi mà thầy tin vào thổ công tin vào thần thánh nên tin tưởng chữ đó đúng là “dủ dỉ”. Vậy nên thầy đã bảo học trò đọc to,thế là đứa nào đứa đấy gào cổ lên mà đọc.Chủ nhà thấy thầy dậy cái gì mà lạ quá cho nên mới đến xem sự tình.Thế là thầy đồ đã bị lật tẩy là dốt nát không biết chữ gì cả. Lúc này thấy mới nhận sự dốt nát của mình và tiếng cười giòn giã hơn khi mà thầy thầm trách thổ công “mình đã dốt nó còn dốt hơn.Nhưng bản tính lại vốn dựng chèo khéo trống thế nên trước mặt nhà chủ cái sai rành rành cái dốt lộ thiên mà anh học trò vẫn còn cố cãi giải oan cho mình bằng cách giải nghĩa thật luẩn quẩn và buồn cười.Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng cười trào phúng hả hê..Ta thấy ở đây anh học trò không biết chữ này thì phải hỏi người biết hoặc tìm trong sách vở. Vậy mà thầy lại đi hỏi thổ công đó là cách hỏi ngược đời trái tự nhiên và xưa nay chưa từng có.Chi tiết thầy xin ba đài âm dương để hỏi về chữ dủ dỉ dù dì là một sáng tạo của tác giả dân gian,Với nghệ thuật sáng tạo này tác giả dân gian đã sảy câu chuyện lên một bước phát triển cả về nội dung lẫn nghệ thuật.Như vậy ta thấy rằng ở đây tác giả dân gian cũng không nói thẳng ra vấn đề mà để nhân vật tự bộc lộ dần đó là cái dốt cái sĩ cái kênh kiệu đáng chê bai phê phán.
Ta thấy cái dốt của người học trò thì không đáng cười mà đáng cười ở đây là đã dốt lại còn ra vẻ sĩ diện hão huyền cái giấu dốt mới là cái đáng cười. Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mâu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng “lấp liếm” thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chỉ là “lí sự cùn” chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.
Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cán mai” mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thi sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường.Tác phẩm đã mở thêm đối tượng bị chê bai phê phán đó là cả ông thổ công cũng dốt. Và thầy đồ không nhưng dốt về chữ mà còn dốt về phương pháp học hỏi.Việc đưa nhân vật thổ công vào trong truyện là chi tiết hư cấu không thật nhưng sự xuất hiện của nhân vật thổ công khiến cho tác phẩm phát triển nhanh hơn mạnh hơn và độc đáo hơn.
Qua truyện Tam đại con gà nhân dân muốn phê phán chê bai một tật xấu trong nội bộ nhân dân phê phán những người không chịu học hỏi mà lúc nào cũng tự cho ta đây là tài giỏi mặc dù không biết gì.Câu chuyện phê phán cao những kẻ dấu dốt không dũng cảm đối diện với cái dốt để mình tốt hơn.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 7
Nhân vật chính trong truyện Tam đại con gà là anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ. Các nhân vật khác chỉ làm nền cho nhân vật chính hoạt động. Điểm độc đáo của truyện là tác giả dân gian tạo ra tình huống đặc biệt để nhân vật thầy đồ tự bộc lộ “trình độ” của mình.
Thông thường, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; còn cái dốt của học trò thì chỉ đáng chê trách, chứ không đáng cười. Người xưa nói:” Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, nhưng anh học trò dốt lại đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt Cả gan hơn, anh ta dám làm nghề “gõ đầu trẻ”, mà nghề này muốn dạy một thì phải biết mười. Thói xấu ấy của anh ta không dừng ở lời nói, mà đã thành hành động.
Truyện Tam đại con gà không hướng tiếng cười vào hành động “ngược đời” và liều lĩnh ấy, mặc dù nó là nguyên nhân gây ra tiếng cười. Cái bị phanh phui, phê phán chính là thói “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”.
Các tình huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên khi tình huống cuối cùng khép lại.
Tình huống thứ nhất nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì.
Các tác giả dân gian cố tình để thầy bẽ mặt với chữ kê. Tuy cỏ nhiều nét nhưng chữ này không khó. Sách Tam tự kinh dùng cho trẻ học vỡ lòng chữ Hán, phần giải nghĩa rõ ràng, lại có vần vè rất dễ thuộc, vậy mà thầy mù tịt.
Học trò hồn nhiên hỏi gấp, vô tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy sẽ chẳng còn giữ được cái oai của mình nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại. Dủ dỉ đâu phải chữ Hán? Và trên đời làm gì có con vật nào tên là dủ dỉ, dù dì? Như vậy là thầy vừa dốt Kiến thức sách vở, lại vừa dốt kiến thức thực tế. Người đọc đọc đến đây phải bật cười ngạc nhiên trước “trình độ” của “ông thầy kì quặc này.
Tình huống thứ hai là thầy cũng khôn, sợ nhớ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bào học trò đọc khẽ. Thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu nhẹm cái dốt của mình.
Tạm thời, sự láu cá ấy cứu được thầy nhưng thực ra nó càng đẩy nhanh thầy vào ngõ cụt.
Tình huống thứ ba là thầy khấn hỏi Thổ Công của gia chủ để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì ” không.
Lẽ ra, không biết thì thầy phải tìm sách mà học, tìm người mà hỏi. Nhưng truyện không có cái lẽ ra ấy. Tình huống này làm cho mâu thuẫn phát triển lên tới điểm đỉnh.
Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khoèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đồ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.
Tình huống thứ tư nằm ở phần kết thúc truyện. Khi thầy đồ bộc lộ đến tận cùng sự ngoan cố của thói giấu dốt thì cũng là lúc tiếng cười bật lên.
Sự tin tưởng mù quáng vào thần thánh đã đưa thầy đến cuộc chạm trán bất ngờ với chủ nhà. Cái dốt nát của thầy đã bị lật tẩy. Lúc này, thầy đã tự nhận thức được sự dốt nát của mình và thầm trách Thổ Công: Mình đã dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa.
Vốn “vụng chèo khéo chống”, thầy vẫn cố gượng gạo giấu dốt bằng cách giải nghĩa quanh quẩn rất buồn cười. Không ngờ chữ dủ dỉ vô nghĩa mà lại được thầy tìm ra lắm nghĩa đến thế (!). Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng CƯỜI trào phúng hả hê. Truyện khai thác cả vần điệu, cả yếu tố thứ bậc trong tam đại con gà mà chế giễu, chọc cười: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.
Câu chuyện ngắn gọn chi xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ có tính cách hẳn hoi. Đó là một con người “dốt lòi” nhưng lại hay “lên mặt vốn hay chữ tốt” và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa.
Đặc điểm của truyện này là mâu thuẫn trái tự nhiên trong nhân vật chính được nói ra ngay từ đầu câu chuyện. Bản chất “dốt nát” của thầy đồ đã được khẳng định. Toàn bộ câu chuyện chứng minh cho định đề này.
Tuy nhiên, khi thể hiện bản chất của nhân vật thầy đồ, vấn đề có khác đi một chút. Thầy đồ dốt đến mức những chữ tối thiểu trong sách dùng để dạy cho trẻ con mà cũng không phân biệt nổi. Dốt nhưng lại tự cho là mình giỏi (sau khi khấn Thổ Công). Khi bị người khác chỉ ra cái dốt thì ngầm tự nhận là mình dốt nhưng vẫn tìm cách chống chế bằng được.
Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mâu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng “lấp liếm” thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chỉ là “lí sự cùn” chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.
Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cán mai” mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thi sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường.
Truyện cười này cùng nhiều truyện cười khác đã lật tẩy thực chất của không ít hạng “thầy đồ dốt” trong xã hội phong kiến ngày xưa. Và tất nhiên, truyện không chỉ mua vui và phê phán thói giấu dốt của các thầy đồ mà nó còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những ai không nhiều thì ít cũng mắc phải căn bệnh ấy.
Hai truyện phân tích ở trên là những truyện hài hước trào phúng khá tiêu biểu cho truyện cười dân gian Việt Nam. Cả hai truyện đều chứa đựng những bài học nhân sinh thâm thúy và bổ ích thông qua nghệ thuật gây cười bằng cử chỉ, lời nói, tình huống đáng cười và yếu tố bất ngờ được sử dụng rất đắc địa. Nội dung hai truyện cười này là biểu hiện sinh động của trí thông minh, tính lạc quan và tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động đối với những thói xấu trong xã hội để cuộc sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Phân tích truyện Tam đại con gà – Mẫu 8
Truyện cười là thể loại văn học dân gian kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui (truyện khôi hài) hoặc phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội (truyện trào phúng). “Tam đại con gà” là truyện cười thuộc thể loại truyện trào phúng, mượn tiếng cười để phê phán thầy đồ dốt nhưng lại hay khoe khoang hợm hĩnh. Tiếng cười tự bộc lộ qua lời nói của nhân vật thầy đồ, do đó lại càng hợm hĩnh và sâu cay.
Mở đầu truyện, tác giả dân gian giới thiệu nhân vật thầy đồ học hành dốt nát nhưng lại “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Mâu thuẫn trái tự nhiên giữa dốt – giấu dốt được khắc họa qua các tình huống xuyên suốt câu chuyện, nhân vật càng gắng sức che đậy thì bản chất lại càng bộc lộ rõ nét. Trước tiên, đó là tình huống thầy đồ dốt đến một chữ tối thiểu trong sách cũng không biết. Khi gặp chữ “kê”, thầy không biết là chữ gì mà học trò lại hỏi gấp, thầy đã giải quyết bằng cách nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”. Không chỉ xử lí bằng cách che đậy dặn học trò đọc khẽ, thầy còn không tra lại sách vở để có căn cứ xác đáng mà lại tin vào may rủi bằng cách gieo đồng tiền sấp ngửa. Khi được thần đồng ý, đắc chí vì thấy mình đúng, thầy đồ tự cho mình giỏi và cho học trò đọc to câu nói trên. Các hành động mê tín, thận trọng giữ sĩ diện hão của thầy đồ cho thấy sự dốt nát của một kẻ ngay cả đến chữ tối thiểu cũng không biết.
Thế nhưng, mâu thuẫn giữa dốt – giấu dốt được đẩy lên cao trào hơn bao giờ hết và bật thành tiếng cười trào phúng lại được thể hiện qua tình huống người cha của học trò chất vấn thầy đồ. Khi được hỏi “Chữ “kê” là gà, tại sao thầy lại dạy thành “dủ dỉ là con dù dì”, thầy đồ đã tự nhận thức được sự dốt nát của bản thân và ông thủ công: “mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”. Ấy vậy mà, thầy lại phản ứng bằng cách lí sự cùn, vòng vo: “Tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tam đại con gà kia”. Đặc biệt, tiếng cười bật lên một cách giòn giã ở cuối truyện đã lật tẩy bản chất dốt nát của thầy đồ: “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”. Câu nói vừa phi logic vừa vô nghĩa ấy là lời chống chế yếu ớt không thể che đậy được khả năng dốt nát nhưng vẫn thích khoe mẽ văn hay chữ tốt của nhân vật. Từ đầu đến cuối, thầy đồ càng cố gắng giấu dốt bao nhiêu thì lại càng tự bóc trần sự ngu dốt của mình bấy nhiêu.
Qua việc xây dựng mâu thuẫn trong các tình huống kịch tính, cách giải quyết mâu thuẫn bất ngờ, truyện cười “Tam đại con gà” đã phê phán thói giấu dốt, đặc biệt là những người đã giấu dốt lại còn cố tỏ ra khoe khoang, hợm hĩnh. Đó là tật xấu vẫn còn tồn tại trong nhân dân. Qua đó, tác giả dân gian gửi gắm lời khuyên tới tất cả mọi người, không nên giấu dốt mà phải không ngừng học hỏi, nên dựa vào nguồn tri thức trong sách vở và thực tiễn đời sống để hoàn thiện bản thân chứ không nên tin vào những điều mê tín, không có cơ sở. Đó là bài học đắt giá không chỉ trong quá khứ mà ngay cả trong thời hiện đại, tư tưởng ấy vẫn mang tính chất thời sự vĩnh hằng.