Những mở bài hay nhất về các tác phẩm Văn học ôn thi THPT Quốc gia 2020, Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 sắp tới gần, để giúp các em ôn thi thật tốt môn Ngữ văn,
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 sắp tới gần, để giúp các em ôn thi thật tốt môn Ngữ văn, nhanh chóng để lại ấn tượng cho bài thi của mình ngay từ phần mở bài. Tài Liệu Học Thi gửi tới các bạn những mở bài hay nhất của 13 tác phẩm văn học.
Trong bài thi môn Ngữ văn, phần làm văn sẽ chiếm đến 1 nửa số điểm, chính vì vậy hãy đảm bảo bài văn của bạn đủ cảm xúc, đúng nội dung để thầy cô giáo đánh giá cao. Bài làm văn có thể dài đến 4 hay 5 trang giấy nhưng phần mở bài ngắn chỉ vài dòng sẽ quyết định đến 30% điểm của bài văn nên hãy lưu ý đến nội dung của phần mở bài. Hi vọng chúng sẽ giúp bạn có được những ý tưởng hay cho phần mở bài của riêng mình khi làm các bài nghị luận văn học.
Xem Tắt
- 1 Mở bài về Tây Tiến – Quang Dũng
- 2 Mở bài về Việt Bắc – Tố Hữu
- 3 Mở bài về Đất nước – Nguyễn Đình Thi
- 4 Mở bài về Sóng – Xuân Quỳnh
- 5 Mở bài về Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài
- 6 Mở bài về Chí Phèo – Nam Cao
- 7 Mở bài trong Hai đứa trẻ – Thạch Lam
- 8 Mở bài Vợ nhặt – Kim Lân
- 9 Mở bài về Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành
- 10 Mở bài về Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
- 11 Mở bài về Người lái đò sông Đà
- 12 Mở bài về Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm
- 13 Mở bài Vội vàng – Xuân Diệu
Mở bài về Tây Tiến – Quang Dũng
Mở bài 1:
Phong trào thơ mới 1932 – 1945 đánh dấu sự thành công vượt bậc của văn học Việt Nam với sự đóng góp bởi các tên tuổi nổi tiếng với phong cách thơ lãng mạn, hào sảng nổi trội trong làng thơ như: Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Quang Dũng… Và hẳn nhiên, không ai có thể quên Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, bởi riêng mình Quang Dũng dường như đã tự tách biệt mình ra với hướng đi của các nhà thơ lãng mạn khác.
Mở bài 2:
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn.
Mở bài 3:
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian.
Mở bài 4:
Cho đến nay Tây tiến vẫn là một bài thơ (Thi Sơn) đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài thơ Tây tiến… chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ, ý thơ, hình tượng thơ Giàu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm nên kiệt tác thơ Tây tiến. Với Tây tiến, Quang Dũng đưa ta đi vào một thế giới đầy mùi hương hoài niệm, của sự vọng tưởng diệu huyền. Với Tây tiến, Quang Dũng đã xây tượng đài về anh Bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.
Mở bài 5:
Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến.
Mở bài về Việt Bắc – Tố Hữu
Mở bài 1:
Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng VN trong đó bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10-1954 sau thắng lợi chiến dịch ĐBP lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Vì thế bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc. Có ý kiến cho rằng: “Bài thơ VB của TH là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”.
Mở bài 2:
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân – tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Mở bài 3:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai của dân tộc ta thắng lợi được nhân loại tiến bộ vinh danh là “cuộc chiến tranh thần thánh”. Tính thần thánh, huyền thoại ấy được biểu hiện ở đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt , ở lòng yêu nước, lý tưởng độc lập – tự do, ở tinh thần kiên cường, dũng cảm của quân dân ta. Với một lực lượng nhỏ bé, vũ khí thô sơ, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, quân ta phải đối diện trước bọn thực dân Pháp binh hùng, tướng mạnh, vũ khí hiện đại,…Vậy mà cuối cùng dân tộc ta đã chiến thắng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, sức mạnh của tình dân với Cách mạng, tình người mặn nồng, tha thiết, yêu thương, gắn bó với nhau.Vẻ đẹp của khối đoàn kết toàn dân, của tình người ấy đã được nhà văn Tố Hữu ngợi ca bằng những từ ngữ, những câu thơ, những hình tượng thẩm mĩ vô cùng ấn tượng trong đoạn trích phần một của trường ca Việt Bắc. Ngày nay, cuộc chiến đã đi qua, nhưng tình người thì còn lại mãi mãi…
Mở bài 4:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, con chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, các chặng đường thơ của ông đều gắn bó với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của Tố Hữu luôn in đậm khuynh hướng trữ tình chính trị và
đậm đà tính dân tộc. Và “Việt Bắc” là một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Nó được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, anh hùng của dân tộc và lời tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách mạng. Đoạn trích “…” là lời của cán bộ kháng chiến về xuôi với người dân Việt Bắc, như sự đáp lời cho câu hỏi đau đáu “Mình về mình có nhớ ta?”. Nếu như đồng bào Việt Bắc nhớ cán bộ kháng chiến thì cán bộ kháng chiến cũng dành trọn tình cảm yêu thương cho những con người nghĩa tình ấy. Một tình cảm tri ân đồng vọng.
Mở bài về Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Mở bài 1:
Đất Nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 – 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức của thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp.
Mở bài 2:
Trong suy nghĩ của mỗi người, yêu nước thường là một tình cảm lớn lao, xa vời, khó cảm nhận. Nhưng qua bài Đất nước, bằng những câu thơ vừa dồn nén cảm xúc vừa trĩu nặng suy tư, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thầm nhắc bạn đọc – nhất là lớp người trẻ tuổi “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình/Phải biết gắn bó và san sẻ…” Đất Nước gắn bó, biểu hiện ngay bên cạnh chúng ta. Phải chăng lòng yêu nước bắt đầu từ những điều giản dị, gần gũi nhất, như yêu cha mẹ, gia đình, mái nhà ta ở, hạt gạo ta ăn, từ mỗi giọt máu, đốt xương của chính mình? Từ tình yêu nhỏ, tuổi trẻ hãy mở rộng tấm lòng để có tình yêu lớn. Từ tình yêu, chúng ta cần thức tỉnh sứ mệnh của mình trước lịch sử. Ngày xưa, sứ mệnh ấy là chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, còn ngày nay, sứ mệnh ấy là gì?
Mở bài 3:
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Mở bài về Sóng – Xuân Quỳnh
Mở bài 1:
Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh tôi bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Mở bài 2:
Sẽ thật là thãi thừa khi nói về vẻ đẹp, sự huyền bí, sự hấp dẫn, niềm sung sướng và cả những đớn đau do Tình Yêu đem lại. Thế gian đã tốt bao nhiêu giấy, mực, thậm chí cả… máu để nói, viết, ca tụng cho Tình Yêu. Trong cuộc đời trần tục đầy biến ảo này, mọi thứ đều thay đổi, nhưng có một thứ là bất biến, vĩnh hằng…Đó chính là sự thuần khiết, lung linh của Tình yêu. Có lẽ từ thưở hồng hoang, tình yêu của loài người cũng đã vậy và cho đến nay nó vẫn vậy về bản chất, tình yêu đó chỉ thay đổi về hình thức thể hiện nhưng bảo tồn nguyên vẹn chất liệu nội dung. Thật là đẹp và lãng mạng biết bao khi tác giả Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để nói lên những trăn trở, khát khao của tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Mở bài 3:
Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Muôn đời tình yêu vẫn mới lạ vẫn hấp dẫn với mọi người. Nhiều nhà thơ đã viết về tình yêu đã nói về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt in đậm dấu ấn tâm hồn tư tưởng và phong cách của mình. Xuân Quỳnh với bài thơ “sóng”-một bài thơ tình duy nhất trong tập thơ.
“Hoa dọc chiến hào” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên. Tình yêu ở đây được đề cập đến một cách sâu sắc đậm đà. Chị đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc tâm trạng những sắc thái tình cảm vừa phong phú phức tạp vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương.
Mở bài 4:
“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
Mở bài về Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài
Mở bài 1:
Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lý Pá Tra và vợ chồng A Phủ.
Mở bài 2:
Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài cho biết, “ngoài tài liệu và trên cả sáng tạo”, ông đã đưa vào trong tác phẩm của mình “những ý thơ”: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Thật vậy, cụ thể trong “Vợ chồng A Phủ”, ta bắt gặp một trong những nét đặc sắc nhất của Tô Hoài là biệt tài phát hiện và chuyển tải chất thơ trong cuộc sống bình dị vào trang viết. Chất thơ man mác bao phủ bầu không khí của tác phẩm là sự cộng hưởng hiệu ứng của nhiều thủ pháp nghệ thuật, ánh lên từ tình huống truyện đầy nhân văn, từ ngôn ngữ hàm súc và giọng điệu trần thuật giàu tính nhạc. Để rồi từ đó, hiện lên trong tác phẩm bàng bạc chất thơ này là thiên nhiên, là lối sống, là phong tục và tâm hồn con người không lẫn vào đâu được.
Mở bài 3:
Tô Hoài – nhà văn của người dân miền núi. Những năm tháng lặn lội, thâm nhập vào cuộc sống của con người vùng cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn nhà văn. Những bản làng chìm trong sương với những người dân chân chất, thật thà . Những con người sống trong cảnh đời cơ cực đầy những bất công dưới xã hội cũ nhưng lòng vẫn cháy không nguôi khát vọng sống mạnh mẽ tựa như sức sống vững vàng của núi, của rừng. Phẩm chất tốt đẹp đó của con người vùng cao được Tô Hoài phản ánh qua khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị – nhân vật chính trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ vào đêm tình mùa xuân rộn ràng của núi rừng Tây Bắc.
Mở bài 4:
Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé nhỏ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Và Tô Hoài đã phản ánh những điều ấy qua hình tượng nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
Mở bài 5:
Nếu chỉ dừng lại ở tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký”, nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút nào. Thế nhưng, nhà văn Tô Hoài không dừng lại ở chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Ra đi ở tuổi 95, ông đã để lại cho đời hơn 100 đầu sách. Nếu chỉ tính về mặt số lượng thì mấy ai làm được như ông? Còn nói về khía cạnh nghệ thuật, bảo rằng Tô Hoài đi được xa hơn cũng chính bởi khi nghĩ đến ông, người ta cũng nhớ ngay “Vợ chồng A Phủ” – truyện ngắn đã được dựng thành phim và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho văn học hiện thực dân tộc miền núi mà Tô Hoài đã cống hiến.
Mở bài 6:
Tô Hoài được biết đến như nhà văn của phong tục và người dân miền núi phía Bắc. Có lẽ vậy mà Tô Hoài chia sẻ: “Tây Bắc đã để thương, để nhớ trong tôi”. Ông tìm kiếm sự chân thực với quan niệm viết văn là một quá trình không tầm thường, phản ánh sự thật ở đời cho dù phải đập vỡ những hình tượng trong lòng bạn đọc. Nếu cùng thời với nhà văn, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc tìm thứ vàng mười đã qua thử lửa thì Tô Hoài Lên Tây Bắc với quan niệm Văn chương và khao khát đóng góp cho cuộc đấu tranh của nhân dân. Tám tháng gắn bó với bà con dân tộc miền núi phía Bắc (trong đợt theo bộ đội lên Tây Bắc mở trại sáng tác) là tám tháng Tô Hoài hiểu và cảm đời sống cùng tấm lòng của người dân nơi đây. Trước khi về, tạm biệt dân làng tại chân núi, hai tiếng “Cháo lù! Cháo lù!” (Trở lại! Trở lại!) để lại nỗi nhớ da diết về người thương nơi đây. Ông viết tập Truyện Tây Bắc và trong đó “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất. Truyện hoàn thành năm 1953 với người phụ nữ tên Mị trải qua cuộc đời đầy bi kịch trước những hào quang bề ngoài. Thế nhưng, sau sự cam chịu sống dật dờ, Mị đã thức tỉnh khao khát hạnh phúc và bứt phá khỏi sợi dây cường quyền, thần quyền để tìm lại tự do cùng với A Phủ.
Mở bài về Chí Phèo – Nam Cao
Mở bài 1: Phân tích tình yêu chí Phèo và Thị Nở (hay Sự Thức Tỉnh của Chí Phèo)
Ai đó đã từng nói rằng : “Tình yêu sẽ cảm hóa con người”. Ai đó đã từng nói: “Yêu là mù quáng”. Và người ta thường nhắc đến mối tình của Chí Phèo- Thị Nở như một câu chuyện hài hước về tình yêu dang dở, trái ngang. Nam cao đã để hai con người ấy gặp nhau qua tác phẩm “Chí Phèo”- một tác phẩm viết về người nông dân, sự đen tối và ngột ngạt của con người trước CMT8. Hai con người ở tận cùng của đáy xã hội gặp nhau, yêu nhau một cách cách tình cờ và chớp nhoáng.Nhưng chính chút tình yêu thương mộc mạc ấy , chút cử chỉ giản dị chân thành của Thị đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn sót lại nơi đáy sâu trong tâm hồn Chí, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có bên trong con người lầm lạc của xã hội đương thời.
Mở bài 2: Phân tích nhân vật Chí Phèo
Có những khoảnh khắc con người ta bị dồn đẩy đến những bi kịch tận cùng phải tự tìm ra con đường giải thoát cho chính mình. Có những khoảnh khắc những bi kịch tiếp nối những bi kịch. Có nhiều nhà văn đã đẩy những bi kịch vào trong tác phẩm của mình như vậy để nhân vật trải qua biết bao xúc cảm “ hỉ, nộ, ái, ố” đều đủ cả để diễn tả hết thảy cái cuộc sống đầy rẫy những bất công của con người trong xã hội đương thời. Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao là hiện thân của những bi kịch ấy. Được in trong tập “Luống Cày” năm 1946,Nam Cao đã thực sự thành công trong việc xây dựng người nông dân trong bức tranh đen tối, ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt nam trước CMT8 qua “Chí Phèo” .Tác phẩm đã để lại biết bao nhiêu những cảm xúc trong lòng người đọc bởi tất cả những đau đớn trong bi kịch mà họ phải trải qua, là bi kịch của một đời người, là bi kịch của một số phận, là bi kịch của cả một thời đại mà nhân vật ấy sống, thật đáng thương biết bao!
Mở bài 3: Phân tích tác phẩm Chí Phèo
Ai đó đã từng nói rằng: “ Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”.Một nhà văn đã viết rất nhiều, viết rất hay, viết rất sâu sắc mà qua ngòi bút của ông mỗi nhân vật đều mang một cá tính riêng biệt, một nét đẹp riêng biệt không trộn lẫn. Đó là Nam Cao. Nếu như qua “Lão Hạc” ta bắt gặp hình ảnh người nông dân nghèo với phận đau thương nhưng hiền lành lương thiện và phẩm chất cao quý, tiềm tàng của họ trong xã hội phong kiến. Thì khi đến với “Chí Phèo”- Một tác phẩm xuất sắc giai đoạn 1930-1945 viết về người nông dân trước cách mạng. Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh xã hội u ám, với những xung đột giai cấp quyết liệt, gay gắt. Đồng thời cho thấy những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh hóa, bị hủy hoại cả thể xác lẫn tâm hồn, bị cự tuyệt quyền làm người. Với cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn. Bằng khả năng phân tích lí giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái, Nam cao đã xây dựng nên 1 tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà khó có thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.
Mở bài 4: Bi kịch bị tước đoạt quyền làm người
Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người nhất là những con người bị vùi dập, trà đạp. Đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45.Với Tắt đèn của Ngô Tất Tố ta bắt gặp hình ảnh chị Dậu phải chạy đôn chạy đáo kiếm từng miếng ăn, phải bán con, bán chó, bán cả sữa của mình cũng không đủ tiền nộp trong những ngày sưu thuế.Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc đời như một tấn bi hài kịch thể hiện qua tiếng cười châm biếm sắc sảo, sâu cay trong tác phẩm: Số đỏ với bức chân dung biếm họa qua các nhân vật Xuân tóc đỏ, cụ cố Hồng, ông Phán mọc sừng, cô Tuyết. Thì đến với Nam Cao, ta lại được khám phá cái hiện thực đương thời ấy bằng một cái nhìn riêng biệt mà tinh tế qua nhân vật “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên của nhà văn.Chí Phèo là hiện thân cho số phận đầy bi kịch: Một con người bị tước đoạt hết quyền sống, quyền làm người, một con người bị đồng loại bỏ rơi xa lánh, không được xã hội thừa nhận, một con người bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện sau bao lần cố gắng thay đổi chính mình.
Mở bài trong Hai đứa trẻ – Thạch Lam
Mở bài 1: Phân tích cảnh đợi tàu (hay Khi đoàn tàu đi qua)
Dãy phố nghèo của một cái thị trấn nhỏ có đường sắt chạy qua, một cái ga xép và cái chợ nhỏ cạnh cánh đồng cùng một ít nhân vật quen thuộc, lặng lẽ như những cái bóng. Đó là “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam, một tác phẩm in trong tập “Nắng trong vườn”, một truyện ngắn không có cốt truyện nhưng thấm đẫm tinh thần nhân văn. Qua Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã tìm được một lối biểu hiện rất riêng, tạo ra sức lôi cuốn, ám ảnh đặc biệt trong lòng người đọc qua những tình huống chuyện nhẹ nhàng mà lôi cuốn. Trong đó có thể nói, tình huống đợi tàu( hay khi đoàn tàu đi qua) là một tình huống độc đáo của tác phẩm khi đã khắc họa được khung cảnh nơi phố huyện nghèo chân thực mà lôi cuốn.
Mở bài 2: Phân tích bức tranh phố huyện
Ai đó đã từng nói rằng :”Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị mà nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Quả thật đúng như thế, lật những trang sách của Thạch Lam, ta như lạc vào một thế giới khác, một thế giới biết bao xúc cảm về những cuộc đời, những cảnh ngộ với những kiếp người. Đến với “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam- một tác phẩm in trong tập “Nắng trong vườn”ta sẽ bắt gặp cái bức tranh để lại ấn tượng ám ảnh trong lòng người đọc, đó là bức tranh phố huyện nghèo trong thời gian từ chiều muộn về đêm khuya với nhịp sống đơn điệu, đượm buồn của những kiếp người nhỏ bé.
Mở bài 3: Phân tích các nhân vật trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ”
Trong không khí sôi động của trào lưu văn học giai đoạn 1930-1945 mà hầu như mỗi tác phẩm đều khắc hoạ thành công những nhân vật điển hình có ý nghĩa phê phán quyết liệt, tố cáo mãnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách bịp bợm, giả dối của giai cấp thống trị, đồng thời phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân với thái độ cảm thông sâu sắc. Thì Thạch Lam chính là một tiếng nói nhỏ nhẹ, điềm tĩnh mà lắng sâu, hiền lành,thủ thỉ và có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam là một trong những thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn nhưng văn chương lại đi theo hướng rất riêng. Truyện của ông không có cốt truyện mà thường thiên về tâm trạng, nhân vật ông xây dựng là nhân vật xuất phát từ cảm xúc với những nét đẹp tâm hồn giản dị, mộc mạc mà đẹp đẽ, chân chất mà thật thà. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút của thạch lam chính là “Hai đứa trẻ”, một tác phẩm mà thông qua nó nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc trước cuộc sống nghèo khổ tăm tối của nhân dân, đồng thời bày tỏ thái độ trân trọng với những ước mơ khát khao đẹp đẽ của con người.
Mở bài 4: Phân tích hình tượng ánh sáng và bóng tối trong “Hai đứa trẻ”
Ánh sáng và bóng tối muôn đời được người ta xếp đặt ở vị trí đối lập nhau, sự đối lập hoàn hảo. Hai thái cực tưởng chẳng bao giờ có thể dung hòa ấy nay lại được nghệ thuật hòa trộn với nhau, bổ sung nhau, nâng cao giá trị cho nhau. Và cũng chỉ có ở nghệ thuật, mới có khả năng làm những điều bất biến kia thay đổi theo một cách khác lạ, độc đáo hơn, hấp dẫn hơn. Trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam- một trong những thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, điều làm nên sức hấp dẫn cho câu chuyện không chỉ là lối viết tinh tế miêu tả phố huyện nghèo tới mức chân thực và sinh động mà còn là nghệ thuật sử dụng hình ảnh mang tính biểu tượng cao. Chính hình tượng ánh sáng và bóng tối trong “hai đứa trẻ” tác giả đã khắc họa được cuộc sống nghèo khó tù túng và khát khao vượt ra khỏi thế giới nhỏ bé để tiến đến những ước mơ lớn hơn, tương lai tốt đẹp hơn của những con người phố huyện.
Mở bài Vợ nhặt – Kim Lân
Mở bài Vợ nhặt 1: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thủy” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Mở bài phân tích Vợ nhặt 2: Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Mở bài tác phẩm Vợ nhặt 3: Dịch đói năm 1944-1945 đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của đồng bào ta. Ở các vùng nông thôn Bắc Bộ, hầu như gia đình nào cũng có người chết đói, anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái ly tán khắp nơi. Sự sống của mỗi người bị cái đói đe dọa từng ngày. Trong bối cảnh xã hội đó, truyện Vợ Nhặt lại được viết ra thì thật lạ. Một cuộc sống vợ chồng, một nguồn sống cho một mầm sống tương lai tại sao lại được bắt đầu ảm đạm và phấp phỏng như thế dưới ngòi bút đầy tinh tế và tài hoa của Kim Lân
Mở bài quy nạp Vợ nhặt 4: Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Mở bài về Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành
Mở bài 1: Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, người đọc có ấn tượng mạnh mẽ song trùng là vẻ đẹp của cánh rừng và những người anh hùng trên vùng đất Tây Nguyên huyền thoại. Rừng xà nu được khắc họa từ đầu đến cuối tác phẩm vừa mang nét tự nhiên, vừa tượng cho biết bao tính cách của con người. Trong đó, nổi bật là nhân vật Tnu. Tnu cũng xuất hiện ngay từ đầu rồi đi suốt văn bản, song hành, đầy biến động, để lại ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc như rừng xà nu vậy. Một rừng cây – một đời người. Xà nu – loại cây thông chỉ có ở núi rừng nơi đây không chỉ “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng” mà còn góp phần sinh ra, nuôi lớn, bảo vệ và hóa thân vào tinh thần, ý chí, vào sức mạnh anh hùng của mỗi người dân, và đặc biệt là Tnu. Tnu là người con của dân làng cũng là người con của rừng xà nu.
Mở bài 2: …Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của “nền văn học sử thi” trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra với các tác phẩm thuộc loại này chỉ nói đến tính sử thi là đủ bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó).
Mở bài 3: Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm xuất sắc viết về đề tài miền núi, đề tài chiến tranh, cách mạng. Truyện ngắn này đã đạt giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu năm 1965. Rừng xà nu phản ánh cuộc đấu tranh của đồng bào Tây Nguyên chống Mĩ Ngụy, làm ngời lên lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên nói riêng, đồng bào miền Nam nói chung. Tác phẩm Nguyễn Trung Thành nổi bật ở cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trong văn học giai đoạn 1945 – 1975. Nổi bật lên trong truyện ngắn Rừng xà nu là nhân vật Tnú.
Mở bài về Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
Mở bài 1: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, đậm tính chiến đấu và thiên hướng trữ tình lãng mạn, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự cùng những vấn đề triết lí nhân sinh. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu trong thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng, qua đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về vấn đề nghệ thuật và cuộc sống. Những phát hiện của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng làm nổi bật tư tưởng của nhà văn.
Mở bài 2: Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.
Mở bài 3: Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, thao thiết kiếm tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người.” Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm đậm chất sử thi như: Cửa sông, Miền cháy, Dấu chân người lính. Thế nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Chiếc thuyền ngoài xa được in năm 1983 là một bước tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.
Mở bài 4: Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh
Châu thường không trực tiếp phát biểu những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ cách nhìn về cuộc đời của mình qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa.Không phải ngẫu nhiên mà có người cho rằng Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những biểu tượng. Bởi lẽ, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu thường không trực tiếp phát biểu những suy nghĩ, quan điểm mà chỉ bộc lộ những suy nghĩ cách nhìn về cuộc đời của mình qua những biểu tượng, những hình tượng đa nghĩa. Cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật và xây dựng hình tượng trong truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của ông là một ví dụ. Và có lẽ hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” trong truyện ngắn cùng tên của ông cũng như vậy.
Mở bài về Người lái đò sông Đà
Mở bài 1:
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và ở tâm hồn của người lao động. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội hoặc những cảnh thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm là những trang văn miêu tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và lãng mạn.
Mở bài 2:
Đề bài: Cảm nhận của em về hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của núi rừng Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười trong những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương. Chất vàng mười i ấy chính là vẻ đẹp người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Mở bài 3:
Cảm nhận về một đoạn văn trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa , uyên bác , cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống . Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút . Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” . Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông . Đoạn trích dưới đây là đoạn tiêu biểu của thiên tuỳ bút này: ( trích dẫn đoạn văn trong đề bài. Các em không cần chép đoạn trích vào bài thi nhé ! chỉ chép câu đầu và chấm chấm (…) câu cuối của đoạn )
Mở bài 3:
Phân tích nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút xuất sắc của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, đặc biệt là những người lao động bình dị mà tài hoa. Bên cạnh đó, tác phẩm của ông được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo . “Người lái đò Sông Đà ” là một bài tùy bút tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông.
Mở bài về Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm
Mở bài 1:
Đề bài yêu cầu cảm nhận 9 câu thơ đầu trong bài Đất Nước, ta có thể tham khảo mở bài sau:
“Đất Nước” từ lâu đã là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu. (trích thơ)
Mở bài 2:
So sánh Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”, “Tuyên ngôn Độc lập”… và tiếp nối bền vững qua mỗi thời kì. “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi và “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm gặp gỡ nhau ở đề tài ấy. Hai đoạn thơ tiêu biểu ở hai bài thơ đã góp phần thể hiện rõ….
Mở bài 3:
Đề bài: Nhận xét về chương V Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm có ý kiến cho rằng:” Tác giả đã phát biểu tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân, ĐN của ca dao thần thoại” và tư tưởng này chi phối cả nội dung và hình thức nghệ thuật của bản trường ca”. Từ đoạn trích Đất nước anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm: Nhắc đến lối thơ trữ tình chính luận ta không thể không nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm- một nhà thơ xuất sắc của nền thơ ca hiện đại trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. “Mặt đường khát vọng” được viết năm 1971 là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Trong đó chương V là chương trung tâm kết nối mạch ngầm của văn bản bằng hình tượng nghệ thuật trung tâm là Đất Nước. Nhận xét về chương này có ý kiến cho rằng: “Tác giả đã phát biểu tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân, ĐN của ca dao thần thoại” và tư tưởng này cho cả nội dung và hình thức nghệ thuật của bản trường ca”.
Mở bài Vội vàng – Xuân Diệu
Mở bài Vội vàng 1: Cơn mưa lạnh đầu mùa khẽ hôn nhẹ lên mái tóc sương của làn gió mỏng. Phảng phất hương thơm ngọt ngào của những trái mâm xôi được ủ kín dưới màn mưa trắng. Chàng thi sĩ trẻ đắm mình trong hương hoa của tình yêu, cuộn tròn trong thứ cảm giác say mê đến lạ thường. Trong ánh mắt trào dâng đầy hương sắc ấy, Xuân Diệu nâng niu mùa xuân như một người giai nhân kiều diễm thanh tú với đôi môi đỏ mọng ái tình. Thi sĩ đã hóa thân vào thiên sắc của đất trời,mang theo tất thảy hương vị tinh túy của thế gian, đưa vào “Vội vàng” làm sống dậy cả một tâm hồn khát khao đến mãnh liệt.
Mở bài thơ Vội vàng 2: Thả mình lơ đãng vào cơn gió nhẹ của buổi sớm mai,nhắm mắt và tận hưởng những dư vị ngọt ngào còn đọng lại của những vần thơ Xuân Diệu cất lên, ca lên khúc ca tình say đắm của “Vội vàng”, ta thấy lòng mình sao rạo rực quá. Có phải chăng những xúc cảm của thơ Xuân Diệu đã uốn mình chạm tới con tim? Có lẽ chăng sự khao khát mãnh liệt của một cơ thể tràn trề sức sống đã thức tỉnh niềm say mê trong lồng ngực trước những cảnh sắc tuyệt mĩ của thiên nhiên đất trời. Quả thật, thơ Xuân Diệu chính là nguồn sống dạt dào nhất trên thế gian nhiều sắc màu ấy.
Mở bài Vội vàng 3: Rót vào những vần thơ cả tâm tình của tuổi trẻ,những mật ngọt của Xuân Diệu thấm đượm vào từng câu chữ của bầu trời Thơ mới, “ông hoàng thơ tình ấy” mang trọn cõi lòng mình gửi gắm vào thiên nhiên, vào thứ tình yêu mang tên “cuộc đời” ấy. “Vội vàng“ ra đời mang trong mình ước nguyện của thi sĩ, mong muốn được giao hòa đến tột cùng của nhà thơ với cuộc đời. Sắc hương mùa xuân mang theo những tiếc nuối của nhà thơ, muốn đoạt quyền của tạo hóa để lưu giữ lại hương sắc của cuộc đời đẹp tươi.