Bài viết số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính, Mời quý thầy cô cùng các bạn lớp 11 tham khảo Bài viết số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính trong
Bài viết số 2 lớp 11 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hoặc trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Nguyễn Công Trứ gồm dàn ý chi tiết kèm theo 6 bài văn mẫu được Tài Liệu Học Thi tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước.
Thông qua dàn ý và 6 bài văn mẫu này các bạn lớp 11 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ có nhiều ý tưởng hay cho bài viết số 2 lớp 11. Nội dung chi tiết mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
Xem Tắt
Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát
Dàn ý nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát
1. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm “Bài ca ngắn trên bãi cát”.
– Tác phẩm cho ta thấy được nhân cách cao đẹp của nhà Nho xưa.
2. Thân bài
a. Một số nét chính về tác giả, tác phẩm:
– Cao Bá Quát (1809 – 1855) là người thông minh, tài hoa, có chí lớn nhưng cuộc đời gặp nhiều trắc trở.
– Được người đời suy tôn là “Thánh Quát”.
– “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” được sáng tác khi ông đi thi Hội qua những tỉnh miền Trung đầy cát trắng.
– Bộc lộ được sự vất vả, khó khăn cũng như là nỗi niềm về con đường danh lợi đã thoái hóa, mục rửa đương thời.
– Tác phẩm “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” cho ta thấy được nhân cách trong sáng và cao đẹp của nhà Nho.
b. Vài nét chung về nhà Nho chân chính:
– Là người học sách Thánh hiền, hiểu biết rộng và được người đời coi trọng, kính nể.
– Có tư tưởng giúp dân giúp nước mà không màng danh lợi, vinh hoa phú quý.
– Luôn giữ được phẩm chất cao đẹp dù trong hoàn cảnh nào.
c. Nhân cách nhà Nho qua tác phẩm “Bài ca ngắn trên bãi cát”:
– Vốn có quyết tâm thi cử và đỗ đạt để cống hiến cho đất nước.
– Nhận thức ra rằng con đường danh lợi tầm thường đương thời đã cũ nát, sai trái.
– Cao Bá Quát ý thức cần phải thoát khỏi nơi danh lợi vô nghĩa.
– Khao khát được thay đổi xã hội, tìm con đường mới cho cuộc sống
III. Kết bài
– Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn trên bãi cát.
– Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 1
Ta vẫn thường nghe: “Tài cao phận thấp, chí khí uất”. Dường như cái tài năng vẫn chưa đủ để con người ta tỏa sáng những còn bởi một chữ “phận”. Đó cũng chính là bi kịch cuộc đời của một con người tài hoa bậc nhất Cao Bá Quát. Ông hiện ra là một nhà nho giỏi, đức độ với một tâm hồn văn chương và cốt cách thanh cao. Được nhân dân tôn lên hàng thánh – thánh Quát. Vậy nhưng đương thời Chu Thẩn lại phải trải qua biết bao khổ ải, gian truân của một chế độ phong kiến thối nát suy tàn. Những nỗi niềm xót xa, phẫn uất của một đấng nam nhi đã được ông gửi gắm kín đáo trong tác phẩm Sa hành đoản ca.
Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát vốn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm “chí làm trai”. Cũng như Nguyễn Công Trứ và bao bậc trượng phu đương thời, ông luôn tâm niệm va khao khát lập nên công danh sự nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lý tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là món nợ phải trả – “nợ tang bồng”. Ông vốn đã sớm được coi như một tài năng xuất chúng khi mới chỉ ít tuổi và càng trưởng thành, ông lại càng chứng tỏ rõ khí phách hiên ngang và hoài bão lớn lao của mình. Tuy nhiên đứng trước một xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng hoảng, con người ấy đã không thể thỏa mãn khát vọng của mình.
Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một khúc ca ngắn, vậy mà bản thân nó lại vẽ nên một con đường rất dài. Bức tranh sa mạc mênh mông cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vậy ra đi mà thực ra không đi. Đó là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác giả, cái tủi nhục của bãi cát cũng là cái nhọc nhằn ông đang phải gánh chịu vì con đường ấy – khó nhọc mà xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học – thi – làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập công danh của mình. Suốt những năm từ lúc 14 tuổi cho đến khi 31 tuổi, Cao Bá Quát đã vào Huế đi thi không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào ông cũng bị đánh hỏng. Không phải vì ông không có tài mà vì lẽ cái tính cách ngông nghênh của ông vốn đã quá nổi tiếng và không được lòng các vị quan triều thần. Đến đây lời thơ như những tiếng thở dài của chính tác giả, ta thấy được trướng nhất là sự chán ngán của Chu Thần trước thời cuộc. Bản thân ông ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, thoái hóa của chế độ học hành thi cử truyền thống trong cái chuyển mình của thời thế.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
“Mặt trời lặn” là hình ảnh chuyển giao của thời gian, khi thiên nhiên đã chìm dần vào giấc nghỉ ngơi, thì đối lập với nó là hình ảnh người lữ khách “chưa dừng được”. Vì sao chưa dừng được? Bởi lữ đường còn dài mà đích thì chẳng thấy đâu. Con đường cuộc đời ông đi mãi mà ông vẫn chưa tìm được cho mình chỗ đứng trong xã hội, chưa thỏa mãn ý chí lập nên công danh. Vậy nên bản thân ông không cho phép mình dừng lại. Nếu ở câu đầu mở ra là sự rộng lớn của không gian thì đến lúc này, Cao Bá Quát lại nói đến sự chảy trôi liên tục của thời gian, tất cả những yếu tố thiên nhiên vũ trụ ấy dường như đều là lực cản đường, cản trở những bước đi vốn đã đầy khó nhọc trên cát. Do đó, ông thấy mình trơ trọi cô đơn trước bãi cát hoang vu ấy và tự khóc cho số phận dai dẳng của mình. Có thể những giọt nước mắt ấy ban đầu chỉ đơn thuần do tác động của ngoại cảnh (gió, cát, bụi) nhưng chúng trở nên đắng hơn, mặn hơn và xót xa hơn bởi tâm sự của tác giả. Để rồi từ đây, những cung bậc cảm xúc của Chu Thần được đưa lên một vị trí mới:
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối giận khôn vơi.
Chu Thần đang giận ai hay giận cái gì vậy? Ông đang giận chính bản thân ông bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, ta có thể hiểu: trước những cảnh đời khổ cực của nhân dân và thời thế thay đổi, ông dù một lòng trung quân ái quốc, hết mực thương dân nhưng vẫn chưa thể làm để đem tài năng ra giúp dân giúp nước. Ngay cả Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” là thế mà con luôn tâm niệm “nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Vậy nên ông tự trách bản thân vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ với giang sơn xã tắc: “Không có lấy một sách lược gì làm cho đời được thái bình, thẹn mình là nhà nho mà lại tầm thường đến thế”. Tâm sự này của ông khiến ta cảm thấy trân trọng một con người có tấm lòng đức độ và tâm hồn thanh cao trong thơ văn: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.
Thứ hai, ông vô cùng hổ thẹn vì dù đã đeo đuổi con đường thi cử rất lâu mà vẫn chưa có được chức danh xứng đáng, vẫn chưa đạt được công danh để cho người đời thán phục. Thế nên lòng người càng trở nên bế tắc, oán hận và bi phẫn. Ông đã từng dùng hình ảnh tượng trưng để nói lên khí chất cao vời của mình”
“Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời
Những muốn vịn mây mà lên cao mãi.”
Ông mong muốn có được phép thần tiên kì diệu để có tiếp tục đi trên con đường chông gai mặc cho đói khát, mệt mỏi hay buồn ngủ. Hy vọng có thể mau chóng tìm ra cho mình một cái đích rõ ràng.
Cách hiểu cuối cùng rất sâu sắc: đó chính là sự thoát li khỏi thực tại tầm thường. Đến như Nguyễn Công Trứ lỗi lạc là thế mà còn tìm kiếm lối thoát bằng cách cáo quan ở ẩn. Ở đây, Cao Bá Quát giá như bản thân có thể nhắm mắt làm ngơ, mặc cho sự đời biến đổi và mong muốn vất bỏ phiền muộn. Nhưng không! Với lý tưởng cao cả, chí khí ngoan cường, Chu Thần không thể thực hiện điều trái với đạo lý của bản thân. Do đó, cái “giận khôn vơi” ở đây, càng chiếu soi, làm tỏ hiện cho ta thấy được một Chu Thần với nhân cách cao cả, quý giá biết bao. Ông không muốn trốn tránh khó khăn nhưng luôn biết đối đầu và khắc phục khó khăn. Thật là nhân cách đáng ngưỡng mộ.
Những câu thơ tiếp theo lại đem đến cho người đọc về cái nhìn của Cao Bá Quát trước cảnh xã hội mưu cầu danh lợi:
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Con đường danh lợi cũng là một thứ rất đường đời thật gập ghềnh, trắc trở. Công danh được ví như một thứ rượu cám dỗ đời người, khiến con người phải bon chen, phải gạt đi mọi giá trị đạo đức luân lý điểm thảm hại chạy theo vật chất. Học hành, đỗ đạt rồi vào chốn quan trường để phú quý vinh hoa, con đường lập thân, sự nghiệp ấy sao quá đỗi tầm thường. Lòng nhủ phải làm cái gì đó lớn lao hơn, cao cả hơn. Nhưng tiếc thay, chẳng mấy kẻ thắng được cái sức lôi cuốn của tiền tài. Họ chẳng khác nào những con thiêu thân, lao đầu vào nơi có ánh sáng và đông không kể. Qua đây, Cao Bá Quát cho thấy được điểm nhìn tuyệt vời của mình. Đó là cái nhìn bao quát thực tại bình thường, vượt ra cả không gian và vượt lên trên thời gian. Những suy nghĩ ấy đã đi trước thời cuộc của ông và minh chứng cho trí tuệ uyên bác vượt bậc của danh sĩ họ Cao. Cũng có thể thấy được thái độ khinh miệt, chán ghét của ông với lối quan niệm của các sĩ tử bấy giờ và ông tự hào là kẻ tỉnh hiếm hoi giữa rừng người say ấy. Song đáng buồn thay, ông vẫn đang đi theo con đường này. Trong tâm trí đang tự hỏi mình “tỉnh” hay “say”? Để rồi lại trút tiếng thở dài vô vọng:
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi: “tính sao đây?”. Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Lúc này, Chu Thần đã bị đẩy vào “đường cùng”. Dường như, trong ông đang có sự đấu tranh quyết liệt, ông dậm chân tại chỗ. Cao Bá Quát không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô định. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. Vì không còn một con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể ra những người có chí lớn vượt ra ngoài sự nghiệp công danh. Bi kịch của Chu Thần không chỉ là của riêng Chu Thần, nhưng còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp đi đến phút cáo chung.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuẫn nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường “bãi cát” ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình: cái nhìn sáng suốt và đầy đạo đức: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: “Trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.” Quả thật vậy, câu hỏi tu từ: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mỹ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời và khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôi.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là bài thơ ngắn mà dài, hiện thực mà đầy tượng trưng, trữ tình mà đầy bi phẫn với ý thơ hàm súc, đa nghĩa. Ẩn chữ trong tác phẩm là những suy nghĩ kín đáo của tác giả, là tâm tình da diết với đất nước, là khí phách hiên ngang của chí làm trai, là trí tuệ thông thái, là cái nhìn vượt thời gian, là ước muốn cải cách xã hội và cũng là nhân cách cao đẹp của nhà nho chân chính Cao Bá Quát.
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 2
“Đi một bước như lùi một bước”
Hình ảnh “bãi cát” như là một nỗi ám ảnh cứ đeo đuổi ông. Một không gian vô định, mênh mông với bãi cát trải dài bao la đang làm ông mất phương hướng và kiên nhẫn. Hình ảnh ẩn dụ về con đường công danh xa xôi, mịt mù cát bụi cũng giống như là con đường đời gập ghềnh trắc trở trong xã hội phong kiến lạc hậu. Những nhọc nhằn và bế tắc khi đi trên con đường ấy được ông thể hiện:
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Dẫu biết mặt trời đã lặn nhưng không thể nào dừng lại được vì không thể ngừng chân. Cao Bá Quát miêu tả một trạng thái kiệt sức cùng với tâm trạng lo âu và buồn nản. Giữa một bãi cát dài vô định hiện lên dường như chỉ còn có mỗi mình ông với một tâm thế cô đơn, lạc lõng. Con đường danh lợi gập ghềnh, trắc trở đã khiến ông phải đi qua trong phẫn uất và tự trách mình.
Cùng với tâm trạng bế tắc và bất lực tác giả đã thốt lên với biết bao sự chán ghét, khao khát được giải thoát:
“Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!”
Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số tỉnh bao người?”
Tác giả nói đến những người ham danh lợi cũng giống như là những kẻ ham rượu. Ở nơi nào có quán rượu thì họ sẽ đổ xô tới, chen lấn để giành cho được thứ cám dỗ ấy. Dù biết điều đó chẳng có gì cao đẹp, nhưng có mấy ai có thể thoát ra được cái mùi hương ấy. Qua đó, ta có thể thấy được Cao Bá Quát đã nhận ra rằng con đường danh lợi mà ông đang đi chỉ là vô nghĩa, nó đang bị cái xã hội phong kiến làm cho mục nát và từ từ tha hóa. Tại sao phải tranh giành để vào nơi quan trường danh lợi? Đó chính là sự day dứt xuất phát từ nhân cách cao đẹp của ông, một người coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý. Giống như nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa cũng đã viết:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Nhàn)
Nhưng đáng buồn thay tác giả nhận ra rằng dẫu biết con đường danh lợi vô nghĩa, nhưng vì sự ràng buộc của xã hội phong kiến, ông vẫn đang đi trên con đường ấy, không dễ gì thoát ra được. Một tiếng thở dài ngao ngán vì chẳng biết đang mình tỉnh hay đang say trên con đường cùng không lối thoát:
“Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Cao Bá Quát dường như bế tắc chẳng biết nên dừng lại hay tiếp tục đi tiếp nữa. Dù biết đi trên con đường giữa “bãi cát của lợi danh” thì mình cũng chẳng khác gì đám người chỉ biết chạy theo hơi rượu. Bài ca kết lại bằng một câu hỏi đầy trăn trở và khao khát những con đường mới:
“Anh đứng làm chi trên bãi cát?”
Tác giả đã thốt lên một câu hỏi chất chứa từ rất lâu như hỏi chính bản thân. Nếu biết rõ con đường danh lợi ấy là tầm thường thì tại sao lại đứng đây làm gì. Phải chăng, nhà Nho Cao Bá Quát cần tìm một con đường mới cho chính mình và cho đất nước.
Bên cạnh đó, cái xã hội phong kiến mục nát cũng khiến cho những người tài khó ra sức giúp dân giúp nước. Và Cao Bá Quát thì lại có một lí tưởng sống rất khác biệt giữa cái xã hội ấy, thể hiện qua câu thơ nổi tiếng của ông: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Cả cuộc đời ông sẽ chỉ cúi đầu trước sự thanh cao và thuần khiết của hoa mai, của con người, chứ không phải là cường quyền. Vì thế ông thoát ra khỏi những quan niệm cũ của nền học vấn cũ để mong tìm ra một con đường mới để lập công và lập danh nhằm giúp dân, giúp nước.
Thể hành của bài thơ, cùng những hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa, phép điệp tạo cảm giác về sự dài lê thê của bãi cát đã khiến cho “Sa hành đoản ca” tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc. Ngòi bút của “Thánh Quát” quả thật vô cùng tài hoa.
Tóm lại tác phẩm “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” đã giúp ta hiểu được sự chán ghét và thái độ khinh miệt của nhà thơ với xã hội đang dần đi xuống và ước mơ được thay đổi nó. So sánh với Nguyễn Công Trứ, ta thấy Uy Viễn tướng quân cũng là một người có cách sống tự do phóng khoáng nhưng ông vẫn luôn giữ mình trong khuôn khổ Nho giáo với lòng trung quân. Ở Cao Bá Quát thì khác, ta thấy những tư tưởng khai sáng và mầm mống nổi loạn nhằm thay đổi một xã hội trì trệ đã xuất hiện trong “Sa hành đoản ca”. Vẻ đẹp nhân cách một nhà nho chân chính bộc lộ ở tấm lòng ngay thẳng, coi thường danh lợi, luôn trăn trở, tự vấn về ý nghĩa con đường đời, và khao khát tìm ra con đường sáng để có thể cống hiến tài sức cho non nước.
Qua bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”, ta đã thấy được vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách của một nhà nho chân chính đó chính là Cao Bá Quát, một người hết lòng vì dân, không ngại khó khăn và thử thách, luôn giữ mình trong sạch trong bất kì hoàn cảnh nào. Chính những nhà nho như ông đã khơi gợi con đường mới trong một xã hội còn đầy bóng tối của sự lạc hậu và trì trệ.
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 3
Cao Bá Quát là một nhà thơ tài năng và bản lĩnh được người đương thời phong làm thánh Quát. Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán chán ghét chế độ phong kiến lạc hậu, trì trệ, bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam giữa thế kỷ XIX. Cao Bá Quát là một người tài hoa, nhưng con đường công danh của ông gặp nhiều trắc trở, Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một bài ca hành mà ông gửi gắm sự mệt mỏi, chán ghét của mình trên con đường mưu cầu công danh. Qua bài ca hành có thể thấy hết được tâm tư, trăn trở cũng như một nhân cách đẹp của nhà nho chân chính trước một chế độ đang cần đổi mới.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát được viết trên đường Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Tiến sĩ, là một người tài năng nhưng ông thi lần nào cũng hỏng, con đường mưu cầu công danh của ông vô cùng gian nan, vất vả, chuyến đi này không phải là chuyến đi lần đầu, chính vì vậy ông muốn bộc lộ thái độ chán ghét và trải lòng về sự khó khăn, trắc trở mà mình đã trải qua và sắp trải qua một lần nữa.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Trong thời phong kiến, kỳ thi Tiến sĩ chỉ được tổ chức tại Kinh thành, con đường lên kinh ứng thí của Cao Bá Quát xa xôi diệu vợi, từng bãi cát dài nối liền với bãi cát dài, con đường đã xa, địa hình hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt. Người đi đi mãi không đến, đi về phía trước mà cứ ngỡ như bước lùi, một hành trình xa xôi, ngán ngẩm lại không phải đi một lần, lòng người cũng chán nản quá nhiều, dường như chỉ muốn dừng lại, chẳng muốn tiến về phía trước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Qua đoạn thơ này có thể thấy nhân cách đẹp của một nhà nho chân chính, cũng giống như các bậc nho sĩ khác cùng thời đại, Cao Bá Quát cũng nuôi chí làm trai riêng mình, cũng muốn cống hiến tài năng cho đất nước, góp sức mình đền nợ núi sông, tận trung với vua. Chính vì vậy mà dù con đường khó khăn, vất vả trắc trở bao nhiêu ông vẫn cố mình đi đến trường thi. Sự đối lập ở câu “mặt trời lặn” và “không dừng được” thể hiện rõ cái cốt cách của nhà nho, mặt trời ở đây lặn rồi, nhưng con đường đi còn quá xa xôi, phải đi nhanh, đi vội để không bỏ lỡ kỳ thi, hoặc có thể chỉ trích xã hội phong kiến đã quá lạc hậu, trì trệ sắp vào kỳ lụi tàn, cần được thay đổi, đổi mới mà người như ông nhận thức được điều này, muốn cống hiến cho sự thay đổi ấy, ông không thể nào dừng lại, phải cố gắng để góp sức thay đổi, để phát triển đất nước. Nghĩ đến hiện thực đất nước và con đường công danh của mình, Cao Bá Quát đau lòng khôn xiết, vị lữ khách rơi nước mắt trên con đường, có thể khóc cho số phận chính mình lận đận đường công danh, cũng khóc thương cho chế độ với những kẻ cầm quyền mục rỗng, làm đất nước sa sút, không biết trọng dụng người tài.
Trước con đường công danh đầy mỏi mệt và chán ghét Cao Bá Quát ước mình có thể học được như vị tiên ngủ, vừa có thể nhắm mắt vừa có thể bước đi dễ dàng, nhưng ông không học được như vậy, ông chỉ là một người phàm, sức lực có hạn, lại phải trèo non, lội suối, nỗi uất giận của ông không thể giấu nỗi. Cao Bá Quát giận chính mình, đất nước đang cần ông, ông lại không thể giúp ích, cứ mãi loay hoay, chật vật với những kỳ thi, ông cũng giận bọn quan lại, những kẻ không trọng dụng nhân tài, những kẻ làm đường công danh của ông và nhiều người khác trở nên trắc trở bởi sự tham lam và ích kỷ của chúng.
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Cao Bá Quát là một nhà nho với cốt cách đẹp, ông khinh khi những kẻ chạy theo danh lợi với mục đích riêng, những kẻ cầu công danh để được bổng lộc, tiền tài, địa vị. Nhưng mà danh lợi là thứ có sức hấp dẫn vô cùng, nó như một thứ rượu ngon, hương đưa liền làm say bao người. Dù con đường công danh phải trải qua nhiều khổ hạnh, “tất tả trên đường đời” thì người ta vẫn lao vào để dành chút công danh, có mấy ai tỉnh táo trước sức hấp dẫn của nó. Cao Bá Quát biết thế vẫn mưu cầu công danh, dù không phải vì lòng riêng, nhưng chính ông cũng không biết được mình có phải là người tỉnh trong những kẻ say kia không, ông không dám khẳng định, chỉ biết để một câu hỏi lửng, bởi cũng như những kẻ ham danh lợi ấy, ông cũng đang tất tả để cầu công danh.
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Có thể thấy lòng nhà thơ đang dậy sóng, bởi những bâng khuâng, nghĩ ngợi, ông đang bị chi phối bởi cả thời gian, không gian và chính những lo nghĩ trong lòng, con đường đi vốn biết là không bằng phẳng, gian nan vất vả thì chỉ như mới bắt đầu, phía trước còn đầy rẫy những cạm bẫy, trắc trở. Chính vì những gian nan làm lay động nhà nho, làm ông cũng lung lay ý chí, nghi ngờ chính cả bản thân mình. Liên tục những câu hỏi đưa ra không lời giải đáp, bản thân như rơi vào bế tắc, bước vào đường cùng, “tính sao đây” là đi tiếp hay dừng lại.
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát dài?
Đứng trước những phân vân, mỏi mệt như bước vào đường cùng, phía trước bế tắc, không có lối đi, xung quanh thì toàn núi non hiểm trở, “núi muôn trùng”, “sóng dào dạt” thể hiện những trắc trở, gian nan đang cản bước đường của người nho sĩ, chán nản với đời, chán ghét chế độ, sau những bâng khuâng, lo nghĩ ông vẫn đứng đây, trên bãi cát dài. Cao Bá Quát đang như người lạc lối, vừa muốn cống hiến cho đời, lại vừa mỏi mệt vì mưu cầu công danh, nhìn đâu cũng thấy gian nan, hiểm trở vậy nhưng ông vẫn không lùi bước.
“Anh đứng làm chi trên bãi cát dài?”
Lại một câu hỏi của nhà thơ nhưng có phải là câu hỏi phân vân về con đường công danh của ông nữa hay không, nghe lại giống như là một câu thúc giục, có thể thấy trước khó khăn, trắc trở Cao Bá Quát không muốn dừng lại, con đường phía trước còn xa như vậy, ông lại dừng chân nơi đây, mặt trời thì đã lặn, một ngày sắp qua đi, ông vẫn không muốn dừng, vẫn muốn tiếp tục, cảm thấy đang phí hoài thời gian khi đứng ở bãi cát này, còn nhiều núi cao hiểm trở ông phải tranh thủ thời gian để không bỏ lỡ kỳ thi của mình.
Ở trên bãi cát dài lúc này chỉ là người lữ khách dừng chân nghỉ ngơi, không phải ông từ bỏ, một người đương đầu với khó khăn thử thách, người dù gian nan, vất vả biết bao vẫn không bỏ cuộc, có thể thấy đây chính là một nhân cách đẹp, một nhà nho chân chính.
Qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể thấy được Cao Bá Quát là một người tài năng, hết lòng phụng sự đất nước, người chán ghét chế độ thi cử tầm thường và khát khao thay đổi cuộc sống. Ông là một nhà nho chân chính, không vì những khó khăn trở ngại mà từ bỏ khát khao của mình, mạnh mẽ đương đầu với những gập ghềnh, trắc trở. Những bãi cát dài, núi muôn trùng hay sống dào dạt cũng chỉ làm đôi chân ông dừng lại một chút, ngắm nhìn cảnh quan không thể làm ông lùi bước được.
Tài hoa văn chương của Cao Bá Quát đúng như người ta gọi ông là thánh Quát, qua bài ca hành có thể thấy cách dùng từ độc đáo, nghệ thuật miêu tả đặc sắc. Qua từng từ ngữ ta có thể hình dung ra được con đường mà ông đang đi, có thể thấy hiện lên rõ ràng những bãi cát trắng của sa mạc, hay như ta đang đứng cạnh ông ngắm nhìn cảnh quan xung quanh, để thấy được những núi muôn trùng và thấy được dáng điệu suy tư của một nhà nho chân chính về con đường mưu cầu công danh gập ghềnh, gian khó.
Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng
Dàn ý nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng
I. Mở bài
– Giới thiệu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc
– Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ – đó chính là nhân cách nhà nho chân chính
II. Thân bài
1. Làm rõ vấn đề “nhân cách nhà nho chân chính”
– Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh con người
– Nhà nho chân chính: Nhà nho sống với những nguyên tắc, chuẩn mực, của bản thân, không làm trái với lương tâm, dám khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình
2. Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, đem tài năng cống hiến chốn quan trường
– Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và cá tính phóng khoáng
+ “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.
+ “Ông Hi Văn…vào lồng”: Cõi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng của nhà nho chân chính
– Tác giả điểm lại việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình ⇒ Những việc làm mà nhà nho chân chính nên làm, cần làm
+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược) ⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
⇒ khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng của một nhà nho với tài năng xuất chúng
3. Nhà nho chân chính còn là người có phong cách lối sống tự nhiên, ung dung tự tại
– Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ có cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân
+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường (lưu ý nhân cách nhà nho chân chính ở đây được chứng minh theo quan điểm nhà nho của Nguyễn Công Trứ)
⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng
– Nhà nho với triết lí tự nhiên , ung dung tự tại, lấy tận hưởng lạc thú làm lẽ tồn tại
+ “ Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian
+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .
+ “ Không …tục”: Khẳng định lối sống riêng độc nhất của bản thân mình
⇒ Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là con người thoát mình khỏi những tư tưởng phong kiến siêu hình, bảo thủ
4. Nhà nho chân chính theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ còn là người mang trong mình đạo lí trung quân
+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.
+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
⇒ Nhà nho chân chính không phải là người khuôn mình vào những quy tắc, nguyên tắc bảo thủ lạc hậu mà là sống chân chính với tài năng và quan niệm của mình
III. Kết bài
– Khái lược một số nét đặc sắc trên phương diện nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
– Suy nghĩ bản thân về nhân cách nhà nho chân chính
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 1
Nguyễn Công Trứ là người học rộng, tài cao, làm nhiều chức quan lớn trong triều đình. Nhưng cuộc đời ông cũng gặp rất nhiều khó khăn, trắc trở trên con đường hoạn lộ, khi đang làm chức quan lớn trong triều, ông đột ngột bị giáng chức, nhưng khí chất của một nhà nho chân chính thì không gì có thể lay chuyển được. Ông vẫn giữ lối sống “ngất ngưởng” khác thường. Vẻ đẹp của nhà nho chân chính đã được thể hiện trọn vẹn trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của ông.
Nhân cách để nói về tư cách, phẩm chất đạo đức của con người, nhà nho là cách gọi những người tri thức xưa, theo lối Nho học. Như vậy, nhân cách của một nhà nho chân chính tức là phải biết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Nhân cách nhà nho chân chính đối với Nguyễn Công Trứ được thể hiện khi ông còn làm quan trong triều, có đến khi ông cáo quan về hưu.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”
Mở đầu tác phẩm ông đã khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc phận sự của chính tác giả. Và quả thật trong cuộc đời mình, ông thi đỗ đạt và giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình, nhưng đồng thời ông cùng bộc lộ nỗi buồn vì bản thân bị “vào lồng” sống cuộc đời gò bó, chật hẹp. Các chức vụ ông được giữ đều là những chức vụ quan trọng: Tham tán, Tổng đốc đông, Bình Tây đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Bản thân Nguyễn Công Trứ là người có ý thức rất rõ ràng trách nhiệm của một kẻ sĩ với đời. Dù biết rõ ra làm quan sẽ mất đi sự tự do, nhưng ông vẫn sẵn sàng vào cái lồng đó, bởi ở đấy ông mới có cơ hội đem tài năng cống hiến cho đất nước, làm tròn chí làm trai của một nam nhi: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”. Nếu như các nhà Nho luôn sống theo lối khiêm nhường dù bản thân có tài giỏi đến đâu cũng không bao giờ bộc lộ, thì ngược lại ông Hi Văn lại sẵn sàng bộc lộ, dám thể hiện mình và khẳng định bản lĩnh cá nhân: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Dường như sau lời thơ của ông ta còn thấy được thái độ coi thường của tác giả với những loại người bất tài nhưng hám danh lợi, sống cuộc đời luồn cúi, trong khuôn khổ. Nhưng con đường làm quan của ông cũng đầy thăng trầm, một cá nhân khi có những biểu hiện khác thường, cách tân so với đám đông thường sẽ bị mọi người ghét bỏ, tìm mọi cách hãm hại. Bởi vậy con đường hoạn lộ của ông mới thăng giáng bất thường như vậy. Có lẽ, lối sống “ngất ngưởng” của ông không phù hợp với khuôn khổ chật hẹp, gò bó của xã hội phong kiến.
Khi ông từ quan, chính là khoảnh khắc cái tôi ngất ngưởng có cơ hội được thể hiện rõ nhất:
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ đã thực sự được sống cuộc đời tự do, tự tại, như con chim được tháo cũi sổ lồng. Những hành động lời nói của ông là biểu hiện của lối sống rất “ngông” đây cũng là nét phẩm chất làm nên cốt cách Nguyễn Công Trứ. Ông Hi Văn cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa, ông làm biết bao con mắt dõi theo. Về hưu ông dựng nhà ở núi Đại, với mây trắng phau phau bao phủ bốn phía, như chốn bồng lai tiên cảnh. Đồng thời ông cũng thường xuyên đi viếng, thăm thú cảnh chùa nhưng lúc nào cũng dắt theo các cô hầu con. Điều này thật trái với quy tắc của nhà chùa. Nguyễn Công Trứ đã bất chấp mọi luật lệ, sống cuộc đời phá cách, ngang tàng, ngất ngưởng khiến cho bụt “cũng phải cười ông ngất ngưởng”.
Không chỉ vậy, ông còn bày tỏ quan điểm về lẽ sống: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Ông đưa ra quan niệm giữa được – mất trong cuộc đời này là chuyện bình thường và mỗi người cần bình thản đón nhận những biến đổi của cuộc sống. Đồng thời ông cùng khẳng định ông bỏ ngoài tai những lời khen – chê của thiên hạ đối với mình, thỏa thích vui chơi bất cứ những điều mình muốn: “Khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.
Khổ thơ cuối, như một lời tổng kết của Nguyễn Công Trứ: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Dù có thể ông không phải một danh tướng, danh nho nhưng trước sau lòng trung với vua ông vẫn vẹn đạo, đây chính là phẩm chất cao quý của nhà nho, thật đáng trân trọng. Ông đã dành cả cuộc đời cống hiến cho đất nước, làm trọn đạo vua tôi, ở đời ai có thể ngất ngưởng được như ông?
Qua bài Bài ca ngất ngưởng, ta có thể thấy rằng, lối sống ngất ngưởng của ông đều được xuất phát từ quan niệm Nho giáo đó là đề cao lòng trung quân, đây cũng chính là nhân cách của một nhà nho chân chính. Nhân cách ấy thật đặc biệt, khác lạ, ông không khuôn mình, trói buộc theo những tư tưởng Nho học, mà “ngất ngưởng” theo cách của riêng mình nhưng vẫn vẹn đạo với vua, với nước. Đây cũng chính là điểm nhấn tạo nên dấu ấn riêng biệt cho Nguyễn Công Trứ.
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 2
Nguyễn Công Trứ là người có tài có chí có đức. Xuất thân dòng dõi Nho gia, ngay từ nhỏ đã học vỡ lẽ sách thánh hiền, thi cử đỗ đạt và ra làm quan lớn dưới các triều đại của nhà Nguyễn. Ông không chỉ là nhà quân sự, chính trị tài ba mà còn là một nhà thơ tài năng dùng thơ ca để “tỏ chí” và khẳng định bản thân. Trong các tác phẩm văn chương của ông tiêu biểu nhất là “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện nhân cách nhà Nho chân chính nhưng có nhiều nét khác biệt vượt lên lễ giáo nho gia làm nên một nhân cách mới mang đặc trưng riêng của Nguyễn Công Trứ.
“Bài ca ngất ngưởng” có thể coi là bản tự thuật ngắn gọn, tóm tắt lại cuộc đời và tính cách ông Hi Văn (tên hiệu của tác giả). Ông phô bày giá trị bản thân với thái độ ngang tàn, lối sống thật thà và “ngông” của mình. Qua đó hiện lên nhân cách nhà Nho chân chính có quan điểm sống tiến bộ xứng đáng được người đời ca tụng và học tập.
Vậy nhà Nho họ là ai? Nhà Nho chính là người trí thức thời xưa theo học Nho giáo đó là hệ thống đạo đức, triết lí và tôn giáo do Khổng Tử đề ra để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những con người ấy đi theo chuẩn mực luân thường đạo lí thì được gọi là các nho sĩ, nho sinh hay nhà nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức làm người có trong mỗi chúng ta. Nhân cách ấy làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Tìm hiểu chi tiết qua tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ thể hiện nhân cách của mình.
Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có “Chí làm trai”. Ngay từ những câu thơ mở đầu ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không phải phận sự của ta. Tư tưởng ấy rất nhiều lần được ông thể hiện trong các tác phẩm như “Gánh trung hiếu” với câu thơ “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giai ngô phận sự” tức đều có nghĩa là mọi việc trong vũ trụ là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng nhập thế cống hiến cho đời được tiếp nối truyền thống của cha ông như: Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đều là các nhà Nho chân chính từ xưa.
Thứ hai, nhân cách nhà Nho chân chính được biểu hiện là con người biết “tu thân” bởi theo quan niệm của nho gia có ba việc “tu thân, trị quốc, bình thiên hạ” mà người nho sĩ phải làm được. Trong “tu thân” thì việc học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Học tập là theo đuổi con đường hoạn lộ công danh. Cũng như bao các nhà nho khác Nguyễn Công Trứ luôn cố gắng thi đỗ để ra làm quan cống hiến tài đức củ mình cho nước cho dân. Điều đó được minh chứng bằng việc ông đã từng giữ nhiều chức quan trong triều được tóm tắt lại bằng bốn câu thơ:
“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Ông đã từng nắm giữ các vị trí quan trọng như Thủ khoa đứng đầu khoa thi Hương tức Giải nguyên, Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông đứng đầu một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng tức là người cầm đầu đội quân bình Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu ở kinh đô. Ngoài ra, ông còn có đóng góp khác như: khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, trị thủy ở đê sông Hồng; đấu tranh với tệ cường hào ở nông thôn… Tất cả công việc ấy đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với tinh thần trách nhiệm, có hiệu quả cao. Con đường công danh của ông thênh thang rộng mở cho đến khi ông được ‘Giải tổ chi niên”. Ông tự tin khẳng định mình là người “Tài bộ” tức là kẻ có “tài năng lỗi lạc xuất chúng” trong vũ trụ. Theo quan niệm của nho giáo thì dù có tài giỏi đến đâu cũng cần phải khiêm tốn giữ mình nhưng Nguyễn Công Trứ đi ngược lại điều ấy tự tin, mạnh dạn đề cao vai trò của bản thân, thể hiện tài năng của mình phá vỡ bức tường thành của nho gia.
Nhà nho chân chính là những người coi thường danh lợi, không màng vinh hoa phú quý. Lập thân cốt chỉ để giúp vua giúp nước. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy khi triều chính rối ren bao kẻ tranh giành chức tước, hơn thua nhau nhưng họ lựa cho mình con đường cáo quan về ở ẩn. Nguyễn Công Trứ cũng vậy khi nói về các chức vị của mình ông chỉ dùng những từ cộc lộc, ngắn gọn chứng tỏ ông không phải là người coi trọng công danh, mà tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã từng có một câu nói nổi tiếng: “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. Dù đã giữ nhiều chức quan lớn trong triều nhưng đối với ông cũng thật nhẹ tênh, không có gì quan trọng. Chính điều ấy khiến ông thể hiện mình với cái tôi “Ngất ngưởng” trong toàn bài.
Nhân cách nhà nho chân chính của Nguyễn Công Trứ thật khác thường, khác người làm nên nét độc đáo riêng. Nếu như những nhà nho khác khi đã thi đỗ làm quan thì suốt một đời cố gắng cho hoạn lộ công danh nhưng với ông khi đã làm tròn bổn phận “bề tôi”, trọn phận sự của mình với đất nước ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc. Ông quan niệm “cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”, ông hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có. Ngày xưa các quan lớn đi đâu thường đi bằng ngựa hoặc có kiệu rước nhưng Nguyễn Công Trứ lại ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đạc ngựa: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là thế. Người đời có kẻ bảo ông ngông nghênh, lập dị, kẻ lại cho rằng ông cao ngạo coi thường dư luận nhưng đây là một lối chơi ngông khẳng định cái tôi của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được “giải tổ chi niên”, được tự do thoát khỏi “cái lồng” làm quan tù túng, giam hãm tâm hồn cá nhân tác giả.
Ông cáo quan về ở ẩn với cái cách sống khác, tận hưởng thú vui của mình. Nếu người ta đến chùa là để lễ Phật, cầu may cầu lộc cầu tài thì ông lại đến bày tiệc ca hát, có cả ả đào đàn trống theo sau:
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay Kiếm tay cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Chỉ với bốn câu thơ cho thấy nhân cách đối lập của nhà nho. Kiếm cung, binh đao mà lại từ bi được sao? Viếng chùa chay tịnh, thanh tục mà lại đem theo ả hầu? Những điều đó tưởng chừng là bất kính, vô lễ nhưng lại khiến Bụt cũng phải cười độ lượng trước ông quan già tính khí khác người.
Ông coi thường danh lợi, chẳng bận tâm đến được mất khen chê ở trên đời mà:
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục”
Còn người ông ở nơi trần tục mà tâm hồn thoát tục bay vút lên trên cao với âm điệu rộn rã của giọng ca, tiếng đàn. Đối với ông thú vui của bản thân mới là hạnh phúc đáng được quan tâm mọi sự cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê không còn quan trọng, coi nó không tồn tại ở trên đời. Dù cho cuộc vui chơi của ông đang được thực hiện ở nơi cửa Phật, có cả đôi dì theo sau nhưng ông thấy mình vẫn thanh sạch và thoát tục không vướng bận Phật tiên. Những câu thơ trải dài nhịp điệu thênh thang, thanh thoát với cách ngắt nhịp 2/2/2/2 linh hoạt thể hiện được tâm hồn, tấm lòng mênh mông rộng mở, phóng khoáng theo kiểu khác thường của con người đã ngoài vòng cương tỏa.
Ông ngông ghênh tự đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc bên Trung Hoa:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”
Ông hành lạc vui chơi với đời nhưng vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống, làm việc và cống hiến hết mình đồng thời cũng biết hưởng lạc, tận hưởng niềm vui mà cuộc đời ban tặng. Câu thơ cuối ông tự tin khẳng định trong triều không có ai được như ông.
Tuy là ngất ngưởng, là ngông nghênh nhưng ông vẫn luôn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Cùng với suy nghĩ khác người và có tầm nhìn xa trông rộng như ông là Cao Bá Quát nhân cách nhà nho chân chính cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” Thánh Quát coi thường danh lợi, công danh trong bối cảnh thời đại phong kiến thối nát đang bước vào “cơn hấp hối”, ông coi những kẻ ham danh lợi xưa nay tất tả ngược xuôi bon chen cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon tranh nhau đổ xô đến có mấy ai tỉnh táo để thoát ra được sự cám dỗ. Ông đi trên cát mà cứ nghĩ như mình đang bước trên con đường công danh bị sa lầy, khổ cực. Để rồi nhà nho ấy phải cất lên câu hỏi cuối cùng “Anh đứng làm chi trên bãi cát?” điều ấy đã lí giải phần nào nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đứng về phía nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.
Bài ca ngất ngưởng” thể hiện cái tôi ngất ngưởng độc đáo trong tính cách khác thường của Uy Viễn đại nhân. Ông không cột chặt mình vào lễ giáo nho gia, luôn tự do phóng khoáng với thú vui của bản thân. Những gương mặt tiêu biểu của nhân cách nhà nho chân chính như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã góp phần làm nên bộ mặt mới cho các nho sĩ lúc bấy giờ.
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 3
Trong khoảng cuối thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX , Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông sống một cuộc sống nghèo khó. Cuộc đời của ông cũng gặp biết bao sóng gió, thăng trầm “lên thác xuống ghềnh”. Ông là một người tài giỏi, hiểu biết nhiều về các lĩnh vực quân sự, khoa học. Thế nhưng ông “Hi Văn” người Hà Tĩnh ấy có lúc đang giữ chức quan cao thì bỗng dưng bị giáng chức, chốn công danh như đang chơi đùa với Nguyễn Công Trứ. Vậy nên ông mới “ngất ngưởng”, mới khinh thường, ông làm nổi bật một nhà nho “khác thường” trong tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của mình: Một nhân cách nhà nho chân chính không theo khuôn mẫu.Theo quan niệm cũ của xã hội phong kiến xưa, nhà nho là người học rộng, biết nhiều. Một đấng nam nhi với đầy đủ công danh, đạo đức. Một con người vẹn toàn, hoàn hảo. Dĩ nhiên, Nguyễn Công Trứ cũng có được những điều ấy vì đã ông được học, thấm nhuần tư tưởng Nho học từ truyền thống gia đình.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”
“Bài ca ngất ngưởng” là một bài thơ theo thể hát nói còn gọi là ca trù, được tuân theo một qui tắc nhất định. Nguyễn Công Trứ đã thay thế hai câu chữ Hán mở đầu bằng một câu chữ Hán “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu chữ Nôm “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” tạo một nét độc đáo.
Theo ông, trong vòng trời đất này không có cái gì thuộc quyền sở hữu riêng của một người. Ông đỗ đạt, làm quan và dung tài, đức của mình để cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Thế nhưng, ông dung từ “vào lồng” để thay thế cho việc làm quan, ông bị gò bó vào một khuôn mẫu. Nguyễn Công Trứ là một nhà nho chân chính khi ông đỗ đạt và từng giữ nhiều chức quan cao như Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc đông. Tư tưởng của một nhà nho học sách thánh hiền sẽ buộc ông phải có một thái độ khiêm tốn dù mình có tài giỏi đến đâu. Vậy mà ông đi ngược cái điều ấy, ông phá vỡ cái bức tường vững chắc của luật lệ Nho học để thể hiện thái độ sống của chính mình, một phong cách rất Nguyễn Công Trứ. “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng” ông tự tin, mạnh dạn cho mọi người biết cái tài cầm binh, thao lược của mình. Ông không khiêm tốn mà có phần ngang tàng, tự kiêu khi thêm vào chữ “ngất ngưởng”. “Ngất ngưởng” là rất cao, ông dung từ đó để nêu bật cái phong cách sống của ông. Một phong cách sống vượt bậc, hơn người, thật “ngất ngưởng”! Trớ trêu thay, cái xã hội phong kiến xưa, cái suy nghĩ hà khắc của Nho giáo phải chăng ghét cái suy nghĩ cách tân như ông nên cứ hết giáng chức làm một người lính quèn rồi lại lên chức đúng với năng lực của ông. Lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên và ông đã kết thúc trò chơi “công danh” ấy khi lui về chốn thường dân.
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”
Ông cáo quan về quê, thoát khỏi chốn quan trường năm 1848. Đó cũng chính là thời điểm ông sáng tác bài thơ này. Ông cho mọi người biết rằng Nguyễn Công Trứ đã hết làm quan, đã được tự do, thoát khỏi “cái lồng” làm quan. Hành động của ông lúc từ quan đã làm nổi bật được cái ngông có trong con người ông khi khác với những ông quan về ở ẩn bằng ngựa, ông lại quyết định về quê bằng một con bò vàng có đeo nhạc. Ông “ngất ngưởng” ngồi trên lưng bò được mọi người nhìn theo bằng con mắt hiếu kì, ngạc nhiên. Con bò cũng trở nên “ngất ngưởng” nhờ Nguyễn Công Trứ! Câu thơ tiếp theo hiện lên là một phong cảnh tuyệt đẹp, thần tiên “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Nguyễn Công Trứ đã dựng nhà và sống dưới chốn thần tiên ấy- núi Đại Nại. Tưởng rằng khi về ở ẩn, ông sẽ sống một cuộc sống giản dị, thanh nhàn theo phong cách của nah2 Nho. Thế nhưng, ông đã làm một việc trái luật của nhà tu, hành xử không đúng với việc ông được học. Những cô hầu gái đủng đỉnh đi theo ông tới chốn tu hành, lại còn ca hát, đánh đàn vậy mà các nhà sư lại làm lơ phải chăng vì nể ông từng giữ một chức quan cao khi hết thời mới phải sống ẩn dật thế này. Hành động của ông khiến Bụt cũng phải nực cười, cười cho cái hành động “lạ”, ngông cuồng và “ngất ngưởng”.
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục.”
Hai câu thơ nhịp 2/2/2 và 2/3 tạo âm hưởng cho bài thơ. Nó còn nhấn mạnh được việc Nguyễn Công Trứ dù đi chùa mà lại dẫn theo hầu gái, lại còn gảy đàn và ca hát nơi tôn nghiêm thế nhưng ông không thuộc về nơi trần tục ấy, ông không vướng vào thói hư tật xấu vì ông là một nhà nho chân chính. Cao hơn đó là ông “ngất ngưởng” hơn trần tục, hơn những đỉnh núi cao danh vọng, ông vượt qua Phật, hoa tiên. Nguyễn Công Trứ rất riêng, không giống bất kì ai.
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.”
Ông nêu bật suy nghĩ của mình- “được” và “mất” là hai chuyện thường tình trong cuộc sống. Ông không buồn khi “mất” cũng chẳng vui khi “được”. Ông chấp nhận những gì cuộc sống mang lại cho ông dù đó là “được” hay “mất” cũng không quan trọng. Cùng với quan niệm “được – mất”, “khen – chê” cũng được Nguyễn Công Trứ suy nghĩ theo một hướng tích cực, không quan trọng.
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.”
Hai câu cuối kết thúc bài thơ cũng đồng thời nhấn mạnh một lần nữa phong cách của ông. Ông tự liệt mình vào hang danh nhân, những người tài giỏi. Nguyễn Công Trứ kết thúc với khẳng định và kết thúc “Trong triều ai ngất ngưởng được như ông”. Đó là phong cách riêng biệt của nhà thơ.
Cùng với một cách nghĩ khác về nhân cách nhà nho chân chính là Cao Bá Quát trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn đi trên cát) thể hiện tầm nhìn xa rộng của mình. Cao Bá Quát coi thường danh lợi, công danh trong xã hội phong kiến xưa đã bị thối nát. Đi trên cát mà cứ nghĩ mình đang đi trên đường công danh, bị sa lầy trong cát như vướng vào công danh. Một suy nghĩ sáng tạo, cảnh báo công danh là bả mồi mà con người không nên vướng vào. Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đã có những suy nghĩ rất độc đáo tuy đã bị “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ cái sự khác biệt, “ngất ngưởng” trong suy nghĩ của ông về một nhà nho chân chính. Ông không ép mình bị trói buộc, đóng khuôn theo tư tưởng Nho học lỗi thời. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên cái tôi, phong cách sống thật lạ, đặc trưng của riêng ông Hi Văn mà thôi. Chính Nguyễn Công Trứ, hay Cao Bá Quát hay những người có suy nghĩ như ông Hi Văn đã tạo nên một bộ mặt mới cho Nho học.