Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương, Bài văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác của Viễn
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài phân tích thường gặp trong chương trình học Ngữ văn lớp 9.
Hi vọng tài liệu này giúp các bạn tự ôn tập kiến thức ngữ văn phục vụ cho học tập cũng như chuẩn bị cho thi giữa kì, thi cuối kì, thi vào lớp 10. Mời các bạn tham khảo và tải tài liệu tại đây.
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác – Mẫu 1
Khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài Bác. Bao tình cảm ấp ủ bấy lâu, nên khi bắt gặp bóng dáng thân yêu của Bác là trào dâng thổn thức.
Khổ thơ thứ ba là những cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài Bác. Bao tình cảm ấp ủ bấy lâu, nên khi bắt gặp bóng dáng thân yêu của Bác là trào dâng thổn thức. Hình ảnh Bác nằm trong lăng được diễn tả rất xúc động qua hai câu thơ:
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Câu thơ gợi được sự yên tĩnh, trang nghiêm, ánh sáng dịu nhẹ trong lành và hình ảnh đẹp đẽ của Bác. Bằng tình cảm, nhà thơ thấy Bác như đang ngủ trong giấc ngủ bình yên giữa thiên nhiên đẹp và thơ mộng, Bác vẫn ở cùng ta, như nhà thơ Hải Như đã viết:
Suốt cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu
Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ
(Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác Hồ ơi)
“Vầng trăng sáng dịu hiền” là ánh sáng của tình thương mến, nâng niu, vầng trăng ấy như ru Bác ngủ. Giấc ngủ của Bác là giấc ngủ trong tình thương yêu. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh cũng đã viết:
Trong lăng Bác vừa chợp nghỉ
Như sau mỗi việc làm.
Trăng ơi trăng biết thế
Nên trăng bước nhẹ nhàng.
(Trăng lên)
Hình ảnh vầng trăng dịu hiền cũng gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.
Đến đây, cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi xót đau không thể kìm nén:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
“Trời xanh” cũng như “mặt trời”, “vầng trăng” là những hình ảnh của vũ trụ kì vĩ, vĩnh hằng, là ẩn dụ sâu xa gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn ở Bác. Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi (Bác sống như trời đất của ta Tố Hữu). Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, dân tộc. Sự nghiệp của Người là bất tử. Dù vẫn tin như vậy, nhưng tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát thực tế, trái tim vẫn đau nhói khi nghĩ rằng Bác không còn nữa. Nỗi đau xót được biểu hiện cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Đó là nỗi đau vô hạn, là lòng thương xót rất thật, không lí do nào khuây khỏa được. Đó là tình cảm của đứa con về muộn bên di hài người cha.
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác – Mẫu 2
Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già đáng kính của cả dân tộc Việt Nam. Vì thế, sự ra đi của Bác là một sự mất mát to lớn của toàn thể dân tộc. Đã có rất nhiều vần thơ thể hiện lòng nhớ thương của những người con Việt Nam đối với Bác. Tuy là một bài thơ ra đời khá muộn, nhưng “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương vẫn để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng, bởi đó là tình cảm của một người con miền Nam lần đầu được gặp Bác. Toàn bài thơ là một lời tâm sự thiết tha, là nỗi lòng thành kính và tha thiết của một người con miền Nam đối với Bác Hồ. Nhà thơ thể hiện tình cảm thiết tha của một người con miền Nam rõ rệt nhất ở trong khổ 3:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.
Khổ thơ thứ ba tiếp tục diễn tả trình tự vào lăng của dòng người nhưng khoảnh khắc bây giờ là tác giả được đứng chiêm ngưỡng Bác trong lăng. Cảm xúc dồn nén, chất chứa thương yêu đem lại sự lắng sâu về vẻ đẹp tâm hồn Bác. Ở trên, Bác được so sánh với “mặt trời” thì ở khổ này Bác lại được đặt vào ánh sáng “vầng trăng”.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Thực ra, vầng trăng này là một liên tưởng sáng tạo của Viễn Phương, bởi lẽ trong lăng nhưng tâm hồn Bác luôn có vầng trăng tri kỷ. Tâm hồn Bác là tâm hồn thi nhân, trăng từng làm bạn với Người trong bao bài thơ khi bị giam cầm, lúc đi kháng chiến… nên giờ đây khi Người vào “giấc ngủ bình yên” thì dường như trăng lại toả sáng cốt cách thi nhân của Bác. Toát lên từ khuôn mặt Bác là vẻ đẹp mà tác giả cảm nhận như giấc ngủ bình yên, giấc ngủ của con người thanh thản vì đã làm tròn sứ mệnh với dân tộc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình. Nhà thơ sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh không chỉ để giảm nhẹ nỗi đau trong lòng những người con Việt Nam, mà còn để ca ngợi sự ra đi nhẹ nhàng mà thanh thản của Bác. Không gian trong lăng Bác ngời sáng một ánh sáng dịu hiền, như ánh sáng của vầng trăng, người bạn tri kỷ của Bác. Câu thơ gợi cảm giác nghiêm trang, đến lúc đó mới cảm thấy nỗi đau mất mát.
Trong khoảnh khắc thiêng liêng bên cạnh Bác, một cảm giác đau xót bất chợt trỗi dậy trong lòng nhà thơ:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Tác giả nghĩ về “trời xanh” cũng có nghĩa là nghĩ đến thời điểm đất nước thanh bình, nhưng cũng là cách ẩn dụ nói về con người Bác đã hoà nhập vào vũ trụ vĩnh hằng. “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ ngợi ca lối sống đẹp của Bác. Hai dòng thơ cho thấy rõ sự đối lập trong suy nghĩ và tình cảm. Nhà thơ và mọi người vẫn biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng sự ra đi của Bác vẫn là một mất mát to lớn cho mọi người và đất nước Việt Nam. Nỗi đau quá lớn, vì vậy mà mọi lập luận đều trở nên vô nghĩa.Ý thơ này giống như câu thơ của một cao tăng Nhật Bản là thiền sư Ryokê Osini từng viết:
Trời xanh đón người cứu nước về
Đau lòng chúng sinh trên đường mê
Xưa nay hiếm bậc lão anh kiệt
Chiếc lá thu bay trời ủ ê.
Nỗi đau là có thật, xuất phát từ sâu thẳm trái tim của đứa con miền Nam ra thăm Bác ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Đây là lần đầu tiên Viễn Phương được gặp Bác. Trong suốt những năm đất nước bị chia cắt, nhân dân miền Nam quyết tâm chiến đấu, ai cũng mong có lúc:
“Miền Nam chiến thắng mơ ngày hội
Đón Bác vào thăm thấy Bác cười”
Nhưng, niềm mong ước ấy không bao giờ thành hiện thực. Bác đã ra đi khi chưa thực hiện được niềm mong ước cuối cùng là vào Nam gặp mặt đồng bào, những người con vẫn ngày đêm mong nhớ được gặp mặt Bác.
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Vì vậy, sự ra đi của Bác là một mất mát to lớn không gì bù đắp được đối với một người con Nam Bộ như Viễn Phương. Ngày hội non sông không chứng kiến nụ cười của Bác rạng rỡ,.
Khổ thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha. Với giọng điệu và những hình ảnh ẩn dụ giàu tính biểu cảm đã thể hiện tình cảm chân thành, thiết tha, sâu sắc của nhà thơ và đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc. Bác tuy đã đi xa nhưng những phẩm chất cao đẹp, sự cống hiến to lớn, cao cả và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Bác sẽ luôn sống trong hàng triệu trái tim của những người con đất Việt.
Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác – Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới – Người đã cống hiến trọn đời vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Bác ra đi khi bước sang tuổi 79, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ, nhà văn đã viết về Bác bằng niềm trân trọng, xót thương vô hạn, trong đó “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Bài thơ thể hiện cảm xúc của nhà thơ cũng như người dân Nam bộ ra viếng lăng Bác đều bồi hồi, xúc động.
Khi hòa vào dòng người cùng nhau vào viếng lăng Bác, khi nhìn thấy Bác nằm ngủ ngon thì cảm xúc của nhà thơ lại được đẩy lên cao, niềm cảm xúc đó được thể hiện rõ trong khổ 3 của bài thơ “viếng lăng Bác” của Viễn Phương:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền”
Viễn Phương nhìn thấy Bác và miêu tả bằng phép nói giảm, nói tránh. Câu thơ nói lên sự bình yên, thanh thản của Bác Hồ trong giấc ngủ ngàn thu, phải là một người sống có ích, hy sinh cho nước, cho dân, vì thế đến phút cuối người ra đi mà không hề ân hận, tiếc nuối. Vì thế dù đã về cõi vĩnh hằng, người say giấc ngủ ngàn thu mà chúng ta vẫn thấy được sự bình yên, thư thái, thanh thản. Bác vẫn chỉ “ngủ” mà thôi, ý nói là Bác vẫn còn sống mãi cùng chúng ta.
Nhìn vào giấc ngủ của Bác mà ta có thể liên tưởng tới một vầng ánh sáng dịu dàng bao phủ quanh nơi Bác nằm, vầng sáng ấy giúp nhà thơ liên tưởng tới vầng trăng. Vầng trăng vốn là người bạn tâm giao của Bác, trong suốt cuộc đời của mình, bác đã nhiều lần trò chuyện, tâm sự và làm thơ cùng với và về trăng, trăng là hình ảnh dịu nhẹ, thanh tịnh. Những vần thơ đẹp của Bác về vầng trăng vẫn nói cho chúng ta về tình yêu thiên nhiên, về tâm hồn thi sĩ, về niềm lạc quan, yêu đời, vui sống của Bác. Và khi Viễn Phương nhắc tới hình ảnh “vầng trăng” đã cho ta liên tưởng tới tâm hồn cao đẹp, lãng mạn và trong sáng của Bác Hồ.
Nhìn thấy Bác nỗi đau của nhà thơ không thể nào kìm nén:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Tác giả sử dụng hình ảnh “trời xanh” để nói tới sự bất tử của Bác. Con người ai cũng vậy đều phải theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử nghĩa là ai được sinh ra, lớn lên và già đi, rồi đến lúc mất, đi vào thiên thu, cõi vĩnh hằng, Bác cũng không ngoại lệ. chúng ta ai cũng biết rằng Bác đã mất những hình ảnh của Bác vẫn sống mãi tro ng trái tim dân tộc Việt Nam, Bác vẫn luôn luôn song hành và dõi theo từng bước đi của dân tộc. Thế nhưng nhận thức là như vậy nhưng trái tim vẫn có lý lẽ riêng của nó, trái tim của nhà thơ vẫn nhói đau, “nhói” là sự biểu cảm như nỗi đau xót đến xé lòng của tác giả.
Tác giả sử dụng từ ngữ biểu cảm, phép đối lập giữa lý trí và cảm xúc thể hiện một cách trực tiếp nỗi đau xót, niềm tiếc thương của nhà thơ, nỗi đau ấy bất chấp cả nhận thức của lý trí, của con tim và tưởng rằng dường như có thể xoa dịu được nhưng thật sự nó vẫn đau, nỗi đau không thể nào kìm nén được.
Giáo sử Trần Đình Sử cũng đã cảm nhận rất hay về hai câu thơ trên: “dù biết Bác vẫn sống vĩnh hằng như trời xanh, thì cũng không che giấu được sự thật mất mát, đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào”
Một con người có tâm hồn thanh bạch, sáng trong đã cống hiến cả cuộc đời mình cho nước non, cho dân tộc, khi người ra đi, niềm tiếc thương vô bờ bến đã khiến những người con như Viễn Phương ra thăm Bác mà trong lòng không day dứt nỗi đau, dù đã cố kìm nén nhưng đứng trước Bác thì nó cứ tự tuôn ra và không ngừng được. Vẫn biết Bác là trường tồn, là vĩnh cửu vậy sao vẫn đau nhói ở trong tim, ai cũng thế, nhà thơ cũng vậy dù đã dặn lòng mình không cho phép bản thân được khóc trước Bác nhưng thực tế không làm được.